Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, Thọ
Học Vô Nhân Ký
Và Phẩm Pháp Sư
CHÁNH VĂN
Hàng Hữu học Vô học(1) đều được thọ ký, cho đến hạng người chỉ nghe một kệ,
một câu, hoặc tùy hỷ cúng dường kinh này, cũng đều được Phật thọ ký cho
đạo Bồ-đề.
(1) Hữu học và Vô học: Các vị chứng từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được
giải thoát còn phải học tập nên gọi là Hữu học. Các vị nào chứng quả A-la-hán
đã được giải thoát thì đối trong pháp Thanh văn không còn phải học tập gì
nữa nên gọi là Vô học.
GIẢNG
Đến
đây hàng Hữu học, Vô học đều được thọ ký. Hạng người chỉ nghe một kệ một
câu, hoặc tùy hỷ cúng dường kinh này cũng đều được Phật thọ ký cho đạo
Bồ-đề.
Hữu
học và vô học là hạng nào? Trong bốn quả Thanh văn, hữu học là từ thứ nhất
cho tới thứ ba, tức Tu-đà-hoàn cho tới A-na-hàm. Quả thứ nhất là mới dự
vào dòng thánh, cũng gọi là quả Dự lưu. Quả này còn phải bảy lần sanh tử
nữa, nhưng không mất chủng thánh. Từ Tu-đà-hoàn qua quả thứ hai là
Tư-đà-hàm. Quả này còn trở lại cõi đời một lần nữa, cũng gọi là quả Nhất
Lai. Từ Tư-đà-hàm qua quả thứ ba là A-na-hàm. Quả này không còn trở lại
cõi đời nữa, cũng gọi là quả Bất Hoàn. Vô học là quả vị cuối cùng thứ tư,
quả A-la-hán, cũng gọi Vô sanh. Chư Tỳ-kheo nào có phúc báo đặc biệt, xuất
gia gặp Phật khai thị liền chứng được quả thứ tư. Có những vị ngay trong
thời Phật, nghe Phật gọi “Thiện lai Tỳ-kheo”, thì viên thành chỗ
này. Có vị tu một tuần lễ, hoặc ba tháng, cũng có vị suốt đời mới chứng
thánh như tổ A-nan.
Bây
giờ những kinh điển thiền như Lăng Nghiêm, Niết-bàn, Bát-nhã, Pháp Hoa,
Kim Cương v.v… Hòa thượng đã giảng rõ. Nhưng mình đội khối âm u tăm tối
nhiều đời nhiều kiếp quá, cho nên tu hoài mà vẫn chưa dự vô hàng nào. Nếu
có thể thì dự vào hàng hữu học mà kể như không chính thức. Vì sao? Vì có
khi lên lớp, có khi không lên lớp, làm sao chính thức, làm sao dự vào hàng
hữu học?
Nghĩa thường, hữu học tức là còn phải học. Vô học là chỗ không còn học nữa.
Vì vô sanh tức không còn bị sanh tử luân hồi nữa thì học cái gì? Chỗ này
định nghĩa như củi hết lửa tắt. Đến đây mọi dây mơ rể má, vọng tưởng đều
bị định lực của các ngài cắt đứt, tuệ giác của các ngài thấy rõ quá trình
trước đó là hầm hố đau khổ, cho nên các ngài không đi lại con đường ấy nữa.
Định thể này là một loại định lực phi thường của các bậc thánh A-la-hán,
ngang ngữa với định lực của các vị Bồ-tát Đệ Bát Bất Động Địa.
Bởi
thế anh em mình cố gắng tu cho tới nơi tới chốn, phải khắc phục để vượt
qua tất cả những khó khăn, rồi sẽ tới nơi. Nhận rõ như vậy, tuy rằng mình
chưa phải là người rỗng rang sáng suốt, nhưng không còn bị lầm đường lạc
lối nữa và có niềm tin vững vàng.
Hạng
người chỉ nghe được một kệ, một câu là ai? Là những vị Bồ-tát, có chủng
tánh đại thừa. Chúng ta nếu được nghe Tri kiến Phật, có chút niềm tin là
biết mình có chủng Phật rồi. Tùy theo mỗi người phát triển nhanh hoặc chậm,
cho tới hôm nay chúng ta được nghe trọn vẹn Tri kiến Phật của chúng ta.
Tri
kiến Phật này nhà thiền gọi tánh giác hay Bản lai diện mục. Chúng ta đã
nghe Tri kiến Phật, bây giờ quay về nhận lại, sống cho được với Tri kiến
Phật của mình. Đó là quá trình công phu của các thiền sinh trong thiền
viện. Nếu chúng ta nhận được như vậy, từ chủng xa xưa, từ niềm tin tự thân,
chúng ta nỗ lực công phu chuyên cần, nhất định có ngày sẽ thành tựu.
Thành tựu cái gì? Thành tựu niềm tin. Ngày xưa chúng ta tin mà không vững,
bây giờ tin chắc hơn. Công phu mau hay chậm tùy vào mỗi huynh đệ. Mau cũng
là việc của chúng ta, chậm cũng là việc chúng ta, chứ không phải của ai
hết. Do vậy ta cảm thấy phấn khởi. Rõ ràng mình có quyền định đoạt cho
việc tu hành của mình. Chúng ta tự nguyện tu, không do sự bắt buộc nào,
không do hoàn cảnh nào, nhất định không thể suy suyễn, chểnh mảng, mất
thời gian thuận lợi của mình.
Biết
như vậy rồi ta không thể ngồi đó đợi cơ hội tốt, không như kẻ ôm cây đợi
thỏ. Người nắm chắc trong tay phương pháp, con đường, việc làm một cách rõ
ràng, trong từng phút giây quyết định thực hiện cho được mục đích của mình.
Sáng tỏ hay lu mờ, tiến hay thoái, đều tùy nơi chúng ta, chứ không do ai
cả. Bồ-tát Thường Bất Khinh có mặt và chỉ đạo trực tiếp cho những người
đang trong quá trình nhận và sống với tánh giác này. Chúng ta có duyên với
Phật pháp nhiều đời nên hôm nay được nghe trọn vẹn về tri kiến Phật. Bao
nhiêu ngôn từ đó, nếu chúng ta nhận và thực hành được là xứng đáng một đời
tu lắm rồi.
Tôi
nghĩ ngày xưa, trong số người mà Bồ-tát Thường Bất Khinh gặp, trong đó
chắc có mình. Có lẽ hồi đó chúng ta nghe ngài nói “tôi không dám khinh
các ngài, vì các ngài sẽ thành Phật”, nhưng ta không tin trái lại còn
hủy báng Ngài, cho ngài là con người mất bình thường nên ta mới chịu trôi
dạt tới bây giờ. Tuy nhiên nhờ được nghe như thế mà ta kết chủng duyên
Phật đến ngày hôm nay.
Chung quanh mình bao nhiêu thứ ràng buộc, vướng mắc, nhưng ta cũng cố gắng
tu tập buông bỏ, đứng lên. Nếu không ta sẽ phải chịu đựng gánh nặng này
còn lâu xa và nhiều hơn nữa.
Thế
thì ta còn ngại gì, còn đợi gì? Chỉ quyết tâm nữa mà thôi. Từ đây dốc lòng
xả bỏ thân này, dũng mãnh cương quyết cắt đứt mọi dây mơ rễ má chung quanh,
tiến lên. Chư huynh đệ tuy đã xuất gia nhưng mỗi vị đều còn có sự ràng
buộc nào đó, chưa mạnh dạn bứt ra được. Người chưa có vợ con thì có cha mẹ,
rồi thân thuộc, bản đạo, bạn bè… Đi từ bắc vô nam quen biết thêm một lô
người dọc đường. Rồi lộ trình từ đây đến cảnh giới Phật còn xa xôi vô vàn,
không biết chúng ta mang thêm bao nhiêu quyến thuộc nữa đây? Chúng ta hiện
diện ở đâu cũng có quyến thuộc, luôn luôn kết chặt với các duyên.
Hạng
người nào cũng có quyến thuộc. Người dù lỗ mãng, xấu xí, răng cỏ xệu xạo…
đủ thứ khiếm khuyết, nhưng không bao giờ bị mọi người ghét bỏ hết. Giả như
trong chúng, một trăm hai mươi chín người ghét cũng có một người thương.
Thầy đó nói chuyện nghe không được nhưng mà có duyên gì đâu! Bởi vậy nên
khổ. Ít khi nào con mắt chúng ta trơn tru. Nó dán tới đâu là có chuyện tới
đó. Người ta đang đi không đụng chạm chi tới mình, vậy mà nói “cha này
sao thấy ghét quá”. Rõ ràng con mắt kẻ mê dán tới đâu thì sinh sự tới
đó.
Tri
kiến Phật hay tánh giác của mình không hề có loại bà con quyến thuộc dính
mắc đa dạng như thế. Nó rỗng rang sáng suốt, nhưng ta chỉ nói mà không
biết. Nói được mà làm không được. Đó là một khuyết điểm vô cùng lớn lao
của người tu hiện nay. Bao giờ chúng ta dám nhận những khuyết điểm đó mới
tiến được. Bên Nho học nói cái nhìn của người quân tử là tự khiêm tự khắc
với mình mà phải khoan dung đại độ với tất cả.
