Phẩm Dược Thảo Dụ Và Hóa Thành Dụ
CHÁNH VĂN
Dược thảo dụ là nói căn có lớn nhỏ, trí có chậm mau, cơ có sâu cạn.
Bởi trong chúng Thanh Văn, hoặc nghi rằng pháp Đại thừa này, hạn trí lớn
như Xá-lợi-phất, mới có thể lãnh thọ, bọn ta đâu kham nổi, nên đức Phật
dùng thí dụ mà sách tiến họ. Bảo họ biết pháp ấy có thông cả lớn nhỏ, kẻ
thượng trung hạ trí đều có thể đồng tu, chỉ ở phương tiện chứng đắc có mau
chậm chẳng đồng thôi.
GIẢNG
Có
một số hàng đệ tử Thanh Văn của đức Phật mang mặc cảm mình là hạng căn cơ
thấp kém, trong khi pháp Như Lai nói là pháp tối thượng, không thể áp dụng
viên mãn được. Nghĩa là dù quí ngài khổ công tu cũng không đạt đến chỗ cao
tột. Việc thành Phật chỉ dành cho hạng người căn khí đặc biệt, còn quí
ngài không có hy vọng đó. Đây chẳng qua là mặc cảm thôi, chứ pháp Phật dạy
một vị bình đẳng. Diệu pháp chỉ một vị, vị đó là vị gì? Vị Phật, vị nhất
thừa. Phật chỉ làm một việc duy nhất là dạy chúng ta tu hành để thành Phật.
Song do chỗ áp dụng, do sở hành của mỗi người khác nhau mà pháp Phật chia
ra hoặc sâu hoặc cạn.
Ở
đây chúng ta cũng phải dẹp bỏ mặc cảm. Thật ra đây là loại mặc cảm ngụy
biện mà thôi. Từ mặc cảm này chúng ta tu không tiến. Người có tinh thần
cầu tiến, thấy huynh đệ tu tốt thì mình càng cố gắng tích cực, quyết tâm
hơn. Huynh đệ tu được như thế, mình cũng tu được như thế, không nên mặc
cảm mà trở ngại việc tiến tu. Tuy nhiên chúng ta ít ai được như vậy. Thấy
người hơn mình thì ganh tị hoặc tự rút đầu rút cổ, mặc cảm chắc mình không
có phần, không hy vọng. Không sáng suốt thấy được việc mình phải làm, cứ
loay hoay lẩn quẩn buồn tủi, càng trở ngại cho công phu tu hành, trở ngại
cho nguyện lành của mình. Thật đáng tiếc! Do đó thiền tăng phải dứt khoát
phá tan mặc cảm này.
Phá
tan mặc cảm không có nghĩa là kiêu ngạo, mà chỉ nuôi dưỡng quyết tâm vươn
lên. Người Tây phương nói: “Muốn là được, quyết là thành”. Nếu cái
muốn của chúng ta không chính chắn, không tới mức thì sở nguyện không
thành. Người không có quyết tâm, lơi lỏng, xen tạp những ý niệm vẩn vơ,
suốt đời chẳng làm được việc gì cả. Một khi cảnh duyên bên ngoài xen vô
rồi thì cứ lơ lững qua ngày, mê mờ không sáng suốt, không nỗ lực tu tập.
Cho nên ở đây Phật dạy:
CHÁNH VĂN
Cũng như một trận mưa nhuần thấm khắp hết, mà các cây cỏ hấp thụ có khác
nhau, song nhuần thấm vẫn là một. Tu hành chỉ nương nơi tâm Diệu Liên Hoa
này, một bề hướng thẳng tới trước cũng có lúc đến nhà.
GIẢNG
Một
trận mưa nhuần thấm khắp hết, các cây cỏ hấp thu tuy khác nhau, nhưng cái
nhuần thấm nước mưa là một, chứ không khác. Cây cỏ có khác, cây lớn hấp
thu khác, cây nhỏ hấp thu khác, nhưng sự nhuần thấm nước mưa không khác.
