Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
CHÁNH VĂN
Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bản Sự là nhiếp phẩm trước. Đã vào căn Đại thừa này,
hẳn phải lìa ngã ái pháp ái. Chớ ưa giao du với người, hãy bỏ các nơi ồn
náo, nhiếp niệm ở chốn núi rừng, và phải hết lòng lắng nghe! Kinh Kim
Cương có câu: “Pháp còn nên bỏ, huống nữa phi pháp”.
Nên biết từ phẩm này trở về sau, đều chỉ rõ chỗ Văn Tư Tu ấy, để thứ lớp
mà tiến vào, trục phá năm ấm, hiểu suốt ba không vậy. Nay từ phẩm này
trước phá sắc ấm. Vì sắc ấm là lớp vọng tưởng bền chắc thứ nhất rất khó
phá, nên phải phát tinh tấn lớn, chẳng tiếc thân mạng, mới có thể phá nổi.
Như Bồ-tát Hỷ Kiến đốt thân cúng Phật. Đây nhằm bày tỏ vì đạo quên mình.
Dù vào đống lửa lớn phiền não, mà cũng chẳng thoái thác.
Lại cũng tượng trưng cho người mới vào căn này, trước được nhân không, là
nhiếp động về tịnh, yên trụ trong cảnh tịnh. Sau đó tái sanh, là chứng tỏ
chẳng đắm trước cảnh tịnh. Phải ở trong cảnh tịnh mà phát giác, chẳng rơi
vào hầm tối hôn trầm, khiến cho tánh nghe thường rõ ràng, ánh sáng trí tuệ
lặng lẽ chiếu soi, không như cái lặng lẽ của loài vô tình núi đá kia vậy.
Thiền sư Hoàng Bá dạy:
Chớ chỉ quên mình với tử tâm,
Cái đó khó trị, bệnh rất thâm.
Cần kíp mạnh mẽ cảnh tỉnh lấy! Thân sau lại bỏ hai cánh tay là chỉ cho
động tịnh cả hai đều quên, nhân ngã cả hai đều bặt. Lập thệ hoàn phục như
cũ, đấy để chứng minh là đã được hai cánh tay phước đức trí tuệ của Phật
vậy. Kinh nói: “Do đây, Bồ-tát phước đức trí tuệ và đôn hậu đến thế ấy”.
Nên biết rằng tiết này đồng với kinh Lăng Nghiêm chỗ thứ tự mở sáu gút của
sáu căn.
Kệ rằng:
Nên biết không xưa nay chẳng kham,
Công án tiền nhân cần phải tham,
Nhận kỹ, Dược Vương nhân việc trước,
Xét cùng, Hỷ Kiến hạnh cao thâm,
Nghe kinh được định, bày rạng đức,
Cảm nhận đốt thân bỏ ý tham,
Chứng tỏ nhân không lìa tướng ngã,
Người nghe mãnh tỉnh, kiếm tri âm.
GIẢNG
Phẩm Dược Vương Bồ-tát bản sự là nhiếp phẩm trước. Đã vào căn Đại thừa này,
hẳn phải lìa ngã ái pháp ái. Chớ ưa giao du với người, hãy bỏ các nơi ồn
náo, nhiếp niệm ở chốn núi rừng, và phải hết lòng lắng nghe! Kinh Kim
Cương có câu: “Pháp còn nên bỏ, huống nữa phi pháp”.
Chớ
ưa giao du với người. Chúng ta kiểm lại xem mình đã có được hạnh này chưa,
hay vẫn còn lăng xăng chạy đông chạy tây, giao thiệp chỗ này chỗ nọ v.v...
Người muốn yên mà không tránh duyên thì khó yên lắm. Quí vị thường than
tại sao tu hoài mà không định, không giác ngộ, không có trí tuệ. Trước
nhất phải yên mới có định, định rồi mới sanh tuệ. Không có định mà muốn
tuệ, việc này rất khó. Thành thử muốn được định phải lặng hết những lăng
xăng bên ngoài. Nghĩa là thu thúc các căn khi tiếp xúc với trần cảnh.
