PHÁ THAM CHẤP ĐỂ TU
Phật
Đản 2542- 1998
Trong công phu
tu hành hằng ngày dĩ nhiên chúng ta vấp phải những trở lực, điều quan
trọng là ta có khắc phục được nó để tu tiến hay không? Do đó Phật tử cũng
cần phải hiểu qua những trở lực này để chuẩn bị cho mình một thái độ tu
tập thật đúng đắn.
Để động viên
Phật tử, chúng tôi thường nói việc tu hành không khó khăn lắm đâu. Song
thiết nghĩ, nếu chỉ nhận được mặt dễ, đến khi gặp khó khăn quí vị không
giữ được công phu, như vậy việc tu hành sẽ không viên mãn. Do đó chúng tôi
nêu lên những khó khăn để Phật tử nắm rõ và có sự chuẩn bị.
Như quý vị
biết, có những khó khăn trong lòng mình, ta chưa đủ sức khắc phục, chưa đủ
lực phấn đấu vượt qua. Nó chính là những trở ngại lớn trên bước đường tu
tập của chúng ta. Hành giả phát tâm tu hành rất cần ở phần phấn đấu bên
trong. Vì vậy nên việc học tập để rút tỉa kinh nghiệm từ các bạn đồng tu
rất cần thiết. Có rút tỉa kinh nghiệm, chúng ta mới kiện toàn những gì cần
thiết trong công phu tu hành của mình. Khắc phục được những trở lực, những
chướng ngại, làm chủ được mình và an toàn trong công phu là yếu thuật mà
một người học Phật cần phải nắm vững. Chúng ta cũng biết không một việc
làm nào không gặp khó khăn. Và một việc làm thành công nếu không có những
khó khăn, thì sự thành công ấy chưa có giá trị bao nhiêu. Thành công ấy
nói như người đời chỉ là sự may mắn mà thôi.
Người con
Phật có trí tuệ sáng suốt thì tự biết nghiệp lực của mình do chính mình
gây tạo trong nhiều đời kiếp. Bây giờ gặp quả báo không tốt, ta không đổ
thừa trách nhiệm đó cho ai. Cho nên các chướng duyên mắc phải trên đường
tu, nói cho cùng cũng từ nơi mình mà ra thôi. Ta chấp nhận, vui vẻ trả,
như vậy là đã vượt qua được chướng duyên rồi. Và một điều chắc chắn nữa là
hễ trả thì hết. Chịu trả, cố gắng trả và trả hết những nợ nần đó rồi thì
sẽ hết nợ. Đó là điều hiển nhiên.
Những khó
khăn cơ bản đối với người tu chúng ta là ngũ dục, tức tài, sắc, danh,
thực, thùy hay sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Người tu muốn chiến thắng
được nó đòi hỏi phải có một tĩnh lực nội tại thâm hậu. Âm thanh là cái gì?
Sắc tướng bên ngoài là cái gì? Cảm xúc là cái gì? Chẳng qua chúng chỉ là
những hiện tượng hư giả mà thôi. Nhưng thật tình đối với những bóng dáng
hư giả giống hồn ma bóng quế này, nếu chúng ta không tỉnh thì sẽ bị nó đeo
đuổi, dính chặt như nhựa, gỡ ra không phải dễ. Có khi suốt đời chúng ta cứ
loay hoay, sống trong cái chạy đua, đòi bởi của chúng nên cuối cùng chuốc
lấy quả khổ. Ở đây vấn đề là làm sao chúng ta phá tan sự tham muốn đối với
ngũ trần. Phá tan được những thứ này thì việc tu hành mới giữ vững, mới
thanh tịnh và thảnh thơi.
Phật dạy ngũ
trần đều là huyễn hóa, tất cả những thứ đó không thật, là những bóng giả,
những vọng động từ tâm niệm không tự chủ được của chúng ta. Nó tầm thường,
bâng quơ như vậy đó, nhưng muốn dẹp nó phải dùng một trí lực mạnh mẽ mới
được. Nếu ta không phá tan được những bóng mờ âm thanh, hoặc những hình
ảnh trước mắt thì lòng mình cứ điên đảo, cứ dấy niệm lăng xăng ngược xuôi
theo những bóng mờ ấy hoài. Đã như vậy thì làm sao thanh tịnh được! Có khi
hình thức bên ngoài chúng ta tươi tỉnh nhưng trong lòng không thanh tịnh,
lúc nào cũng có cái gì bất an. Những thứ này dù cho chúng ta có đối diện
với đức Phật, đối diện với các bậc Thầy, các thiện hữu tri thức… cũng
không bao giờ dám khai thật ra. Cứ ấm ức ôm giữ trong lòng, không biết nói
với ai? Nếu không thấy được tận căn để của nó là đồ bỏ thì khó đập tan
lắm. Cho nên đòi hỏi ta phải có nội lực, tỉnh táo, kiên quyết mới trị được
những thứ “tầm thường” kia.
Thành ra nói
trị ở đây không phải dùng hình thức bên ngoài mà trị được. Không phải vật
một trăm cân, muốn đập tan nó mình phải có vật nặng hơn gấp đôi mới đập
được. Không phải hình thức như vậy, nó vô hình nhưng sức đeo đuổi, len lỏi
dây dưa theo mình rất khắn khít. Người tu mà còn những thứ này thì nhất
định không tiến đạo được. Bây giờ muốn bỏ nó phải làm sao? Phật dạy người
tu phải là người có kiếm trí tuệ, chặt một cái đứt làm hai đoạn, vứt hết
ra bên ngoài. Có thế mới vững tiến vững tu, vững niềm tin trên con đường
đạo.
Chúng ta
biết rằng con đường tu hành phải trải qua nhiều kiếp số. Nếu trong đời này
ta chưa nhận được nguồn gốc, chưa thấy đến nơi đến chốn thì sẽ tiếp tục
những bước dài lang thang, trải dài nhiều kiếp số nữa. Do vậy nên có rất
nhiều người tu một giai đoạn siêng năng tột bực, nhưng sau đó họ lại bