PHẬT LÀ TÁNH GIÁC
Hôm nay là
ngày kỷ niệm Phật đản sinh lần thứ 2544, nhằm năm Canh Thìn, dương lịch là
2000. Như vậy đức Phật ra đời đến nay cách chúng ta 2544 năm, tại thành
Ca-tỳ-la-vệ.
Đức Phật thị hiện là một con người như mọi người, điều này khẳng định cho
chúng ta biết ngài không phải là thần linh, thị hiện ở núi non kỳ dị. Ngài
là một con người lịch sử, có cha có mẹ như chúng ta. Lớn lên ngài cũng lập
gia đình, nhưng do túc duyên đặc biệt ngài tìm đường giải thoát, cởi bỏ
những ràng buộc của thế gian. Từ chí nguyện đó ngài đi vào cuộc đời cứu
khổ chúng sanh. Là Thái tử dĩ nhiên ngài có một đời sống vật chất cao tột,
với những cung điện mùa xuân, mùa hè, mùa đông. Tuy sống trong nhung lụa,
nhưng ngài không hài lòng với những tiện nghi ấy. Ngài luôn luôn ưu tư,
những cái ưu tư lớn của cuộc đời, của con người, không ai giải quyết được.
Đó là tại sao con người có già, có bệnh, có chết? Thế gian không ai muốn
già, không ai muốn bệnh và ai cũng rất sợ cái chết. Theo quan niệm thông
thường chết là sự mất mát, là không còn nữa, là trở về cát bụi, vì thế
người ta sợ chết.
Nhờ có đức Phật xuất hiện với nền giáo lý uyên thâm của ngài, người con
Phật hiểu đạo lý rồi không quan niệm như vậy. Chúng ta được biết chết là
một sự thay đổi, giống như chuyện thay áo vậy. Chiếc áo này đã quá cũ rách
thì chúng ta thay áo mới. Trên học trình hiểu biết thì như vậy, nhưng thực
tế lại khác. Chết là khóc lóc, khổ đau, mất mát, là đáp án sau cùng đối
với thân này. Con người phải đối diện với vấn đề ấy, không có lối thoát.
Bởi không có lối thoát nên trong cuộc sống chúng ta luôn có sự dằn co, kéo
lôi, từ đó hình thành bất an phiền não. Thật ra trong cuộc sống cũng có
những niềm vui nhưng chỉ mang tính khuây khỏa đôi chút, còn lại là con
người đối diện với phiền não, những lo sợ lớn lao của già bệnh chết, không
giải quyết được. Chẳng những mình không giải quyết được mà những người
chung quanh cũng không ai có phương thức để giải quyết.
Thái tử Tất-đạt-đa đã luôn ưu tư như vậy, dứt khoát phải tìm một lối thoát
cho chính mình, đồng thời hướng dẫn cho tất cả mọi người cùng giải thoát.
Do vậy bao nhiêu sự thương yêu, đùm bộc lo lắng của hoàng gia, ngài sẵn
sàng đánh đổi. Thái tử tuyên bố với vua cha, nếu như chí nguyện của con
không giải quyết được, con không thể nào sống trong hoàng thành. Những
ràng buộc gia đình, tình cảm luyến ái, lầu vàng điện ngọc không thể cầm
chân ngài. Bởi dứt khoát như vậy nên cuối cùng hoàng gia không giữ được
con người có ý chí xuất trần. Đêm mồng 8 tháng 2 năm 19 tuổi, ngài vượt
thành xuất gia, tìm lối thoát cho chính mình và nhân loại.
Đức Phật do nỗ lực tu tập mà được giác ngộ viên mãn, chúng ta tu học theo
ngài, như vậy có được giác ngộ không? Đây là vấn đề chúng ta phải nêu lên,
để tương lai sự tu hành của mình không bị mù mờ, có một hướng dứt khoát
trong việc tu tập nhằm đi đến giác ngộ giải thoát. Với người tu thiền,
tiêu chí là phải nhận và sống được với tánh giác của mình. Có một số huynh
đệ nghe nói tánh giác thì mường tượng về tánh giác, nghe nói giác ngộ cũng
mường tượng như mình có giác ngộ, nhưng thực chất đi sâu trong công phu
hành trì thì chưa được, cho nên chỗ này nên chính chắn khảo sát lại.