Chúng ta tỉnh táo buông bỏ, đừng cho vướng mắc các hiện tượng, các cảnh
duyên bên ngoài. Thực hành được như vậy là hành Bát-nhã, nhất định có trí
tuệ. Có định có tuệ thì việc giác ngộ giải thoát không còn mơ hồ, khó khăn
nữa.
Có
những hạnh rất thường, rất nhỏ nên chúng ta xem thường. Từ đó công phu tu
hành không tiến. Chẳng hạn như việc tránh duyên, đâu có làm gì mà chúng ta
không thực hiện được. Chừng nào mình là người lực lượng, trí tuệ tròn đầy,
sống được với tánh giác, bấy giờ các hiện tượng bên ngoài không xoay
chuyển chúng ta nổi thì mới tự do tiếp duyên. Còn bây giờ phải tránh duyên.
Nếu mình yếu mà cứ lủi tới, thì không có lối thoát. Ban đầu sửa rất dễ mà
chúng ta bỏ qua, không lưu tâm, về sau hỏng cả một đời tu.
Một
cư sĩ học đạo rất nhiều năm, đến trình với Hòa thượng: Phật pháp con hiểu
và cũng có thực hành, nhưng sao con không được an lạc? Hòa thượng hỏi cách
thức tu, áp dụng Phật pháp như thế nào. Ông trả lời: Lúc một mình con tỉnh,
nhưng khi tiếp duyên thì bị kéo lôi. Hòa thượng hỏi khi bị cảnh duyên kéo
lôi làm sao? Vì cuộc sống nên khi cảnh duyên kéo lôi, con cứ để nó trôi
luôn. Hòa thượng nói tu như thế dù một ngàn đời cũng vậy thôi. Mình yếu
đuối thì phải tránh duyên, không tránh duyên làm sao được định tỉnh, làm
sao không khỏi vướng mắc bởi cảnh duyên.
Hãy
bỏ những nơi ồn náo. Chúng ta xét lại xem mình có bỏ được những nơi ồn náo
chưa, hay ở một mình cảm thấy buồn, cảm thấy cô đơn. Có hai ba người trao
đổi việc này việc khác mình thích hơn, vui hơn. Thật ra người tu phải
tránh chỗ ồn náo. Tại sao? Vì sự ồn náo thường làm ta động tâm, che khuất
tánh giác. Chúng ta cứ sống với sự ồn náo, cuối cùng cả đời mình toàn là
loạn động. Thành thử giai đoạn thứ hai của người tu theo tinh thần kinh
Pháp Hoa là tránh chỗ ồn náo. Tránh ồn náo cũng là một cách để thiền sinh
dễ được định, dễ nhiếp tâm.
Điều
thứ ba là phải nhiếp niệm ở chốn núi rừng. Chữ “niệm” là nhớ tưởng.
Ở chốn núi rừng xa thành thị, ở trên cao, không bận bịu phố thị xóm làng.
Người ở núi lòng dễ bình yên. Điều này chúng ta có thể nghiệm được. Như
nhà quí vị ở giữa thị thành, nào là âm nhạc, xe cộ, người qua kẻ lại nhộn
nhịp, ồn ào. Nếu ở trên núi thì không có các cảnh tượng đó. Núi rừng không
khi nào làm ồn mình. Cho nên tâm ta dễ an định, dễ trong lặng. Đây là nói
áp dụng pháp tu với người bình thường. Đối với hạng phi thường thì ở đâu
cũng tu, ở đâu cũng thiền, không cần phải nói núi rừng, không cần tránh xa
sự ồn náo, không cần phải ngăn ngừa sự giao thiệp, tiếp cận với bên ngoài.
Thiền viện chúng ta không ở núi, nên có cổng rào, giờ giấc tập thể đã quy
định, không phải muốn đi giờ nào thì đi. Tại sao phải như thế? Tại vì
chúng ta tu còn dở, chưa thể bình yên trước tất cả sự việc. Chúng ta chưa
phải là người đạt đạo. Bởi vậy việc tiếp cận cần cảnh giác, có khu vực, có
giới luật đàng hoàng. Nhờ có thanh quy, có sự sắp đặt, có thời khóa tu
hành, có bạn hữu tốt, có những duyên thuận, được sự hộ trì của Tam bảo,
huynh đệ tu trong đạo tràng này, giữ gìn được đời sống phạm hạnh, có niềm
tin với pháp tu của mình. Từ đó phấn chấn, phát triển, công phu tiến nhiều
hơn nữa.
