Giảng Lược Đề Cương Kinh Pháp Hoa
Kinh
Pháp Hoa là một bộ kinh trọng yếu. Theo chương trình tu học của thiền viện,
sau khi các thiền sinh đã học qua những bản kinh căn bản, thì học tới kinh
Pháp Hoa. Đáng lẽ chúng ta học nguyên bản kinh Pháp Hoa, nhưng bộ này đã
được Hòa thượng Ân sư giảng giải rồi. Để chư huynh đệ nắm được cương lĩnh
toàn bộ kinh, chúng ta học thêm Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương
yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của
thiền sư Việt Nam, giúp chúng ta thấy rõ chỉ thú của thiền thông rất sâu
sát với lời Phật dạy.
Kinh
này qua các thời được rất nhiều vị tôn túc nghiên cứu, dịch thuật, giảng
giải, chú sớ. Về phương diện thọ trì, Phật tử Việt Nam đa số đều thọ trì
kinh này. Cho tới bây giờ, bản dịch kinh Pháp Hoa của Hòa thượng Chủ tịch
Phật giáo Việt Nam đã in ra rất nhiều lần, được lưu hành rộng rãi trong
các giới học Phật Việt Nam. Cho nên nói đến kinh Pháp Hoa thì hàng Phật tử
không ai không biết.
Quyển Pháp Hoa Đề Cương do thiền sư Minh Chánh soạn. Sư là người Việt Nam
sống vào thời Nguyễn, tu theo tông Tào Động đàng ngoài, một trong những
tông phái Thiền từ Trung Hoa truyền sang nước ta. Đề cương này ra đời
khoảng năm 1819, được đưa vào Phật Điển Tùng San, là một trong mười tác
phẩm của bộ sách quý ấy, do Hội Phật giáo Bắc kỳ chủ trương biên tập, khắc
bản.
Từ
thời chấn hưng Phật giáo, ba miền Bắc Trung Nam của nước ta, mỗi nơi đều
có Hội Phật giáo. Hội Phật giáo này gồm hai giới xuất gia và tại gia.
Người xuất gia nằm trong “Giáo hội Tăng-già”, người tại gia nằm trong “Hội
Cư sĩ Phật học”. Ở Bắc kỳ có Giáo hội Phật giáo Bắc kỳ và Hội Cư sĩ học
Phật Bắc kỳ. Ở Trung Việt có Giáo hội Phật giáo Trung Việt và Hội cư sĩ
học Phật Trung Việt. Ở Nam Việt có Giáo hội Phật giáo Nam Việt hay Giáo
hội Tăng-già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt. Hai giới tăng tục, đệ tử
của Phật cùng tu học và xương minh giáo pháp của Như Lai.
Năm
xưa ở Thiền viện Chân Không, Hòa thượng dạy kinh Pháp Hoa, ngài có bộ Phật
Điển Tùng San. Nhân tìm hiểu lịch sử cũng như tất cả những bản sớ giải
kinh Pháp Hoa của Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đưa bản Pháp Hoa Đề Cương
này ra, dạy chúng tôi phiên dịch, sau đó ngài hiệu đính rồi cho in năm
1972. Đây là một quyển sách dễ đọc và học, vì vậy thay vì học nguyên bản
kinh Pháp Hoa, tôi giảng giải quyển Pháp Hoa Đề Cương này cho chư huynh đệ.
Vị nào muốn tìm hiểu nguyên bản thì tham khảo nơi bản giảng giải kinh Pháp
Hoa của Hòa thượng Viện Trưởng. Như vậy là chúng ta có đầy đủ tài liệu về
kinh Pháp Hoa để nghiên cứu, nắm được tôn chỉ ý thú của kinh. Từ đó chúng
ta có thể nhận ra tri kiến Phật nơi chính mình. Đó là mục tiêu mà đức Phật
ra đời muốn chỉ dạy cho tất cả chúng ta. Đồng thời cũng là chủ ý của chúng
tôi muốn cùng chư huynh đệ học lại diệu nghĩa kinh Pháp Hoa, ngõ hầu tiến
sâu trong công phu tu tập, thực hiện hoài bão tha thiết nhất của một người
tu, đó là giác ngộ giải thoát thành Phật.