Vậy tánh giác là gì, giải thoát là gì, chúng ta có thể thực hiện ngay
trong đời này hay không? Tánh giác là tâm Phật, tâm chân thật có sẵn nơi
mỗi chúng ta, muốn nhận ra được tánh giác phải lặng hết tất cả vọng tưởng
đảo điên. Lặng hết vọng tưởng rồi là hết niệm. Hết niệm là dừng nghiệp.
Dừng nghiệp là giải thoát khỏi mọi trói buộc phiền não. Như vậy chúng ta
có thể thực hiện được sự giác ngộ giải thoát ngay trong đời này, nếu cố
gắng công phu thật chuyên nhất. Đệ tử bậc giác ngộ thì không nên để cho
cuộc đời mình trôi vào thế lơ đễnh, mù mờ, như thế thì quả thật đáng tiếc
và cũng đáng trách. Do đó chúng ta phải khẳng định công phu tu hành hằng
ngày, từng bước dẫm lên đất chân thật, nhất định sẽ đạt được giác ngộ giải
thoát. Trong từng phút giây ta sống trong cái chân thật thì tâm an lạc
giải thoát, đảm bảo làm chủ được vấn đề sinh tử.
Tu thì dĩ nhiên Phật tử muốn tu rồi, nhưng kiên trì quyết liệt chưa lại là
một việc khác. Chúng ta cũng vẫn còn liếc ngó hai bên, vẫn còn sóng gió,
vẫn còn lang thang xuôi ngược, nghĩa là ta chưa quyết liệt, mà chưa quyết
liệt thì không đến nơi. Bởi vì giải quyết vấn đề sanh tử là một việc làm
chí mạng, đòi hỏi chúng ta phải dứt khoát. Giải thoát là gì? Giải là mở ra,
thoát là không còn dính mắc. Giải thoát là ra khỏi sanh tử, không còn kẹt
vướng một chút gì nữa cả. Đối với tất cả cảnh duyên, những sự kiện trước
mắt, lúc nào ta cũng tỉnh, cũng biết, không lầm chạy theo, dần dần sẽ được
giác ngộ giải thoát. Nếu công phu tu hành tích cực, liên tục, không cho
xen hở, từ chuyên môn gọi là miên mật, nhất định giây phút lóe sáng sẽ đến.
Trái lại, ta tu chưa sâu sắc, thì những giây phút này rất xa đối với chúng
ta.
Phật tử vẫn còn bị nghiệp ràng buộc, cảnh duyên chung quanh làm trở ngại,
nó làm méo mó công huân tu hành của quí vị. Do tu không thấy kết quả nên
ngán tu, rốt lại thích cầu xin, trông cậy ở tha lực bên ngoài. Phải biết
giải thoát giác ngộ là tự mình, nhưng vẫn còn nhiều người chưa tin điều
này. Bởi chưa tin nên cầu đấng nào đó cho mình giác ngộ giải thoát. Bản
thân mình không chịu giác ngộ mà biểu ai cho giác ngộ, ai mà cho. Tự mình
không cởi mở, tự mình không giải thoát thì phải chịu lẩn quẩn trong ba cõi
sáu đường thôi. Nhiều đời chúng ta si mê, không tỉnh giác nên gây tạo
những nghiệp nhân không tốt, bây giờ chuốt quả khổ. Nếu muốn chấm dứt sự
khổ thì không gây tạo nghiệp xấu nữa. Chúng ta là chủ nhân ông cột thì bây
giờ phải là chủ nhân ông mở. Người khác không biết cách mở cho chúng ta
đâu.
Như có những điều chúng ta dấu kín trong lòng, không nói ra thì không ai
biết được. Khi nào chịu nói ra, tôi muốn như thế, tôi cần như thế, người
bên ngoài mới hỗ trợ giúp cho. Còn cứ cất kín hoài thì không ai giải quyết
dùm được cả. Đức Thế Tôn và chư vị Bồ-tát cũng vậy, các ngài luôn từ bi
chờ chúng ta trình bày, nói rõ nghiệp tập của mình để các ngài chỉ chúng
ta cách giải quyết. Nếu chúng ta giấu diếm hoài thì giữa các ngài với
chúng ta không dính dáng, không có sự hỗ tương gì cả. Người học thật nhiều,
nhớ thật nhiều Phật pháp mà những cù cặn thâm căn cố đế không giải tỏa,
không tự mở ra, thì chánh pháp không có tác dụng gì đối với nghiệp tập.