Người nào vững niềm tin đối với Tam bảo, nắm chắc chủ trương đường lối tu
hành, chịu khó dụng tâm liên tục, sẽ có lợi lạc ngay trong đời này. Trái
lại, người chưa phải hạng phi thường mà bất cần giới luật, không tuân theo
sự sắp đặt của thiền viện thì tuy mang hình thức người tu, nhưng nội tâm
không an ổn, luôn bị bức xúc, bị kéo lôi bởi cảnh duyên bên ngoài. Người
như vậy, ngay hiện tại không có lợi lạc, tương lai đời sau càng bất an
khốn đốn hơn nữa.
Chúng ta thường bị những cái không thật, không cần thiết làm mất thì giờ.
Lầm nhận nó là của mình, cả đời ôm đồm bảo bộc, gầy dựng, rồi mắc mứu tới
chết. Cứ thế tiếp tục tăm tối tạo nghiệp, loay hoay lẩn quẩn trong vòng
còn mất trả vay, kéo dài luân hồi sinh tử không có ngày cùng. Người tu
thiền là người thấy được thực chất của các pháp, sống được với lẽ thực đó
nên không còn bị những cái không thật quấy rầy nữa, mà không cần xua đuổi
nó. Như đêm tối chúng ta ở trong nhà, thắp sáng đèn lên thì bóng tối tự
nhiên tản mất, không cần đuổi nó đi đâu hết. Chủ yếu là mở được công tắc
cho đèn sáng lên, thì mọi tăm tối đều tan hết. Nó lẫn đi đâu, mình không
cần phải đặt vấn đề.
Ở
đây quan trọng là mỗi người phải thấy được lẽ thực của các pháp, nhận và
hằng sống được với lẽ thực đó, gọi là sống với bản lai diện mục hay tánh
giác của mình. Bấy giờ mọi lầm mê, tăm tối ngược xuôi không cần phải đặt
định, phải gởi nó đi đâu, tự nhiên nó tan loãng hết. Chúng ta không cần
dụng thêm công lực nào để trị nó nữa.
Tóm
lại, ba điều kiện cần thiết của người tu, một là bớt giao du, hai là bỏ
nơi ồn náo, ba là nhiếp niệm ở chốn núi rừng. Hết lòng tu hành, người đó
sẽ được an lạc. Chúng ta không cần đặt vấn đề tu bao lâu, mà muốn an lạc
phải qua những giai đoạn này. Nếu chúng ta không biết tất cả cảnh duyên
bên ngoài là cái không thể giữ gìn, thì không khi nào mình yên tâm tu hành
ở chốn núi rừng hay bất cứ nơi đâu. Nếu người còn tâm vướng mắc, chưa thấy
được lẽ thực thì dù có lên núi cao, ở trong hang sâu, vọng tưởng cũng lôi
họ ra, không khi nào yên được.
Có
một câu chuyện vui. Hai Thầy trò nọ sống trên núi đã lâu. Người đệ tử từ
nhỏ đã được nuôi dưỡng trong chốn thâm sơn nên chưa từng biết phố thị và
một ai khác ngoài thầy chú. Hôm đó, hai thầy trò xuống núi. Trên đường chú
thấy một cô gái, ngạc nhiên chú hỏi thầy: Con đó là con gì? Thầy đáp: Con
cọp, đến gần nó cắn đó. Chú bước theo thầy mà cứ ngoáy nhìn lại con cọp.
Về tới chùa, chú cứ nhớ con cọp, ăn ngủ không yên. Không chịu nổi nữa, chú
đến bạch thầy: Cho con xuống núi tìm con cọp. Ông thầy biết không thể ngăn
cản được nghiệp lực của người đệ tử nữa, nên đành chấp thuận thôi.
Rõ
ràng khi lòng mình chưa yên, còn bị vướng mắc thì dù ở núi cao, cũng bị
pháp trần lôi xuống như thường. Cho nên nói tránh duyên là phần bên ngoài,
quan trọng phải thấy được thực chất của vấn đề, thấy rõ phần nội tại của
mình. Giống như người chơi đồ cổ chuyên môn, nhìn qua họ liền biết cái nào
thật, cái nào giả nên không bao giờ mua lầm. Còn người lờ mờ, không biết
thật giả, dễ mua lầm, vì vậy nên bất an.
Ở
đây cũng vậy, nếu người nhận được ông chủ, dám buông vọng tưởng, người đó
đảm bảo yên tu tới già tới chết, không bị cọp beo nào cõng đi. Ai lạng
quạng nửa tỉnh nửa mơ, ngủ mê nói mớ, sớm muộn gì cũng lầm nhận giả là
thật. Đã nhận giả là thật thì cuộc đời mình khốn đốn. Sở dĩ các pháp có sự
hấp dẫn là tại mình chưa ổn, trí tuệ chưa hiện tiền. Cho nên chúng ta cố
gắng tu tập, có đầy đủ sự tỉnh giác. Từ đó trí dụng sẽ hiện tiền. Phật nói
chúng sanh có đầy đủ trí tuệ đức tướng Như Lai, nhưng bị những lăng xăng
bên ngoài cuốn hút nên quên mất đó thôi.
Người xưa dạy căn là căn, cảnh là cảnh, căn cảnh không tới nhau gọi là tâm
cảnh như như. Giản dị như thế. Nhưng chúng ta muốn tâm không dong rủi
ngược xuôi, không vướng mắc cảnh duyên, đòi hỏi phải có năng lực, có công
phu. Điều này không phải nói là được, hành không đúng cũng không được.
Người chưa quyết tâm, chưa hết lòng sống chết với công phu thì nó chưa
hiện hình. Chúng ta không thể lìa thân mà tìm Phật, tìm Niết-bàn ở đâu,
nhưng nếu mình cứ quay quần mắc mứu những cảnh duyên chung quanh, cũng
không thể nào tìm Phật được. Ngay nơi thân này nhận, tỉnh thì sẽ thành tựu
Niết-bàn tịch tĩnh an vui. Hồi trước chưa biết, ta lầm chạy theo, mê tưởng
đảo điên nên ngược xuôi dong ruổi. Bây giờ biết rồi thì cắt đứt mê lầm,
không ngược xuôi dính mắc bên ngoài nữa.
Kinh Kim Cương có câu: “Pháp còn nên bỏ, huống nữa phi pháp”. Người qua sông rồi, dù thuyền bè đẹp cở nào cũng phải bỏ lại. Thử tưởng
tượng nếu họ vác chiếc thuyền trên lưng, chắc thiện hạ cười bể bụng. Giữa
phố thị mà dính chiếc thuyền trên lưng, ai hỏi tại sao, nói thuyền của tôi
đẹp quá không nỡ bỏ, mang làm kỷ niệm. Người này có lẽ không bình thường
rồi. Cũng vậy, khi chúng ta đã thể nhập tri kiến Phật, đối với tất cả cảnh
duyên không cần đặt vấn đề nữa, chỉ sống an ổn thôi.
Nên biết từ phẩm này trở về sau, đều chỉ rõ chỗ Văn Tư Tu ấy, để thứ lớp
mà tiến vào, trục phá năm ấm, hiểu suốt ba không vậy. Nay từ phẩm này
trước phá sắc ấm. Vì sắc ấm là lớp vọng tưởng bền chắc thứ nhất rất khó
phá, nên phải phát tinh tấn lớn, chẳng tiếc thân mạng, mới có thể phá nổi.
Như Bồ-tát Hỷ Kiến đốt thân cúng Phật. Đây nhằm bày tỏ vì đạo quên mình.
Dù vào đống lửa lớn phiền não, mà cũng chẳng thoái thác.