Đức
Thế Tôn đã dạy tánh giác vốn rỗng rang sáng suốt, nhưng chúng ta nhìn ra
ngoài thì âm u tăm tối, quay về mình lại rộn ràng trăm thứ. Thế thì làm
sao giác ngộ? Chuyện không đơn giản bởi vì chúng ta vướng mắc nhiều quá,
đa đoan trăm mối, không chịu buông bỏ thì đừng bao giờ mở miệng nói khoát
về cái rỗng rang sáng suốt ấy. Hồi quí vị mới bước vô cửa thiền viện, chưa
biết Tri kiến Phật là gì, bản lai diện mục là gì. Bây giờ ai cũng thuộc
lòng, nào là từ bi, trí tuệ, Bát-nhã, thiền định, Niết-Bàn, giải thoát,
thanh tịnh… thuộc đủ hết nhưng không áp dụng được cái nào, nguy chưa! Điểm
này mỗi người cần phải nghiệm lại.
Ví
dụ nói từ bi mà mình chưa từ bi, nói trí tuệ mình không có trí tuệ, giải
thoát cũng không, giác ngộ cũng không, chân như bình đẳng cũng trớt. Rồi
sao? Chỉ nói thôi. Chỗ này phải bổ khuyết. Bổ khuyết bằng công huân tu
hành. Như trên đã nói nơi pháp hội ngày xưa chúng ta có dự, bởi có dự như
thế nên đức Thế Tôn thọ ký cho người thời ấy, ngài cũng thọ ký cho chúng
ta. Chúng ta có tánh Phật thì chúng ta sẽ thành Phật. Các vị hãy phấn khởi
như vậy.
CHÁNH VĂN
Bởi được nghe kinh này, dù chưa lên địa vị thánh, nhưng đã thấy chân nhân,
xưa nay trong sạch. Đã có nhân như thế, hẳn được quả như thế. Dụ như có
sẵn châu báu trong chéo áo. Lại như đào giếng ở chỗ cao nguyên, đã thấy
đất ướt, biết chắc rằng nước chẳng còn xa.
GIẢNG
Đây
là những lời quả thật thi thiết, giản dị. Thiền sư thường không nói lời
trau chuốt. Ngài nói giống như đào giếng đến được giai đoạn đất ướt thì
tin sẽ có nước. Mục đích của người đào giếng là để được nước, họ tâm niệm
và chắc chắn như vậy. Công phu tu hành của chúng ta ngày hôm nay cũng thế.
Công phu tu hành bao nhiêu cũng chỉ để thể nhập tánh Phật của mình. Sống
thực, sống lại với cái đó, chắc chắn chúng ta sẽ có niềm tin. Đến nước rồi
thì tha hồ thọ dụng.
Nước
đó là nước gì? Nước pháp, nước cam lồ siêu thoát. Ai chưa nhận, chưa dùng
được nước này thì giống như người đi ngoài sa mạc, chỗ cát nóng bức khi
mặt trời lên. Nếu được sự hướng dẫn đúng đắn, kẻ bộ hành tìm ra chỗ có
nước thì thật sung sướng, tạm qua cơn hiểm nghèo. Còn người quờ quạng
trong cát trắng khô khan, khát cháy cổ không biết đâu là đâu, thì sẽ phơi
xác trên sa mạc. Thành ra nói đào giếng được tới đất ướt là tin tức tốt.
Các
thiền sinh đến thiền viện tu học nếu không có niềm tin, có lẽ các anh em
đã quải gói đi mất, không tội gì mà ở chung trong thiền viện với các quy
chế bó buộc. Ít nhiều gì mỗi chúng ta cũng có nếm được chút nước pháp.
Người nào chưa thưởng thức được cũng nắm chắc trong tay cái tin tức công
phu đào giếng đã đến đất ướt. Có thế ta mới dẹp hết trăm ngàn thứ ngỗn
ngang, an nhiên sống tu hành. Đó là giá trị niềm tin của mỗi chúng ta vậy.
Chắc
rằng chúng ta nhớ mình có viên minh châu cột trong chéo áo, tuy nhiên đôi
lúc lại quên. Lúc nào lén thầy bỏ ngồi thiền bỏ tụng kinh, làm gì đó là
quên quách viên ngọc của mình rồi. Những lúc quên như thế là cà kê, lang
man bên ngoài, đem thêm những thứ cù cặn xấu xí vô, càng chôn vùi viên
ngọc của mình. Quí vị có xem chuyện “Cửa Tùng Đôi Cánh Gài” thì
thấy rõ lắm. Vị tăng mang cái “Mê Ngộ Cảnh” xuống núi, lo rọi bên
ngoài riết mà không rọi mình. Tới chừng rọi lại thì thấy chính mình là ma
quái nanh vuốt dữ dằn, dữ dằn hơn những ma quái bên ngoài nữa. Chết dở
không!