Chỉ khi nào chúng ta dám mở cửa, dám khui ra, dám nhìn thẳng nó thì chánh
pháp mới có tác dụng, có giá trị.
Con đường giác ngộ hết sức quan trọng, tự bản thân chúng ta hình thành chứ
không thể nhờ vả, đợi chờ ai. Người gần gũi nhất trong cuộc đời tu của
mình là thầy, kế đến là thiện hữu tri thức, nhưng những vị này dù thương
cách mấy, các ngài chỉ cho chúng ta phương pháp để tu chớ không thể tu dùm
ta được. Bởi việc tu không phải như tiền bạc, vật dụng, thức ăn, mà nó là
vấn đề thể nghiệm trực giác, không thể ban cho. Điều này rất đặc biệt. Như
trong kinh Viên Giác nói ngón tay chỉ mặt trăng, ai là người thông minh từ
ngón tay nhận được mặt trăng thực ở trên trời. Trái lại, người không ngón
tay là phương tiện, chẳng những không nhận ra mặt trăng thực mà làm hư đi
ngón tay. Việc áp dụng Phật pháp, nương thiện hữu tri thức tu hành cũng
vậy. Nhờ thiện hữu tri thức chúng ta biết được Phật pháp để tu hành, nhưng
đạt được kết quả là do chúng ta nỗ lực thật tu thật chứng. Nếu chỉ học chỉ
nghe hời hợt bên ngoài, nhất định sẽ không có kết quả.
Khi nào chúng ta nhận và sống được tánh giác mới không bị chi phối bởi
ngoại duyên. Sở dĩ mình còn bị trần cảnh chi phối là do còn lầm mê, còn vô
minh dày đặc. Vì vậy các cảnh duyên, sự kiện chung quanh kéo lôi mình như
chơi. Đôi khi sự việc không đáng gì hết mà nó vẫn kéo lôi, làm cho ta mắc
mứu chạy ngược chạy xuôi. Bây giờ làm sao để không bị chi phối? Trước nhất
là tỉnh giác. Tỉnh là không lầm, giác là biết. Đối với các pháp mình không
lầm, biết rõ nó là đồ giả nên không bị kéo lôi. Phải bén nhạy, thường trực
với sự tỉnh giác, không để vắng thiếu quãng nào hết. Liên tục như vậy
chúng ta sẽ giảm bớt sự kéo lôi của ngoại duyên. Như bình thường mỗi ngày
quí vị làm công việc nhà, nấu nướng dùng trưa, nghỉ ngơi, chiều lại tu tập.
Nhưng sáng nay gặp bạn rủ mình đến nhà, gặp nhau vui vẻ rồi tổ chức ăn
uống dài dài, mất hết một ngày. Rõ ràng quý vị bị chi phối, mất nhiều cơ
hội quý báu để tu tập. Thế nhưng quí vị vẫn mặc nhiên chấp nhận sự chi
phối ấy. Đôi khi còn để nó phát triển càng ngày càng nặng, càng dày, rồi
thì đương nhiên thấy đó là niềm vui, mất mình hồi nào không biết. Tôi đơn
cử một việc nhỏ xíu như vậy thôi, Phật tử nghiệm lại sẽ thấy rõ nếu chúng
ta không cương quyết dứt khoát thì suốt đời bị ngoại cảnh chi phối, làm
mình mất rất nhiều thì giờ. Khi thành quen rồi, chúng ta cho đó là việc
bình thường, làm sao tu hành được nữa.
Người xưa khi hạ thủ công phu không rảnh để cắt móng tay. Như có một vị
thiền sư tu trong rừng, ngài đang lùi khoai trong đống lửa. Bấy giờ sứ giả
của nhà vua tới thưa: Bạch Hòa thượng! Có chiếu chỉ mời. Ngài lấy tay bới
củ khoai trong đống lửa ra lột ăn, nước mũi chảy xuống tèm hem. Sứ giả
thấy ngộ quá, nói: Xin ngài hoan hỷ chùi nước mũi dùm. Ngài bảo: Đâu có
rảnh mà chùi. Đó là gì? Người xưa tham thiền tu hành miên mật, không để ý
tới chuyện bên ngoài, chuyện trau chuốt thân tướng, không quan trọng chiếu
chỉ vua ban, chỉ biết việc bổn phận của mình.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy công phu tu hành hằng ngày của mình
phải làm sao giữ gìn cho miên mật, tích cực. Luôn luôn như vậy thì đảm bảo
có thể thực hiện được giác ngộ giải thoát. Bản thân chúng ta thực hiện
được rồi, mới nói đến việc dẫn dắt chúng sinh tới chỗ giác ngộ giải thoát.