Trong phẩm này có dẫn Bồ-tát Hỷ Kiến. Ngài đã phát tâm đốt thân cúng dường
Phật sau khi nhận ra chủ. Bởi một khi đã nhận được cái thật rồi, cái giả
không quan trọng nữa. Để chứng tỏ chỗ thâm ngộ của mình, ngài nguyện đốt
thân cúng dường. Chuyện này dễ làm không? Không dễ đâu. Chúng ta đau một
chút chịu không nổi, nói gì đốt thân. Mấy huynh đệ nấu cơm, chừng một đốm
lửa nhỏ bay vào da là đã thấy đau rồi, nói gì phát nguyện đứng đó chịu
cháy để cúng dường.
Nói
cúng dường không phải cúng dường thân này, mà cúng dường lời nguyện của
mình. Nguyện xả bỏ thân hư giả, tu hành nhận ra pháp thân chân thật, lấy
tâm nguyện này cúng dường, mong chư Phật Bồ-tát chứng minh. Chứ đốt thân
xông lên mùi hôi thối, có gì tốt đẹp để cúng dường? Cho nên quý trọng ở
tinh thần. Tinh thần kim cương chắc thực nói được làm được. Ngoài ra việc
đốt thân cúng dường cũng để chứng tỏ Bồ-tát đã phá được chấp thân, ngài
phát nguyện giữa hư không: “Nếu việc làm này phát xuất từ tâm chân thật,
không có niệm hối tiếc, thì xin cho thân tôi hoàn phục lại y như cũ”.
Sau khi nói lời ấy rồi thân thể của ngài trở lại đầy đủ, các giác quan y
như cũ. Đó là chứng tỏ tâm cúng dường của ngài chân thật và công đức tu
hành cũng gần viên mãn.
Đối
với chúng ta, nội làm chủ thân này không phải chuyện đơn giản. Đau bệnh
yếu đuối, bị người huỷ báng, hoặc được người ca ngợi v.v... chúng ta đều
bị động. Người ta đưa lên mình thích thú cũng mất mình, người ta gièm pha
chỉ trích mình bực bội cũng mất mình. Như thân này ta quí trọng, mà ai nói
đồ bỏ mình đâu có vui. Quả thật chúng ta luôn bị cảnh duyên quấy rầy, làm
trí tuệ mê tối, không thấy được chân lý.
Vì
vậy tu đến giai đoạn phá lầm chấp về thân, về cái ngã thật của chúng ta là
rất đáng kể. Cho nên ở đây nói: Vì sắc ấm là lớp vọng tưởng bền chắc
thứ nhất rất khó phá, nên phải phát tinh tấn lớn, chẳng tiếc thân mạng,
mới có thể phá nổi. Đó là lớp chấp cứng chắc nhất của chúng sanh. Nếu
mình không tinh tấn mãnh liệt, không phát tâm liều bỏ thân này thì không
làm sao phá nổi.
Bây
giờ nói tới phát tâm quyết liệt tu hành. Ở đây chúng ta chưa bị hoàn cảnh
bức xúc như thiếu cơm thiếu gạo, thiếu những tiện nghi tối thiểu cho sự
sống, nên tu hành bình thường. Bao giờ sống trong cảnh thiếu thốn, khó
khăn mà vẫn tu được mới là người giỏi. Nếu sự thiếu thốn tăng lên nhiều
quá, nghĩa là không có cơm ăn áo mặc, không có gì hết, có lẽ chùa sẽ trống
trơn không còn ai. Đừng nói tới thiếu cơm thiếu gạo, huynh đệ lỡ nói lời
gì xúc phạm, mình không gây gổ nhưng tự ái, nói: Mắc mớ gì, ngoài đời
không sướng hơn sao, vô đây chi để bị như thế. Từ đó mình có lý do để bỏ
đạo. Rất nhiều huynh đệ bị mặc cảm như thế.