Trong nguyên bản Đề Cương này, có nhiều phẩm tác giả chỉ nói tóm lược, mà
không nêu rõ tên mỗi phẩm. Vì muốn tiện lợi cho việc tham khảo của quý độc
giả, dịch giả tự ý ghi thêm tên mỗi phẩm, theo thứ tự của mục lục toàn
kinh. Ngoài ra, khi gặp những danh từ chuyên môn, dịch giả chú thích ra.
Trong nguyên bản có những khoảng thượng nhân Minh Chánh xưng tán danh hiệu
Phật như Nam mô Quá Khứ Đa Bảo Như Lai hoặc Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni
Phật v.v… Khi bản dịch đang trôi chảy mà xen danh hiệu Phật vô như thế,
chúng tôi thấy không suông, lại làm loảng mất ý chính của kinh, nên chúng
tôi xin lược bớt. Như vậy, trình tự và ý thú của toàn kinh được liên tục,
và quý vị theo dõi dễ dàng. Sau cùng, dịch giả dẫn thêm mục lục toàn kinh
theo bản dịch của Hòa thượng Trí Tịnh, tức Hòa thượng Chủ tịch Giáo hội
Phật giáo Việt Nam ngày nay.
Trước khi đi vào nội dung bản kinh, tôi có viết hai dòng:
Cung kính dâng lên Thầy,
Người chỉ con lối sống.
Và
một bài thơ chữ Hán, sau này được dịch ra Việt ngữ, nói lên lòng quy
ngưỡng cảm trọng ân sâu của tôi dâng lên Hòa thượng Tôn sư.
Ba
mươi năm trôi giạt.
Chả
biết ta là gì!
Quày đầu trông lối cũ,
A
đấy, chính ta đi!
Năm
tôi lên Chân Không khoảng 28, 29 tuổi, dịch kinh này vào năm 30 tuổi.
Trước khi lên Chân Không, tôi là một học tăng đang theo học ở Đại học Vạn
Hạnh, cũng giong ruổi ngược xuôi như tất cả anh em trang lứa, nhất là giới
sinh viên học Phật thời ấy. Cùng học với chúng tôi không chỉ có sinh viên
Tăng Ni trẻ, mà nhiều vị Bác sĩ, Dược sĩ, Giáo sư v.v… thành phần trí thức
lớn tuổi cũng có. Vì hâm mộ Phật pháp nên họ ghi danh học Phật khoa, thành
ra giờ này có đông đảo giới trí thức tham dự. Giới học Phật bấy giờ rất
vui vẻ, lý thú, sinh động. Những năm ở Đại học Vạn Hạnh, sinh viên chúng
tôi chạy ngược chạy xuôi, toan tính chuyện nọ chuyện kia, đủ thứ chuyện
trên đời! Nhưng cuối cùng tôi thấy vào núi đóng cửa tu hành là an toàn
nhất.
Ngày
xưa ở Chân Không, cửa viện khoá lại, ai đến phải giật dây chuông. Thành ra
mỗi khi có Phật tử hoặc thân nhân chư tăng muốn lên thăm rất khó. Giật
chuông xong, thầy Tri khách ra hỏi thấy lý do chánh đáng mới mở cửa. Khách
được mời vào phòng khách, chờ quý thầy gọi thiền sinh được thăm xuống. Nếu
thăm vào lúc không phải giờ học, giờ tọa thiền thì được trò chuyện 15 phút,
nếu nhằm giờ học hoặc tọa thiền thì khỏi thăm luôn. Trong lúc nói chuyện,
thầy Tri khách đem cái đồng hồ đến để trước mặt và ngồi lại đó, hết giờ
thầy sẽ nhắc cho khách biết mà rút lui! Trong núi không lưu khách ở lại
đêm.