Năng lực, vốn gốc của mình có đầy đủ thì tất cả việc làm bên ngoài không
khó. Ngược lại vốn gốc không có, không vững, ta lại ôm đồm làm việc bên
ngoài, nhất định sẽ gặp lúng túng khó khăn, ít khi được thành tựu. Do gốc
chưa đầy đủ nên việc nói và làm chưa đi đôi, điều này dễ đánh mất lòng tin
của mọi người chung quanh chúng ta.
Có bốn hiện tượng của con người trong cuộc đời, đó là gì?
1. Sự già khụ, quằn quại, tàn phế suy nhược của sắc thân.
Nói gì thì nói, dù người thành công hay thất bại trên mọi lĩnh vực, đến
một lúc nào đó thân này cũng sẽ già cụm tàn phế. Bởi vậy các mặt hàng mỹ
phẩm luôn luôn được thịnh hành, mỹ viện phát triển nhiều. Là vì sự đổi
thay suy tàn của thân này, dù chúng ta mong nó đẹp bền, niềm mong mỏi ấy
chỉ là mơ mộng, không có đáp án. Có khi một chút xíu lo lắng, đầu đêm
chúng ta không thấy mệt, không thấy già nua, nhưng qua đêm mất ngủ, sáng
ra ta thấy tóc bạc, người uể oải, mọi thứ chung quanh nhạt nhòa, không
phấn chấn vui tươi nữa. Đó là gì? Là hiện tượng già cụ, thân xác suy nhược
còm cỏi.
Có khi Phật tử sẽ đặt câu hỏi người tu thấy thân này không thiệt, thì sợ
chi thân thay đổi, tàn lụn? Thưa, tuy biết thân không thiệt nhưng nếu
chúng ta không có thân thì lấy gì mà tu. Có thân, có nghiệp tập, có phiền
não, có bạn hữu, có cảnh duyên nên ta có tu, có xuất gia, có học pháp, có
hành trì lời Phật dạy. Người biết dụng công tu hành thì không lệ thuộc bởi
hoàn cảnh, bởi thân nhưng biết dùng thân cho mục đích vì thành đạo nghiệp
của mình. Khi thấy thân bị chi phối bởi vô thường, chúng ta càng nỗ lực tu
nhiều hơn, từng phút giây gầy dựng đạo lý, trí đức để kịp giác ngộ trước
khi thân hoại mạng chung. Thấy và áp dụng như vậy thì mỗi ngày qua không
uổng tí nào hết. Nhưng nếu chúng ta không khéo thì cố chấp, khổ đau lụy
phiền vì thân, vì cảnh không thật. Phiền não từ vô minh phát sinh. Chúng
ta chưa làm chủ được, chưa tỉnh giác, chưa giác ngộ nên bị phiền não nhiễu
loạn. Chỉ khi nào tỉnh giác, trí tuệ hiện tiền chiếu phá vô minh tăm tối
thì sẽ hết phiền não.
2. Con người khổ đau vì những cơn bệnh của thân. Trên đời này có ai không
bệnh? Người già bệnh, người nhỏ cũng bệnh, người có tiền nhiều bệnh, người
không một đồng cũng bệnh. Làm sao để đừng bệnh? Đáp án này khó giải quyết
lắm. Bởi vì thân là gốc của bệnh, gốc của khổ đau. Chúng ta lỡ ngu si gầy
dựng thân này từ những tăm tối, tham đắm, bây giờ bị lụy bởi nó. Không có
người nào từ nhỏ tới già không một lần bệnh. Có người rất ít bệnh nhưng
mỗi lần bệnh là gần mất mạng. Có người bệnh liên tục như cảm ho, nhức đầu,
sổ mũi, đau nhức, gió không ưa mưa không chịu, nên thân phải thọ khổ liên
miên. Khi thân càng có tuổi tác, càng bị chồng chất bởi nhiều sự kiện
trong cuộc sống thì càng bệnh hoạn suy yếu. Mới hôm nào khỏe mạnh đó, hôm
nay chống gậy, chân cẳng xệu xạo.