Có
huynh đệ hiểu đạo và hành đạo rất tốt, nhưng ngã kiến ngã chấp, ngã ái ngã
mạn lại nhiều. Vì vậy đang khi công phu, có ai nói gì không vừa lòng, đôi
khi chỉ là lời nói chơi, song tự ái liền. Nó thể hiện tức thì ra ngoài,
khiến họ không giữ được công phu, không giữ được sự bình an, thậm chí đánh
mất cả tình huynh đệ. Từ phiền não đó, tự nghĩ mình tu chùa nào không được,
đâu nhất thiết phải ở chùa này, rồi dong ruổi ngược xuôi, mất hết khí thế
tu hành, dần dần mất cả tâm xuất gia mãnh liệt ban đầu. Đó là kinh nghiệm,
là bài học rất quí đối với người xuất gia chúng ta.
Nghiệm cho cùng thân này là đồ bỏ, không món nào có thể bảo đảm còn hoài
với chúng ta. Phật nói thân ngũ uẩn gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức không
thật, tạm hợp rồi sẽ tan. Phần sắc được kết cấu bởi bốn thứ đất, nước, gió,
lửa, gọi là tứ đại. Đất tượng trưng cho chất cứng trong người, nước là
chất ướt, lửa là hơi nóng, gió là hơi thở. Bốn thứ thọ, tưởng, hành, thức
thuộc phần tâm. Những cảm thọ, tưởng tượng, phân biệt, suy nghĩ v.v...
Phật nói không thật.
Chúng ta thuộc bài kinh tứ đại, Phật nói không thật mình nói không thật
theo, nhưng vẫn thấy thân là thật. Quái lạ vậy. Cho nên phiền não hoài. Đó
là vì chúng ta chỉ thuộc kinh mà không có công phu để đến được chỗ chắc
thực, buông bỏ năm uẩn không thật, thực chứng thực đạt tánh giác chân thật
của mình. Chúng ta chỉ thuộc trên văn tự, nên bị phiền não si mê dẫn dắt
thân tâm trôi nổi trong dòng trầm luân sanh tử không cùng.
Con
người sống không biết với bao nhiêu thứ phiền não. Sao mình dễ phiền não
đến như vậy. Ăn không được phiền não, ngủ không được phiền não, người ta
không thương phiền não, người ta thương cũng phiền não?! Phật nói tứ đại
giống như bốn con rắn độc được nuôi chung một lồng. Đừng nói bốn, hai con
thôi nó cũng cắn nhau tơi bời. Con này cắn con kia, không khi nào nó nằm
yên. Hà huống bốn con nhốt chung một lồng. Thì thôi, chiến tranh vô kể,
phiền não vô kể.
Bây
giờ nói tới thân mình. Thân cao thước bảy thước tám, nặng sáu mươi tám
mươi ký, thân đẹp thân xấu, học giỏi học dở v.v… bất luận loại nào, một
cơn gió độc thổi tới, không dành riêng cho ai, tất cả đều có thể ngã quỵ
cả. Chúng ta vận dụng trí tuệ xét cho cùng về thân, thấy quả thật không có
gì bảo đảm. Thế mà ai cũng sợ chết, bởi sợ chết nên luôn luôn bảo vệ thân.
Từ đó mà tạo nghiệp.
Tóm
lại, năm uẩn gồm có hai phần: Sắc uẩn thuộc về thân. Bốn uẩn còn lại là
thọ, tưởng, hành, thức thuộc về tâm, tức phần tinh thần. Cả hai đều không
thật, vô thường, luôn luôn bất ổn bất an, chống trái nhau.
Lại cũng tượng trưng cho người mới vào căn này, trước được nhân không, là
nhiếp động về tịnh, yên trụ trong cảnh tịnh. Sau đó tái sanh, là chứng tỏ
chẳng đắm trước cảnh tịnh. Phải ở trong cảnh tịnh mà phát giác, chẳng rơi
vào hầm tối hôn trầm, khiến cho tánh nghe thường rõ ràng, ánh sáng trí tuệ
lặng lẽ chiếu soi, không như cái lặng lẽ của loài vô tình núi đá kia vậy.