Chỉ nương nơi một tâm Diệu Liên Hoa này tức là nương nơi Tri kiến Phật.
Căn cứ từ chất Phật đó mà tu, mà hành đạo kiên trì, quyết tâm tiến thẳng
thì sẽ thành công.
Chúng ta đã được hấp thu trận mưa pháp của đức Phật, tuy trận mưa pháp đó
cách chúng ta một thời gian đáng kể, trên hai ngàn năm. Nhưng bây giờ
chúng ta vẫn được hấp thu, vẫn nhuần thấm. Chỉ còn một điều là nếu chúng
ta quyết tâm thẳng tiến, không để cho việc tạp xen vào, nhất định chúng ta
thành công. Không lý gì người xưa tu hành thành công, bây giờ chúng ta tu
không được, chẳng lẽ mình đành chịu dang dở sao? Chúng ta phải kiên quyết,
phải thể hiện ý chí thật tốt. Sở dĩ có những xen tạp là do hoàn cảnh riêng
tư, do biệt nghiệp của mỗi người, đó không phải là cái chung. Đừng nên mắc
mứu những thứ đó, hãy gác nó qua một bên, dốc lòng chuyên tâm vào một việc
tu thôi.
Chư
huynh đệ đừng nghĩ rằng chúng ta muốn tu thành Phật, phải là những vị đạo
cao đức trọng, có trách nhiệm lớn, có uy tín, có những đóng góp to lớn cho
Phật giáo. Hiểu như thế là sai lầm. Tất cả chúng ta đều xứng đáng cả. Bởi
vì màu áo, phẩm hạnh, thân tướng trang nghiêm của chúng ta thể hiện tròn
đầy tính chất thanh tịnh giải thoát. Cho nên không thuyết pháp được, chúng
ta vẫn là những vị thầy có trách nhiệm đối với công việc hoằng pháp thông
qua phần thân giáo. Không phải là trụ trì, chúng ta vẫn là những vị thầy
có trách nhiệm gìn giữ giáo pháp của Như Lai thông qua nếp sống đạo hạnh
của mình. Dù không có uy tín, không có đệ tử, không có bổn đạo, nhưng
chính bản thân chúng ta là cột trụ cần thiết giữa cuộc đời này, nói lên
tinh thần đạo pháp, tinh thần tu hành giác ngộ giải thoát của người con
Phật. Tất cả chúng ta đều ý thức và thực hành được như vậy thì đạo pháp
tốt, giáo hội tốt, chùa chiền tốt, tăng đoàn tốt… mọi thứ đều tốt.
Ngày
hôm nay, giữa cuộc sống này, các anh em không đợi thành một ông thầy lớn,
mà ngay khi còn là một tiểu tăng, sống trong ngôi chùa quê chuyên tu như
thế này, thể hiện được dáng dấp, tư cách, nói năng và cư xử với nhau giữa
huynh đệ với huynh đệ, huynh đệ với thầy, huynh đệ với tất cả mọi người
chung quanh, thể hiện tròn đầy ánh sáng Phật pháp, thể hiện là người thấm
nhuần trận mưa pháp của đức Thế Tôn. Đó là điều rất cần với người thật tâm
tu hành. Nếu ở đây, bây giờ chúng ta không làm được việc đó thì ngày mai
dù có lên núi hay xuống biển, đi Tây đi Tàu chi cũng chẳng làm được gì.
Không có chuyện tương lai khi đã đánh mất hiện tại. Những người như thế
rất dễ bị tham dục thế gian như quyền lợi, danh vọng còng trói lôi đi, làm
hư hỏng cả đời tu.
