Phẩm Diệu Âm
Bồ-Tát
CHÁNH VĂN
Phẩm Diệu Âm là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng, căn này từ lúc
mới vào, vẫn cần nhờ các âm thinh, để bày tỏ tánh nghe, tiêu mòn vọng niệm,
vào Xa-ma-tha. Dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh. Cho đến cả động tịnh đều
quên. Phải ngay nơi đây mà vào Tam-ma-địa. Khi đó chẳng cần thinh trần
hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu. Thiền
sư Cổ Linh Thần Tán(1) nhắc lại:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày thể thường chân,
Chẳng kẹt văn tự.
Đấy là lúc rõ được pháp không vậy.
Tiết này lấy Bồ-tát Hoa Đức làm hợp cơ, mà được Pháp Hoa Tam-muội. Nói Hoa,
đó là tri kiến. Còn Đức là diệu thể của các đức đầy đủ trong bản tánh. Tóm
lại, nói hoa đức là nhằm tiêu biểu cho tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm,
cũng chính là nghĩa minh tâm kiến tánh vậy.
Nói Pháp Hoa Tam-muội. Pháp tức là Diệu tánh chân như sẵn có. Hoa tức tánh
ấy đủ Diệu năng Tri kiến thanh tịnh. Tam-muội hoặc bảo là Tam-ma-đề, đây
nói rằng chánh thọ, cũng gọi rằng chánh định. Lại gọi là định tuệ đẳng trì,
tứ là nghĩa chánh quán vậy. Đây nói rõ, chính được đại định sẵn có tri
kiến chân như, cũng là phá lớp vọng tưởng hư minh của thọ ấm thứ hai.
Kệ rằng:
Đảnh Phật thần quang tịch chiếu thông,
Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,
Rộng phô Tam-muội nêu tri kiến,
Bày hiện Nhất thừa, rõ đạo tông,
Thể dụng về như, nghe tức tiếng,
Căn trần rốt ráo, sắc mà không,
Chương này mượn huyễn bày chân tế,
Giáo thể từ nghe vào thật dòng.
GIẢNG:
Phẩm Diệu Âm, là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng, căn này từ lúc
mới vào, vẫn cần nhờ các âm thinh, để bày tỏ tánh nghe, tiêu mòn vọng niệm,
vào Xa-ma-tha. Dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh. Cho đến cả động tịnh đều
quên. Phải ngay nơi đây mà vào Tam-ma-địa. Khi đó chẳng cần thinh trần
hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu.
Phẩm
Dược Vương Bồ-tát Bản Sự ở trước nói lên công tu hành đến giai đoạn phá
sắc ấm. Tới phẩm Bồ-tát Diệu Âm là phá thọ ấm.
Mỗi
chúng ta đều có tánh nghe được biểu trưng ra ngoài qua lỗ tai tức nhĩ căn.
Do đó ai cũng nghe. Những vị có bệnh về căn tai hoặc người lớn tuổi cũng
nghe, nhưng âm thanh không rõ ràng. Đó là âm thanh không rõ chớ không phải
tánh nghe không rõ. Tánh nghe vẫn thế. Nghe có tiếng hoặc nghe không có
tiếng. Chúng ta nắm vững chỗ này để ứng dụng công phu tu.
Hòa
thượng Tôn sư thường dạy “nghe như không nghe” hoặc “nghe mà như
điếc”. Tại sao? Vì nếu ta chạy theo âm thanh là bị trói buộc, bị thinh
trần dẫn. Nó dẫn thì đi vào con đường tạo những nghiệp nhân không tốt. Đã
tạo nghiệp nhân không tốt, dù có chạy trốn đường trời cũng bị nghiệp quả
thôi, chắc chắn như vậy. Phật dạy mình tu từ nhân. Đối với căn tai, ta vẫn
nghe bình thường, như nghe tiếng chim kêu, tiếng gió thổi động bên ngoài,
nghe tiếng huynh đệ nói nho nhỏ với nhau, nhưng không chạy theo những âm
thanh ấy, không thắc mắc, không yêu thích, không ghét bỏ. Như vậy là nghe
như không nghe.