Ai cũng cầu nguyện, mong mỏi cho thân cường tráng, khỏe mạnh, tươi tắn,
sống lâu trăm tuổi. Như vậy, cái mong ước mình phóng tới quá tầm tay, cái
hiện thực lại theo chiều trái nghịch. Với người tu, chúng ta có thái độ
thế nào trước thực trạng này của thân? Phải hành trì pháp môn gì để thắng
lướt, giữ vững công phu, không bị bệnh tật ngã quật, làm mất ý chí tu hành?
Nếu chúng ta không làm chủ được, không khắc phục chính mình thì bệnh tật
sẽ làm tổn giảm và gián đoạn công phu tu hành. Cho nên người tu phải biết
điều hòa thân tâm, nhất là giữ tâm ý thanh tịnh. Dùng năng lực thiền định
để thắng lướt những lo sợ khi thân có bệnh. Điều hòa được thân tâm thì
chúng ta khỏe mạnh, tu tiến, trí lực phát triển, công phu không bị trở
ngại.
3. Hiện tượng chết. Con người nếu không điều hòa, tứ đại bị lệch bên nào
thì không còn sử dụng thân được nữa. Khi chết thân này là cái tử thi sình
thối, mọi người ghê tởm. Đây là một đề án rất cần thiết cho người tu. Hành
giả nào còn chút mơ tưởng về dáng dấp, dung nhan, về vẻ đẹp mỹ miều của
thân thì hãy quán chiếu đến giai đoạn thứ ba là thây chết. Quán như vậy sẽ
giúp vị ấy hoàn toàn tỉnh. Tỉnh cái gì? Tỉnh vì ghê tởm sự nhơ nhớp, sình
chương của thân. thân không thật nên cái đẹp cũng không thật, nhờ thế ta
không còn đắm luyến thân nữa.
Nếu một phút giây ta không điều hòa được thân thì đứt thở. Đứt thở thì bỏ
thân. Thân bỏ một đôi hôm sình lầy, hôi thối, mọi người ghê tởm chán chê.
Dù đó là thân thể của người chí thân chí thương của mình, khi không còn
thở nữa trong vòng đôi ba tiếng đồng hồ, người ta gói ghém, đóng hòm chôn
tức thì. Thiên hạ nói xây mồ xây mả cho đẹp nhưng thực sự là đắp lại thật
kỹ để không bay hơi hôi hám. Từ đó chúng ta nhận ra công phu điều hòa thân
là một công phu quan trọng. Ở đây là nói trong giai đoạn ta còn sức khỏe,
chứ khi không còn sức khỏe nữa, nói điều hòa là vấn đề không dễ dàng. Điều
hòa gì được? Lúc sức khỏe suy thoái, bước đi phải chống gậy, nghĩa là có
thêm chân thứ ba nữa, nhưng cần té nó cũng té chỏng gọng như thường. Mình
không làm chủ được. Từ đó ta thấy việc điều hòa thân tâm là một pháp tu
không thể xem thường. Có vậy chúng ta mới sử dụng thân này trong lúc cần
để tu hành.
4. Hiện tượng giải thoát. Ở đây mở ra một chân trời mới, có thể là chỗ
mộng mơ cuối cùng của chúng ta. Tại sao mộng mơ? Vì chúng ta bị bức bách
bởi thân già bệnh rồi chết, nên mong có một phương pháp, một chân trời nào
đó để mình được an toàn. Nhưng nếu mong suông, thì chẳng được gì đâu. Đạo
Phật giúp cho con người có nhận định, mở ra những phương thức tu hành, từ
đó áp dụng sao cho đúng với sự chỉ giáo của các thiện hữu tri thức. Chúng
ta không thể ngồi đó mong được giác ngộ, hoặc chờ người khác trao cho mình
sự an vui vĩnh cửu. Bao giờ vướng vào những tơ tưởng ảo vọng như vậy. Phải
ngay đây giải quyết việc chính của mình, tranh thủ thực hiện sâu sắc
phương pháp Phật dạy.