CHÁNH VĂN
Hóa thành dụ là lời dạy thuở trước, nói nhân, nói duyên, nói giới, nói
định. Hàng đệ tử Thanh văn tạm diệt thức tâm, trụ trong khô định, gọi là
Niết-bàn. Kỳ thật chưa viên mãn tuệ tự tại, mà lại dừng ở trong đó, ấy gọi
là dừng nơi hóa thành. Nên trong kinh nói: “Ta dù trước nói các ông được
diệt độ, chỉ hết sanh tử, mà thật chẳng diệt. Nay các ông hãy gắng tiến
lên, chỉ có trí tuệ Phật”.
Thế thì biết, kinh này mục đích là xiển dương Phật tuệ, biểu lộ Phật tri
kiến, khuyên bảo người người cùng tu tiến, thẳng đến đạo tràng tịch diệt,
mới là Phật tuệ rốt ráo, bảo sở của đại Niết-bàn.
GIẢNG
Hóa
Thành dụ là sao? Là Phật lập bày phương tiện tạo ra Hóa thành để cho chúng
sanh bớt ngán trên con đường trở về Bảo sở. Như từ đây về thành phố bảy
mươi cây số, ngán lắm, đi bộ không nổi. Nếu vị dẫn đường không có phương
tiện, ông cứ nói vào tai chúng ta phải đi bảy mươi cây số, mỗi cây số là
bao nhiêu thước, gặp những khó khăn gì, mưa nắng thế nào. Nói như thế thì
chắc không còn ai theo hết, họ sẽ gục ngã dọc đường, sẽ bỏ ông đi một mình.
Trái lại, vị dẫn đường có phương tiện, có trí tuệ, sẽ động viên “Các
anh ráng lên, coi vậy chứ không xa đâu, chân của chúng ta còn khỏe mà.
Đoạn đường này tuy như thế nhưng đến đoạn đằng kia không có bụi bặm chi cả,
tốt lắm”. Hoặc thấy anh em mệt quá, liền dụ “Ráng đi, đằng kia có nước
uống, có võng cho mấy anh nằm nghỉ. Chúng ta gần tới nơi rồi v.v… Cứ như
thế, qua một đoạn lại động viên, dần dần dẫn cả đoàn đi đến nơi đến chốn.
Việc đó không có tội chi cả.
Trong đây đức Phật dùng Hóa Thành để dẫn dắt chúng sanh từ bờ mê dần dần
về đến bến giác. Hóa thành dụ không phải là Bảo Sở. Chữ “Hóa” là
hóa ra, hóa ra cái thành để dụ dẫn mọi người đến đó. Tại vì thấy đường dài,
đoàn người ngán rồi, chân họ bắt đầu lết bết. Phật bảo gần đây có cái
thành, đầy đủ tiện nghi, các ngươi nên mau đến đó để được nghỉ ngơi. Hóa
Thành dụ là như thế.
Khi
mọi người tới được Hóa Thành rồi, nghỉ ngơi khỏe rồi, Phật bảo hãy ráng đi
chút nữa, còn không xa sẽ đến đích cuối cùng. Ở đây chỉ là nơi tạm dừng
chân thôi, không thể ở lâu. Dùng phương tiện hướng dẫn chúng nhân, họ tin
được thì đi tới nơi. Đó là quyền biến của một bậc đạo sư dẫn đường cho
đoàn người của mình đi đến nơi đến chốn. Chúng ta lười nhác nhiều đời
nhiều kiếp rồi, lại không có sự sáng suốt, thích ngủ thích ăn… Do đó chúng
ta cần phải đi theo sự hướng dẫn của các bậc đạo sư. Nếu ngang đây tự cho
là viên mãn thì hỏng.