Ví
dụ nghe huynh đệ nói cái gì đó không được hài lòng, gương mặt không vui,
chứng tỏ bên trong bất ổn. Người biết tu ngang đó tỉnh táo sáng suốt,
không lầm chạy theo. Đó là một trường hợp. Kế đến, đối với những âm thanh
thuận lòng, thích thú cũng không lầm, không chạy theo. Người không nắm bắt
bất cứ loại âm thanh nào, luôn bình thường an nhiên, như vậy là nhĩ căn
viên thông.
Trong quá trình tu tập căn bản, huynh đệ nhẹ nhẹ từ từ, bước từng bước
thật vững. Thứ nhất chúng ta nghe rõ ràng, thứ hai nghe mà không chấp,
không dính thì được bình yên chút chút. Vì sao bình yên? Vì không bỏ cái
thật chạy theo cái giả, không bỏ chủ thể chạy theo bóng dáng bên ngoài.
Thường chúng ta khổ vì chạy theo bóng dáng bên ngoài quá nhiều. Mỗi khi
ngoại trần khơi động, ta chạy theo và nắm bắt. Chạy theo nó rồi giống như
người cùng tử tha phương cầu thực, xa nhà nhớ quê, không biết đường về.
Người tu không có chủ lực, không có nội tại, nhất là tu thiền mà không có
định tỉnh sẽ bị trần cảnh kéo lôi, rồi cột trói mình luôn. Xiềng bên ngoài
dễ gỡ dễ tháo, chớ những loại trói buộc vô hình này khó gỡ lắm, ta cũng
không biết manh mối nó ở đâu để mà gỡ. Có nhiều huynh đệ, cuộc đời chồng
chất năm mươi, sáu mươi, bảy mươi, cho tới tám mươi năm, gần chết cũng
chưa biết manh mối chỗ nào để gỡ. Thì sao? Thì mang luôn cái còng ấy đi
theo, đời sau tiếp tục trói nữa. Chúng sanh theo nghiệp đã gây tạo, từ đời
này sang đời khác chồng chất, hết lớp còng trói này tới lớp còng trói khác.
Cho nên Phật nói rất đáng thương vậy!
Chúng ta có nhân duyên đặc biệt, ngang đây gặp Phật pháp, biết rõ những
còng trói đó cần phải tháo gỡ. Phương tiện để tháo gỡ là trí dụng. Mỗi
người phát huy trí dụng của mình thật tỉnh sáng. Vừa có một niệm dấy khởi,
chúng ta biết nó không thật nên không chạy theo, không chấp nhận, không để
nó kéo lôi mình, đó là định. Người có định, không bị pháp trần kéo lôi
ngược xuôi là có tuệ, gọi là định tuệ đồng thời hay định tuệ đẳng trì.
Phật
nói thân này không thật, danh vọng không thật, tiền tài không thật, sắc
đẹp không thật v.v… tất cả đều hư ảo. Chúng ta nhớ như vậy để trị bệnh
tham sân si. Nếu không quyết tâm buông bỏ những thứ hư ảo ấy, cả đời chúng
ta không tu tiến nổi đâu. Vì chúng sẽ theo quấy nhiễu và lôi mình đi vào
những con đường tăm tối, khổ đau. Người bình yên và người không bình yên
khác nhau xa lắm. Người bình yên luôn tự tại, tỉnh táo, sáng suốt trước
mọi cảnh duyên và không bị vọng động bên trong sai khiến. Người không bình
yên luôn ngược xuôi, mắc mứu, bị trần cảnh bên ngoài và vọng tưởng bên
trong sai sử làm những việc mê muội dẫn đến kết quả khổ đau.
Sở
dĩ nói đạo Phật là đạo của trí tuệ, của từ bi hỷ xả, đạo giác ngộ giải
thoát là vì giáo lý Phật dạy chúng ta vượt qua những tăm tối, không bị
nghiệp lực sai sử khiến chúng sanh trôi giạt vào trầm luân sanh tử. Người
học Phật, tu Phật không thực tập được như vậy thì đâu thể gọi là đệ tử Như
Lai. Cho nên chúng ta phải áp dụng pháp học vào đời sống để chuyển hóa và
tháo gỡ hết mọi sự trói buộc. Như thế mới có lợi ích và an vui.