Hòa
thượng dạy, ở trước nhà khách có con đường dẫn lên đồi Tự Tại, tất cả các
thiền sinh khi từ giã thân nhân, bước lên đồi Tự Tại chỉ ngó thẳng tới mà
đi, không được quyền ngó lại. Một điều bình thường như vậy nhưng rất khó
làm. Anh em nào đã quen rộn ràng ngược xuôi ở phố thị, lên núi chôn mình
trong hoàn cảnh ấy, có khi bị bức xúc tu không tiến được. Nhưng ai đã
quyết tâm, bước được những bước vững vàng thì sau đó thấy nhẹ nhàng. Mọi
thứ ở trần gian đều xếp lại, gửi cho bà con bên dưới hết, trên núi sống
như tiên. Tuy nhiên lúc đầu khó lắm.
Tôi
là một trong nhóm mười thiền sinh đầu tiên của Chân Không, cũng là người
ba năm đầu không xuống núi. Những người quen đi thăm, tôi tiếp một chút
thôi, vì ngại mình yếu lòng. Ở trên núi trên non, nhờ sự hộ trì của Tam
bảo, sự sắp đặt của Hòa thượng an toàn, nên ba năm đó tôi thấy rất an ổn.
Được gì thì không biết, nhưng quả thực tôi đã cảm khái những vần thơ trên
bằng tấm lòng chân thật của mình.
Ba
mươi năm trôi giạt, chả biết ta là gì! Từ khi mình lớn lên, sinh hoạt, học
hành… tất cả các thứ, cho tới ngày bước vô thiền viện, tôi không biết mình
là gì! Bây giờ nhờ duyên thầy bạn chỉ vẽ, tôi nhận ra mình có cái chân
thật. Từ lâu chúng ta chỉ sống theo bóng dáng hư giả mà thôi, ngược xuôi
theo những âm vang bên ngoài, chưa có phút giây nào dừng lại để đối diện
với chính mình. Các huynh đệ có nhập thất thì biết, bên ngoài sống với
huynh đệ quen rồi, vô thất sống một mình năm ba ngày thôi là thấy đối diện
với một cái gì thênh thang, thấy mình hụt hẫng rõ ràng. Những lúc như vậy
mà hốt hoảng thì dễ điên lắm. Do đó hầu hết các bậc thiện hữu tri thức có
kinh nghiệm bản thân đều dạy chúng ta phải bình tĩnh, gan dạ.
Ngày
xưa chúng ta sống liều mạng với tất cả những thứ nguy hiểm, đồ giả mà dám
ôm, dám giữ, dám đam mê, chấp nhận lao theo. Bây giờ các ngài chỉ cho mình
cái thật. Lúc đầu chúng ta ngỡ ngàng, song nếu ai gan dạ dám bỏ cái giả để
sống với cái thật thì an ổn vô cùng. Tu từng bước, tiến lên dần. Có khi
mình cảm thấy cũng chơi vơi, khó khăn, bức xúc… đủ thứ chuyện vì chúng ta
quen với sự ồn náo. Đừng nản. Cứ cố gắng sẽ có ngày thành công.
Thế
gian này là đồ giả mà hấp lực của nó rất lớn. Nếu trí lực tỉnh giác của
mình chưa mạnh thì cái giả bên ngoài kéo lôi. Người thầy chỉ cho mình nhận
biết được đó là giả, công ơn ấy to lớn sâu dày vô cùng. Bởi một khi ta
biết đồ giả, nhận được cái thật là dừng chân liền. Không có các bậc thầy
thì không ai chỉ mình dừng chân, bôn ba đời này kiếp nọ trầm luân sinh tử,
bị cái giả lôi kéo. Bây giờ nhờ thiện tri thức chỉ cho biết cái thật, ta
dừng chân được, ân ấy xứng gọi là ân cứu tử. Vì vậy, dưới bài thơ, tôi
viết hai chữ Khể thủ (稽
首)
tức là cúi đầu. Chúng ta xin cúi đầu ghi nhận thâm ân của thầy tổ, nỗ lực
tu hành như những gì Phật dạy để đền tạ thâm ơn này. Mong các huynh đệ
cũng như vậy. |