Đời
sống tu hành của chúng ta, thời gian có là bao nhiêu đâu? Chưa biết hai
mươi, ba mươi hoặc mười năm, năm năm thì hết. Cho nên ở giai đoạn đầu
huynh đệ ráng lên. Còn cư sĩ ráng tu, ráng làm việc cho có công đức, ráng
tập vào nề nếp cho quen, chịu muỗi cắn ngồi thiền cho vững, chay lạt quen
lòng, buông bỏ hết những chuyện đời từ trước đến nay. Phải vứt hết, để
nhuần thấm nếp sống của người tỉnh giác. Qua giai đoạn đó rồi thì sẽ được
xuất gia. Nhưng xuất gia rồi sao nữa? Xuất gia cũng chưa rồi. Phải học,
học dài dài năm năm mười năm. Vị nào tối dạ thì hai ba chục năm. Học rồi
sao nữa? Những gì quí vị đã được học, tiếp thu ra sao, phải áp dụng và
sống cho được với tinh túy ấy. Phần tu tập của bản thân tương đối tạm ổn,
chúng ta còn phải truyền đạt những kinh nghiệm tu tập lại cho người sau.
Đó là nền tảng của sự tu hành.
Từng
giai đoạn với những cung cách sống, nề nếp của các thiền tăng chúng ta là
như thế. Đường dài, dốc ngược, ai mà có tâm niệm tự mãn, không tự chủ thì
chẳng đi tới đâu. Người đó sẽ bỏ cuộc. Cho nên chúng ta phải cố gắng. Hòa
thượng Viện trưởng dạy người tu thiền phải phát tâm trường viễn, phát tâm
kiên cố. “Trường viễn” là lâu xa không nản. “Kiên cố” là dù
có trở nghịch gì cũng không lay chuyển. Dài lâu là một chuyện mà bất động
không lay chuyển là một chuyện khác. Có được những điều kiện đó, đầy đủ ý
chí thì việc tu hành thành công dễ dàng.
Như
các thiền sinh tu ở thiền viện Thường Chiếu mười năm, tiếp thu Phật pháp
hết rồi, sinh hoạt đã nắm vững, đường lối chủ trương không còn lờ mờ,
tương đối vững vàng. Nhưng Hòa thượng không ưng, về Trúc Lâm ở hai chục
năm nữa. Lên đó làm gì? Cũng quét sân, nấu cơm, đào rể thông chụm, mùa
lạnh thì chịu lạnh, mùa nắng chịu nắng. Tưởng gì lạ! Như thế mười năm, hai
ba mươi năm nữa, cho tới chừng nào bình thản an nhiên “Thế à!”
trước mọi thứ. Chừng đó Hòa thượng đuổi xuống núi: “Mấy ông đi đi”.
Xuống đó làm gì thì tùy. Gánh đất, đắp cầu… nhớ là làm mọi việc bằng đèn
tuệ, bằng cái tâm vững vàng, thể hiện đại từ bi, thanh tịnh giải thoát. Ở
thiền viện nào, Hòa thượng cũng đều tập trung nuôi nấng, đào tạo những con
người như thế.
Đối
với những đệ tử xem như có trường lớp rồi, nhưng tự mãn ở chỗ của mình,
nên đức Phật dùng Hóa Thành để nâng các vị ấy lên. Vì vậy sự nhắc nhở hay
những phương tiện sách tấn giúp mình thăng tiến hơn nữa gọi là hóa thành.
CHÁNH VĂN
Kinh này mục đích là xiển dương Phật tuệ, biểu lộ Phật tri kiến, khuyên
bảo người người cùng tu tiến, thẳng đến đạo tràng tịch diệt, mới là Phật
tuệ rốt ráo, bảo sở của đại Niết-bàn.
GIẢNG
Mục
đích của kinh Pháp Hoa là Phật muốn chúng sanh vượt qua Hóa thành, tiến
lên Bảo sở. Trong đây có những từ “Phật tuệ” hay “Tri kiến Phật”
tức là chỉ cho sự giác ngộ giải thoát sau cùng. Nói Phật tuệ hay nói Tri
kiến Phật cũng giống như nói tánh giác. Đức Phật khuyên bảo người người
cùng tu tiến, thẳng đến đạo tràng tịch diệt, đó là Phật tuệ rốt ráo, bảo
sở đại Niết-bàn. Chỗ đó không còn vướng mắc, không có một niệm, không bị
động bởi bất cứ cảnh duyên nào. Người được như thế là người có lực lượng,
có định tỉnh và trí tuệ.