Chúng ta còn vui buồn, phiền não là vì mình chưa làm chủ được nên cứ mắc
mứu việc này việc kia. Nếu không tu không sửa đổi, mình sẽ bất ổn khổ đau
hoài. Như vậy thì vô lý quá! Chúng ta đã chọn đạo pháp làm lẽ sống, làm
mục đích duy nhất đời mình. Vậy mà không hành đạo, không tu đạo, nghĩa là
sao? Cho nên chỗ này chư huynh đệ cần phải xác định thật rõ ràng để chúng
ta có phương hướng hành động đúng đắn. Nếu không như thế, đêm ba mươi sau
cùng, chúng ta sẽ không có đường đi, đừng nói chuyện tự tại.
Người được tự tại là người không sợ chết. Bởi người này thấy rõ thân không
thật, địa vị không thật, tiền tài không thật, không có gì thật hết, nên
lúc bỏ thân họ cười. Thật ra chết là thay đổi một món đồ cũ xấu, rách nát
để có món đồ tốt. Muốn đổi món đồ tốt không thể nào thiếu vốn. Cũng vậy,
muốn đi con đường tốt, không thể thiếu sự chuẩn bị. Người muốn tự tại lúc
lâm chung, bình nhật phải có định tuệ. Bây giờ đối với ngũ dục không sợ
mất, đối với thân tứ đại không ngán chết, thì lúc ra đi mới bình thản an
nhiên, không bị ngưu đầu ngục tốt lôi xuống điện Diêm vương đối chất. Anh
em học đạo không khai thông chỗ này, chỉ nói trên mây xanh mà không làm
được việc gì thì đừng than trách lúc về sau.
Thiền sư Văn Hỷ đi hành khước học đạo, đến Ngũ Đài Sơn mong được yết kiến
Bồ-tát Văn Thù. Lên tới Ngũ Đài Sơn, ngài gặp một ông cụ nhưng không nhận
ra đó là hiện thân của Bồ-tát Văn Thù. Vì vậy ngài bị đuổi xuống núi. Sau
này ở trong hội Ngưỡng Sơn, ngài khế ngộ bản tâm, được cử chức Điển tọa.
Một hôm ngài đang nấu cháo, thấy Bồ-tát Văn Thù hiện lẫn trong khói của
nồi cháo. Ngài cầm cây dằm quậy cháo đập, nói “Văn Thù là Văn Thù, Văn
Hỷ là Văn Hỷ”. Hồi còn mê muốn gặp Bồ-tát, Bồ-tát hiện không biết. Bây
giờ đã ngộ đạo, Bồ-tát bên ngoài hiện đến không nhận.
Một
khi đã nhận đã sống được với cái thực của mình rồi, dù cho cảnh duyên bên
ngoài có hấp dẫn tới đâu, cũng không bì được với cái thật ấy. Anh em có
một niệm không bình yên, không làm chủ với các hiện tượng bên ngoài, dù
lúc đó Phật hiện, Bồ-tát hiện vẫn là ma sự, không nên lầm lẫn. Tại sao? Vì
nó là thuộc bên ngoài. Công phu của chúng ta cốt nhận ra cái thật sẵn có
của mình. Bằng mọi cách, trong sinh hoạt đời thường, chúng ta sống được
với tri kiến Phật của mình, thì không bị thinh trần dẫn, không bị pháp
trần kéo, không mắc mứu và trôi giạt.
Chỗ
này các thiền tăng phải nghiệm thật kỹ, nắm thật vững, đi vào công phu cho
sâu sắc, chúng ta mới an ổn toàn bị. Huynh đệ nhớ dè dặt từng chút, đối
với các sự việc, xem tâm như thế nào? Nếu còn buồn vui chao đảo là chưa ổn,
chưa tu tiến. Nghe người ta gọi mình là Thượng tọa, thấy vui vẻ, việc gì
cũng dễ chấp nhận. Nhưng nếu họ chỉ mặt gọi thằng này thằng nọ, nghe khó
chịu. Họ nói gì cũng không muốn nghe, nếu có nghe thì bực bội, không ưng
thuận việc nào cả. Những thứ đồ bỏ như thế mà hại mình vô cùng. Cho nên
trong công phu tu hành phải chính chắn xem xét lấy mình. Chúng ta chưa
phải thánh hiền thì đừng bao giờ lầm, để bị mất mình.