Đoạn
này nói chúng ta chấp bên nào cũng không an lạc giải thoát. Một bề chấp
không, hoặc một bề chấp tịnh đều không được. Hiện thời chưa công phu,
chúng ta còn kẹt chấp, nhưng khi hiểu và quyết tâm tu hành, nhất định sẽ
chuyển hóa, từ từ bớt cố chấp cho đến hết chấp luôn. Chúng ta có sẵn nguồn
trí tuệ mà không chịu tu, không chịu buông, cứ ngồi đó mong cho thành Phật,
làm sao thành được. Trí tuệ bên ngoài không phải của mình. Những thứ ngoại
nhập tai hại lắm, nó khiến ta không phát huy được cái sẵn có của mình. Cho
nên người tu hành phải thông suốt, quán triệt, nỗ lực phát huy nguồn tuệ
giác sẵn có. Chúng ta áp dụng tu tập như thế nào để đừng vướng mắc, đừng
khựng lại chỗ nào hết. Tu cho tới tâm hoàn toàn sáng suốt, được an ổn thực
sự, tám gió lợi, xuy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc không làm gì mình được,
chừng đó mới bảo đảm bình yên.
Thiền sư Hoàng Bá dạy:
Chớ
chỉ quên mình với tử tâm,
Cái
đó khó trị, bệnh rất thâm.
Đã
chấp cứng vào một cái gì thì rất khó trị. Nó là bệnh trầm trọng, trị khó
và lâu. Cần kíp mạnh mẽ cảnh tỉnh lấy! Do đó phải quyết tâm, tha thiết, nỗ
lực tu tập, chứ không dừng ở chỗ nào hết. Phát huy đại thệ, đại nguyện tu
hành cho tới thành tựu viên mãn Phật đạo mới thôi. Nên nhớ việc này ai
cũng thực hiện được, không nên tự ti mặc cảm mà trở thành yếu đuối khiếp
nhược, đánh mất khả năng tác Phật của mình. Ở đây nói mãnh tỉnh là mạnh mẽ.
Phát nguyện mạnh mẽ tu hành thành Phật mới vừa lòng con. Chưa thành Phật
cứ tu, không nói năm năm mười năm, đời này đời khác. Chưa xong phải làm
cho xong.
Người nào đã qua sông, đề nghị bỏ lại thuyền, phẩy tay mà đi cho thống
khoái, tự tại. Người nào chưa qua sông thì phải chuẩn bị, nếu không có
thuyền phải biết lội. Không biết lội nữa, ít ra có bè chuối bám đỡ, chứ
chưa qua sông mà bỏ hết các phương tiện thì chỉ có chết chìm. Người tu
không chấp nhận chết chìm, cũng không đeo mang chiếc thuyền ngông nghênh
quái lạ cho thiên hạ chê cười. Đã như vậy chúng ta phải có công phu, biết
tránh duyên, nhiếp tâm và thực hiện đúng lời Phật dạy.
Thân sau lại bỏ hai cánh tay là chỉ cho động tịnh cả hai đều quên, nhân
ngã cả hai đều bặt. Lập thệ hoàn phục như cũ, đấy để chứng minh là đã được
hai cánh tay phước đức trí tuệ của Phật vậy. Kinh nói: “Do đây, Bồ-tát
phước đức trí tuệ và đôn hậu đến thế ấy”. Nên biết rằng tiết này đồng với
kinh Lăng Nghiêm chỗ thứ tự mở sáu gút của sáu căn.
Nhận được ý chỉ
kinh Pháp Hoa rồi, chúng ta buông bỏ hết hai bên, không còn nhân ngã bỉ
thử, không kẹt chấp bên nào nữa. Bấy giờ mới thành tựu phước đức trí tuệ
của Như Lai, thật sự bước vào ngôi nhà xưa nay, chấm dứt kiếp cùng tử lang
thang. Ý phẩm này cùng với lời Phật dạy trong kinh Lăng Nghiêm giống nhau.
Chúng ta từ nơi sáu căn mà trôi dạt theo cảnh duyên bên ngoài, thì bây giờ
cũng từ sáu căn tu tập trở về, nhận ra tánh giác chân thật của mình. Không
thể lìa thân tâm huyễn mộng tìm kiếm Niết-bàn, cũng không thể nhận thân
tâm hư giả là thật. Đây chính là chỗ trọng yếu trong công phu tu tập của
chúng ta.
|