CHÁNH VĂN
Kệ rằng:
Cội, cành, nhánh, lá, số nhiều đa,
Chẳng ngoài ba bậc ấy thôi mà,
Mưa pháp khắp nhuần loài dược thảo,
Phật thừa cùng thọ hội Liên hoa,
Đại thông trí thắng, nhân còn đó,
Bồ-tát Sa-di, chánh hộ gia,
Chớ kẹt Hóa thành, nên tiến lộ,
Ngay đây Bảo sở, chẳng đâu xa.
GIẢNG
Cội,
cành, nhánh, lá, số nhiều đa,
Chẳng ngoài ba bậc ấy thôi mà,
Cọng
nhánh lá thì nhiều nhưng không ngoài ba bậc thượng, trung, hạ.
Mưa
pháp khắp nhuần loài dược thảo,
Phật thừa cùng thọ hội Liên Hoa,
Một
trận mưa pháp các cây cỏ đều được thấm nhuần. Thấm nhuần nhưng tùy theo
mỗi loại. Cỏ thấm nhuần khác, cây lớn thấm nhuần khác. Tuy được nước mưa
thấm nhuần, nhưng mỗi loại cây có khác. Nói khác nhưng không khác chi hết,
tựu trung đều nhắm tới Phật thừa, thấm nhuần chừng nào tới chỗ rốt ráo của
Phật pháp mới thôi.
Đại
thông trí thắng, nhân còn đó,
Bồ-tát Sa-di, chánh hộ gia,
Ở
đây nhắc lại trong quá khứ có đức Phật Đại Thông Trí Thắng, mười sáu vị
Sa-di v.v… là biểu trưng chánh pháp, phát huy hộ trì chánh pháp này.
Chớ
kẹt Hóa thành, nên tiến lộ,
Ngay đây Bảo sở, chẳng đâu xa.
Hai
câu chót là khuyên chúng ta chớ kẹt vướng nơi Hóa Thành mà phải tiến tới
Bảo Sở. Đến Hóa Thành thì biết cách Bảo Sở chẳng còn xa nữa. Tuy nhiên,
nếu chúng ta không nhận được chỗ không cách xa thì sẽ trở ngại cho việc tu
hành của mình. Sở dĩ chúng ta tu không tiến, là vì có quan niệm lâu xa,
mặc cảm làm không nổi. Bởi quan niệm như thế nên chúng ta bị thoái hóa, hư
hỏng, giữa dòng bỏ cuộc. Bây giờ chúng ta phải thay đổi quan điểm bằng
cách thể hiện công phu tu hành, cung cách sống trong sinh hoạt thời thường.
Quyết tâm của chúng ta là thực hiện Phật đạo, cho nên dù hiện tại có những
trở ngại, hoặc các biến thái ngăn cản quá trình chúng ta thực hiện Phật
đạo, mình cũng nhẫn vượt qua. Thiếu đức nhẫn chúng ta sẽ không làm gì được,
chỉ thấy khó khổ, tự sanh thối chuyển. Do đó Phật dạy nhẫn là mẹ của muôn
cửa công đức, nhẫn được sẽ thành tựu tất cả. Ở đây không nói nhẫn mà nói
không cách xa, nó nằm trong tầm tay, chúng ta có thể thực hiện được. Nếu
còn mù mờ chỗ này, chúng ta tu khó tiến.