Hiện tượng thứ tư là hiện tượng cho phép chúng ta được ước mơ, và từ ước
mơ biến thành hiện thực. Chân trời đó chúng ta thực hiện được bằng công
phu tu hành, giải quyết tất cả những vấn đề lỉnh kỉnh của con người như
già bệnh và chết. Chúng ta phải năng nổ, tích cực thực hiện cho bằng được
ước mơ của mình. Muốn thế, chúng ta phải có đức trầm tỉnh. Trầm tỉnh để
nhận định, để đi sâu vào pháp tu, đối diện với tất cả sự kiện chung quanh,
mình không bị động. Chư tổ hồi xưa dạy: Người có công phu tu hành đi như
trâu, nhìn như cọp. Nghe nói thì thô, nhưng đó là phương thức tu hành thể
nhập được đạo lý.
Nói đi như trâu là sao? Con trâu đi từng bước chắc chắn, không phải như
khỉ vượn nhảy phớt qua phớt lại. Người có đức trầm tỉnh đi bước nào chắc
nịch bước nấy, đi trong tỉnh giác. Nhìn như cọp là sao? Con cọp luôn nhìn
trực diện, không lăng xăng láo liên như khỉ vượn. Chúng ta nhìn dáng dấp
bên ngoài có thể nhận định được người sâu sắc, trầm tỉnh hay không? Người
tu phải trầm lắng xuống, tỉnh táo xem xét hiện trường chung quanh. Nếu
không trầm tỉnh dễ bị té, bị sụp hố, bị lạc đường. Chúng ta uy nghiêm dũng
cảm tiến trên con đường giải thoát khổ đau già bệnh chết.
Thiền sư nói: Sống như đắp chăn đông, chết như cởi áo hạ. Mùa hạ nóng bức,
cởi chiếc áo nhơ nhớp đầy mồ hôi thì thích thú biết bao nhiêu. Đối với
người tu thiền, chết không phải là mất mát mà là thảnh thơi, nhẹ nhàng như
cởi được chiếc áo nhơ mùa hạ. Thế gì có gì buồn, có gì phải khóc? Nhưng
muốn được như thế không phải dễ đâu. Nếu chúng ta không chủ động dũng mãnh,
giải quyết việc của mình, tháo gỡ những trói buộc trong già bệnh chết, thì
không thể ung dung tự tại trước sống chết. Vui vẻ lúc sống, bình thản lúc
chết là hình ảnh đáng quý nhất của người tu. Có vui vẻ mới tu được, mới ăn
ngon ngủ yên, chứ phiền não bức xúc trong lòng hoài làm sao sống nổi. Khi
chúng ta làm chủ được, không bị sai sử bởi các pháp, đó là có trí tuệ, có
sự tự do tự tại, giản dị như thế.
Hòa thượng Viện trưởng dạy chúng ta phải buông những dấy niệm, đừng để nó
kéo lôi. Trong bất kỳ sinh hoạt nào, vừa có một dấy niệm là mình buông,
định tỉnh, trầm lắng, làm chủ được, tức thì trí tuệ phát sinh. Trí tuệ đó
là trí tuệ Bát-nhã, biết rõ tất cả các hiện tượng đều hư giả không thật.
Cho nên một khi buông là buông, chứ không nấn ná vướng mắc gì hết, rõ ràng
như vậy. Chúng ta lại có thói quen đi lòng vòng. Như hồi chiều mình có
phiền não, liền cất vô bụng để tối ngồi thiền tính với nó. Nhưng cất từ
chiều tới tối là thêm vấn đề chứ không phải bao nhiêu đó thôi đâu. Câu nói
của chị kia hồi chiều như vậy, mình để trong bụng tới tối nó khác. Cho nên
mình phải giải quyết tức thì, nghĩa là buông ngay, không thèm cất chứa làm
chi cho phiền não. Chuyện tu hành không gì ngoài giải quyết mọi lỉnh kỉnh
phiền toái, những bất an bất ổn trong đời sống, trong sinh hoạt của chúng
ta. Vì vậy điều kiện tiên quyết là người tu phải luôn tỉnh giác.
Phật nói chúng sanh và chư Phật bằng tuổi nhau. Đó là tuổi thọ vô lượng.