Phật
bảo viên ngọc nắm sẵn nơi chúng ta, vậy tại sao không lấy ra xài? Nó trở
ngại gì, có cần phải đi làm thuê làm mướn mới lấy được viên ngọc đó không?
Không hề. Chỉ đưa tay vô chéo áo lấy ra xài thôi. Chéo áo của mình mà, nó
hiện hữu đó. Phật nói cõi Ta bà này là cõi “Kham Nhẫn”. Ngày xưa
tôi không biết tại sao cõi này lại có tên kham nhẫn. Bây giờ càng tiếp cận
đời sống chung quanh, mới thấy quả thật là kham nhẫn.
Nhìn
thấy các vị lớn tuổi của viện đã sáu bảy mươi tuổi, trung trung khoảng ba
bốn mươi tuổi, trong số ấy tìm một vị hoàn toàn không có chút bệnh, không
hề có. Không nhức đầu cũng sổ mũi, không chân run rẩy thì cũng mắt mờ tai
điếc… nhưng rồi ai cũng kham nhẫn. Tới giờ ăn thì đi ăn, tới giờ tụng sám
hối thì tụng sám hối, tới giờ ngồi thiền thì ngồi thiền, không dám trốn.
Nhiều vị lâu lâu cũng muốn trốn nhưng thấy ngại ngùng quá. Mình vô đây tu
chứ đâu phải vô đây để trốn ngồi thiền tụng kinh. Mỗi lần trốn thấy xấu hỗ
quá, bởi vì việc này mình tự nguyện chớ đâu có ai bắt buộc. Cho nên ráng.
Tới giờ thiền đau lưng cũng ráng, ngủ gục cũng ráng, ẹo một bên cũng ngồi,
đầu quay vù vù cũng ngồi, bị thiền trượng đập ê ẩm cũng ngồi. Tất cả đều
kham nhẫn đi lên đứng lên. Chư huynh đệ anh hùng như thế tôi trân trọng
lắm, cho nên cũng ráng theo quí vị. Mỗi người thể hiện đúng với danh nghĩa
mà đức Thế Tôn gọi cõi này là cõi kham nhẫn. Chúng ta từng phút từng giây
sống kham nhẫn.
Như
trong bản kinh nói, người được hạt châu trong chéo áo, người đào giếng ở
cao nguyên thấy đất ướt v.v… thì tất cả chúng ta đều có phần. Do đó đức
Phật thọ ký cho các hàng đệ tử, trong đó sẽ có chúng ta.
CHÁNH VĂN
Đất ướt là nhân gần của nước, tâm trong sạch là hạt giống của Bồ-đề. Lục
Tổ đại sư khi trao tâm ấn, Ngài từng dạy kệ:
Đất tâm sẵn các giống,
Mưa khắp mầm chồi sanh.
Chóng ngộ, hoa tình sạch,
Bồ-đề quả tự thành.
GIẢNG:
Khi
đất tâm của chúng ta hàm chứa sẵn hạt giống Bồ-đề, thì gặp điều kiện thuận
lợi nó sẽ nẩy mầm. Tất cả hoa tình sạch hết là nói chúng ta đã nhận tới
chỗ viên mãn thì quả Bồ-đề tự thành.
Phật
thọ ký cho tất cả hàng hữu học và vô học, những người có niềm tin khi nghe
một kệ một câu kinh tùy hỷ. Đức Phật quả thật từ bi, không bỏ sót ai hết.
“Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật”. Đó
là một lời thọ ký có thể nói quyết liệt và hiện thực nhất. Phật không thọ
ký cho chúng ta thành pháp sư, Hòa thượng, trụ trì, am chủ… mà là thành
Phật, phấn khởi chưa? Vậy thì chúng ta vững niềm tin rồi.
CHÁNH VĂN
Kệ rằng:
Kiều Trần Như, cùng các bạn thân,
Cả thảy năm trăm nhận một lần,
Hữu học thảy đều sẽ làm Phật,
Thanh văn cũng được chứng Năng nhân,
Nghe kinh cúng dường rõ chân tánh,
Tùy hỷ xét tu, trồng chánh nhân,
Chẳng khác cao nguyên đào tìm mạch,
Thấy bùn biết nước đã kề gần.
GIẢNG
Chư
huynh đệ nhớ, chuyện tu hành là chuyện của mình. Mọi sinh hoạt do tự tâm
chúng ta phát ra, muốn vào nề nếp, bây giờ chỉ còn phải cố gắng thôi. Chữ
gắng nghĩa là sao? Chữ gắng có từ chữ phấn miễn của Hán tự, tức là phải
phấn đấu và chấp nhận vượt qua tất cả khó khăn để thành tựu đạo nghiệp.
Chuyện tu hành là chuyện của mình, chứ đâu phải ai khác, gắng một chút là
được thôi. Mong tất cả ghi nhớ và cùng nhau hành trì cho được tốt đẹp.
|