Sáng
đạo là gì? Là thấy được việc của mình làm, đường của mình đi. Chúng ta làm
không phải bị bắt buộc hay làm mà không hiểu gì hết. Một ngày một bữa, dù
chỉ ghé qua thiền viện một ngày thôi, đường đi nước bước, sự tu hành chúng
ta nắm rõ. Người như thế dễ sáng đạo, dễ nhận ra được việc chính của mình.
Lâu nay chúng ta không nhận được việc sanh tử là gì nên cứ lầm mê. Sợ chết
nhưng lại gây nghiệp để phải chết, thế thì đâu phải là người sáng. Bây giờ
hiểu đạo rồi, mình không sợ chết mà tự tại với cái chết. Quan trọng là
đừng gây nhân để bị chết. Không gây nhân xấu là người sáng đạo, chỉ thế
thôi. Chứ không phải người sáng đạo là người có thần thông bay lên, biết
quá khứ vị lai, hoặc hét một tiếng đảo lộn cả càn khôn vũ trụ, trừng con
mắt lên là đèn đuốc tắt hết. Không phải thế. Người sáng đạo là người tự
tại với tất cả. Trước nhất là tự tại với cái ăn mặc, ngủ nghỉ, làm việc,
tiếp xúc mọi thứ, hoàn toàn tự chủ. Người được như thế thì đối với việc
sống chết luôn bình thản an nhiên.
Nhiều người nói thế này, với tôi sao cũng được hết. Ai nói tôi xấu dở, dốt
nát… cũng được, nhưng chửi cha tôi thì không được. Mới nghe thấy hay.
Nhưng nghiệm lại xem chửi cha với nói những thứ kia có khác nhau đâu. Nếu
người thực sự tự tại được đối với tất cả những hý luận thì vấn đề chửi cha
không là gì nữa. Phải vậy mới được chứ. Hoặc nói sáng bỏ ăn cũng được,
giữa buổi bỏ ăn cũng được, trưa bỏ ăn cũng được, nhưng chiều phải cho tôi
ăn một bữa thật no… thì cũng như không. Chiều ăn chuẩn bị, để rồi sáng
trưa khỏi ăn, chứ có gì lạ đâu. Tự tại là sáng ăn cũng được, trưa ăn cũng
được, chiều ăn cũng được, khi ăn chỉ thấy ăn thôi. Chỉ thấy ăn đây không
có nghĩa là ham ăn, mà dạ dày đòi cung cấp thì phải cung cấp cho nó làm
việc. Nó làm việc để mình yên ổn mà tu. Vậy thôi.
Một
khi đạo lực của các anh em phát triển được rồi, cái cốt bên trong đã vững,
thì mọi thứ chung quanh sẽ chuyển. Bên trong an nhiên tự tại, thì bên
ngoài hiện tướng bình thản giải thoát. Ngược lại bên ngoài bồn chồn, bức
xúc, cau có… chứng tỏ cốt bên trong chưa xoay đúng chiều của tâm an định.
Cho nên phải xoay chuyển bên trong. Dáng vẻ bên ngoài tuy không thật,
nhưng nó thể hiện cái cốt bên trong, do đó không thể xem thường. Nhiều vị
nhân thấy dáng vẻ bên ngoài của các bậc thầy trang nghiêm khả kính mà đến
với đạo. Có người nghe thuyết pháp mà đến với đạo. Có người nghe chư tăng
tu hành thanh tịnh mà đến với đạo v.v... nhiều cách lắm. Tóm lại, trong
ngoài tương ưng nhất như mới được xem là viên dung.
Các
vị nhớ. Từ dáng đi đứng, từ cách đánh chuông đánh mõ, từ cách nâng bát
dùng cơm, cách nói năng, cách cầm dụng cụ đi làm công tác, cách nằm nghỉ,
cách nhìn ngó v.v... tất cả những oai nghi đó đều thể hiện ánh sáng bên
trong của mình. Chúng ta đánh chuông là đánh để cho mọi người nghe và hòa
được tiếng kinh của toàn chúng, đánh mõ cũng vậy. Đánh từ giữa khoảng quấn
nệm vải mới có âm thanh, đánh có lực của cái tay, đánh vừa phải, không quá
lớn cũng không quá nhỏ. Đánh mõ hay khánh tụng trường canh phải cho đều.