Đức Phật đã xuất gia tu hành thành đạo, thuyết pháp giáo hóa và thị tịch
cho tới bây giờ hơn hai ngàn năm trăm năm mà chúng ta vẫn còn là chúng
sinh mê muội. Do vô minh khiến chúng ta tăm tối, bị trói buộc trong cuộc
sống này. Bây giờ mình tháo gỡ, giải thoát nó ra, để trí tuệ hiện tiền.
Việc này không phải dễ, rất là khó. Thế thì bây giờ phải tu làm sao? Là đệ
tử Phật chúng ta biết rõ, nếu mình không giải quyết việc già bệnh chết thì
không ai thay thế cho mình cả. Chỉ bao giờ mình bỏ hết những cù cặn, những
thói xấu thì trí tuệ hiện tiền, lúc ấy ta giải quyết được vấn đề.
Phật nói vô minh hết thì cái minh hiện tiền. Vô minh với minh giống như
ánh sáng và bóng tối. Chỉ cần cái công tắc mở đèn, chớ nó không có biên
cương cố định. Hễ mở đúng công tắc là đèn sáng, tối tăm chạy hết, mà tắt
đèn thì tối tăm ập tới, ánh sáng không còn. Biên cương sáng tối tìm không
ra, chỉ đòi hỏi chúng ta biết sử dụng công tắc đèn thì vô minh tăm tối nó
không bu bám được. Vô minh tăm tối không bu bám được thì chân trời tịnh
thanh, rỗng rang sáng suốt hiện bày. Nhờ đức Phật thị hiện nơi đời mà
chúng ta biết cách tu tập để được giác ngộ, giải thoát những nghiệp tập
của mình. Làm được việc này đến nơi hay không là do chúng ta, chứ không
phải ở ngài nữa.
Đức giáo chủ ra đời có nhiều thắng lợi. Thắng lợi thứ nhất là giúp chúng
ta giải quyết được những dục lậu phiền não qua công phu tu hành của mỗi
người. Nhờ biết nó là dục lậu, là phiền não nên chúng ta không chất chứa,
không nuôi dưỡng trong lòng nên không bị khổ. Thắng lợi thứ hai là Phật
giúp chúng ta tu tập để được giác giải thoát khỏi sanh tử. Không ai nguyện
sinh lại làm người nam hoặc nữ, chỉ mong cho con được giác ngộ giải thoát,
không bị ràng buộc nữa. Nếu có tái sinh thì chọn đường đi một cách tự tại,
chớ không để nghiệp ràng buộc kéo lôi lẩn quẩn trong luân hồi sinh tử. Các
thiền sư còn nói một câu hùng hồn thế này: Nơi nào không có Phật tới đó
làm Phật. Những thiền sư có đệ tử đông, khi viên tịch đệ tử thương khóc
quá, quí ngài ngồi dậy nói: Ta đi là đã biết đường, việc gì các ngươi phải
khóc. Nếu không biết đường, sợ thầy lủi đâu đó mới khóc, đằng này thầy đã
biết đường đi mà khóc lóc gì. Thắng lợi thứ ba là tất cả tăm tối chúng ta
thảy ra hết. Đồng thời còn giúp mọi người chung quanh cũng được sáng suốt
như chúng ta. Đó là thực hành hạnh tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn
của chư Phật.
Trong từng phút giây, chúng ta còn bị luỵ bởi các việc ăn mặc, ngủ nghỉ,
giao tế
nhưng với thâm tâm cương quyết dũng mãnh của người con Phật chúng
ta nhất quyết hành trì cho được những điều Phật dạy. Bao giờ sống với tánh
giác hiện tiền trùm khắp, nhập pháp thể thanh tịnh sáng suốt trùm khắp là
đã đền ân chư Phật. Sau cùng, chúng ta đi theo con đường của chư Phật là
nguyện độ tận chúng sanh, đồng về bờ giác. Đó là hoài bão, là chỗ chí
thiết nhất của những người con Phật.
Để tưởng niệm ngày đức giáo chủ ra đời, nương nhờ hồng ân Tam Bảo, nhờ
phúc trí của các bậc thiện hữu tri thức, chúng ta nguyện sẽ thực hiện được
tâm nguyện này của mình, lấy đây dâng lên cúng dường đức Phật nhân ngày
Thế Tôn đản sanh.
|