Ngay
trong giai đoạn có thể lo cho mình, sửa sang tu tập, các huynh đệ cố gắng.
Làm sao nhìn lại mình, tập trung công phu để có năng lực. Lúc đầu chúng ta
làm tiêu mòn những vọng niệm, không để nó kéo lôi. Vào Xa-ma-tha tức là
dừng được, cắt đứt những vọng tưởng, những dấy niệm. Dần dần vào sâu trong
định, đến chỗ dứt bặt hết thì trí tuệ hiện tiền. Đến được chỗ định tuệ
đẳng trì thì tự tại giải thoát không còn là chuyện mơ hồ viển vông nữa.
Cổ
Linh Thần Tán nhắc:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày
thể thường chân,
Chẳng kẹt văn tự.
Ngài
muốn nói trong thân tứ đại ngũ uẩn, nếu chúng ta phá được những lầm chấp,
những mê đảo thì sẽ được linh quang riêng chiếu. Cái đó vượt khỏi căn trần,
nó là cái chân thường, không bị kẹt vướng ở đâu.
Cổ
Linh Thần Tán học đạo với ngài Bá Trượng. Sau khi sáng được việc lớn trở
về hầu thầy tổ. Thầy ngài ở quê, chưa có cơ hội học đạo nên còn vướng mắc.
Một hôm Thần Tán đứng hầu, thầy ngài đang ngồi đọc sách bên cửa sổ có dán
giấy. Bấy giờ có con ong muốn bay ra ngoài, mà bị lớp giấy chắn ngang nên
chui không được. Ngài ứng khẩu nói:
Cửa
Không chẳng chịu ra,
Quá
ngu chui cửa sổ,
Giấy cũ trăm năm dùi,
Ngày nào dùi được phủng.
Mấy
câu kệ làm động đến thầy, thầy thấy lạ. Lần khác thầy đi tắm, ngài làm thị
giả kỳ lưng cho thầy. Ngài vỗ vào lưng thầy nói: Điện Phật đẹp mà Phật
chẳng thánh. Thầy ngài nghe vậy quay lại hỏi “Ngươi đi học được cái gì
mà về đây nghe nói những lời lạ thường như vậy”. Ngài trình bày sự
thật. “Con được thầy cho đi học đạo, tới pháp hội của tổ Bá Trượng, con
đã sáng nên rất mang ân thầy. Bây giờ đến lúc con phải đền ân thầy”.
“Điện Phật đẹp mà Phật không thánh”
nghĩa là sao? Nghĩa là thân ngũ uẩn này giống như điện Phật, đầy đủ oai
nghi tướng tốt v.v... nhưng không nhận ra tánh giác. Chỉ có điện Phật thôi
chứ Phật không thiêng, vì Phật chưa giác. Cũng thế, mỗi chúng ta đều có
điện Phật, mà không sống được với ông Phật của mình thì như ngài Cổ Linh
nói điện Phật đẹp mà Phật không thánh.
Tiết này lấy Bồ-tát Hoa Đức làm hợp cơ,
trong kinh văn nói Bồ-tát Hoa Đức được Pháp Hoa Tam-muội, tức chứng
được Pháp Hoa tam-muội. Nói Hoa, đó là tri kiến. Còn Đức là diệu thể
của các đức đầy đủ trong bản tánh. Tóm lại, nói hoa đức là nhằm tiêu biểu
cho tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm, cũng chính là nghĩa minh tâm kiến
tánh vậy. Tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm là sao? Tánh nghe của
mình bình thường, không kéo đi đâu hết, tâm sáng suốt không dính theo vật.
Nếu nghe mà dính theo cái bị nghe, đó không phải là tánh nghe nữa, mà gọi
là bỏ tánh nghe theo thinh trần bên ngoài. Minh tâm cũng vậy, nếu đối vật
dính mắc, chạy theo thì không còn minh tâm, mà bị vật chuyển.
Nói Pháp Hoa Tam-muội. Pháp tức là Diệu tánh chân như sẵn có. Hoa tức tánh
ấy đủ Diệu năng Tri kiến thanh tịnh. Tam-muội hoặc bảo là Tam-ma-đề, đây
nói rằng chánh thọ, cũng gọi rằng chánh định. Lại gọi là định tuệ đẳng trì,
tứ là nghĩa chánh quán vậy. Đây nói rõ, chính được đại định sẵn có tri
kiến chân như, cũng là phá lớp vọng tưởng hư minh của thọ ấm thứ hai.