Tụng nhanh cũng được, tụng chậm cũng được, tụng lớn cũng được, tụng nhỏ
cũng được, theo nhịp hòa điệu của đại chúng. Người ta tụng lớn mình tụng
lớn, người ta tụng nhỏ mình tụng nhỏ. Người ta xướng giọng trầm mình tụng
giọng trầm, người ta xướng giọng bổng mình tụng giọng bổng, mới là hòa.
Chứ người ta xướng cao mà mình tụng giọng thấp là mất hòa, đánh mõ tụng
nhanh mà mình tụng chậm là mất hòa. Thể hiện một thời kinh được gọi là hòa
âm phải như thế. Một thời kinh được hòa âm, bên ngoài nghe rất hay, lay
chuyển tâm trạng người nghe nhiều lắm. Nếu trong tâm có vấn đề thì quí vị
sẽ đánh nhanh, hoặc trong chúng sắp ngủ gục hết mà quí vị vẫn mơ hồ thả
từng tiếng, chắc chắn lát sau cả chúng nằm bẹp xuống hết.
Kính
lễ cũng vậy. Đức Phật không biểu mình lạy ngài. Tự chúng ta phát tâm muốn
đảnh lễ Thế Tôn mà. Vậy tại sao vào điện Phật rồi không chịu lạy cho đàng
hoàng. Phải kính lễ đàng hoàng chứ! Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ. Cớ sao
mình bày rồi mình không được siêng năng? Chúng ta phải soát xét lại, nhiều
khi tu lâu rồi quen, không còn siêng năng nữa. Sự không siêng năng đó thể
hiện vừa lạy vừa ngáp ngược. Ông ở bên thấy vậy cũng ngáp ngược. Những
hình ảnh ấy xem ra cũng quan trọng lắm, vì nó tác động đến tín tâm của
người Phật tử bên ngoài nhìn vào.
Thời
tu hành của chúng ta luôn luôn có thiện thần hộ pháp, hộ giáo hộ giới, ủng
hộ đạo tràng già lam v.v… Các vị đó luôn luôn có mặt để hỗ trợ mình. Chúng
ta tu hành đàng hoàng người ta mới ủng hộ chớ, nếu tu hành không ra chi ai
thèm ủng hộ mình. Nếu chư vị không hỗ trợ làm sao mình bình yên tu được.
Chư huynh đệ thấy sống hàng trăm mấy chục người như thế này mà bình yên
hết, cơm gạo không thiếu, cũng không có chuyện gì, nhất định là có sự hỗ
trợ của các bậc thiện thần, luôn cả những vị lãnh đạo quốc gia, đàn na tín
thí. Cho nên chúng ta phải tu cho tốt mới xứng đáng và có thể đền đáp được
các ân sâu ấy.
Hồi
trước tôi còn trẻ khỏe nên theo sát chư tăng hướng dẫn từ cách lạy Phật,
tụng kinh, đánh mõ, đánh chuông, đi đứng, ngủ nghỉ… mỗi mỗi đều chỉ vẽ.
Bây giờ tôi già rồi, sức khỏe kém, các anh em lớn phải chỉ dạy lại cho
người nhỏ. Như vậy mới duy trì được mạng mạch Phật pháp, duy trì và phát
huy được tâm nguyện tu hành của chúng ta tới ngày viên mãn, xứng đáng là
hàng đệ tử xuất gia của Như Lai.
Chúng ta đang ở trong giai đoạn Hóa Thành, nếu cố gắng không lâu sẽ đến
Bảo Sở. Mong tất cả ghi nhớ và thực hành cho.
|