Muốn
phá lớp chấp thứ hai gọi là thọ ấm, chúng ta phải có định tuệ đầy đủ. Định
là tai nghe tiếng mà không chạy theo tiếng, tuệ là biết nó không thật, nên
không dính mắc. Có định có tuệ, không thiên lệch gọi là định tuệ đẳng trì.
Xa-ma-tha là chỉ. Ví dụ người ta chọc cho mình nổi nóng, nhưng mình không
nổi nóng. Đó là Xa-ma-tha, là chỉ, là dừng. Nói theo danh từ bình dân nó
như cái thắng. Huynh đệ nên có một cái thắng thật tốt, cần thắng thì thắng
lại, đừng để tuột dốc. Chúng ta không bị âm thanh kéo lôi là có định. Mình
biết nó không thật nên không chạy theo. Cái biết không thật là trí tuệ
Bát-nhã. Lục tổ dạy đó là định tuệ đồng đẳng, hễ có định là có tuệ. Có
định mà không có tuệ, gọi là si định. Có tuệ mà không định là điên đảo
vọng tưởng. Pháp tu thiền dạy chúng ta thực hành như vậy.
Phẩm
này nằm trong giai đoạn triệt phá ấm thứ hai. Trong kinh Lăng Nghiêm, sau
khi Phật chỉ cho A Nan và đại chúng thấy được cái Diệu tịnh minh thể rồi,
qua giai đoạn tháo gỡ các nút gút, tức tới công phu triệt phá ngũ ấm. Đến
đây, Bồ-tát Diệu Âm đã tự tại đối với các âm thanh, phá được cảm thọ. Phá
được thọ ấm là một bước tiến rất lớn đối với hành giả tu thiền như chúng
ta, không thể xem thường được. Như trời đang nắng nóng, chúng ta ngồi
thiền trong thất nhỏ, mồ hôi nhễ nhại. Có Phật tử đem cúng dường cho một
ly nước mát dịu, thấm vào cổ họng nghe thật dễ chịu. Sau cái dễ chịu đó
mình thích. Sau cái thích đó còn nhiều chuyện khác nữa. Nhưng nội cái
thích thôi, mình buông dễ không? Không dễ. Bây giờ ở độ cao tỉnh giác,
chúng ta phải thấy nó không thật, đó là dùng trí tuệ Bát-nhã để phá thọ ấm.
Biết dấy niệm không thật, thì không bị nó dẫn, không chạy theo nó.
Nói
tóm lại, phẩm Diệu Âm là nói đến giai đoạn phá thọ ấm. Căn nêu lên trong
phẩm này là nhĩ căn. Từ căn nghe chúng ta buông hết những lầm chấp để vào
chánh định, được tự tại.
Kệ
rằng:
Đảnh Phật thần quang tịch chiếu thông,
Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,
Rộng phô tam-muội nêu tri kiến,
Bày
hiện Nhất thừa, rõ đạo tông,
Thể
dụng về như, nghe tức tiếng,
Căn
trần rốt ráo, sắc mà không,
Chương này mượn huyễn bày chân tế,
Giáo thể từ nghe vào thật dòng.
Phẩm
Diệu Âm dạy phá được thọ ấm rồi, mượn chỗ huyễn bày cái thật. Hy vọng và
quyết tâm của huynh đệ chúng ta trước nhất là nhận ra tánh giác của mình,
kế đến phát huy tròn đầy được như Phật mới vừa lòng mình. Con đường tu
hành cho đến thành Phật, ta nguyện sấn bước đến cùng. Nói như thế nghe mồ
hôi lạnh toát ra cho nên ta phải gan, phải là tráng sĩ chặt tay trên Tung
Sơn thuở nào. Chúng ta học chánh pháp, mỗi ngày một tươi nhuận, một thể
nhập, biểu trưng ra mọi sinh hoạt, qua các giác quan là sự sáng suốt, tỏ
rõ, an vui. Mong anh em lúc nào cũng tích cực tu học như lời Phật tổ dạy.
|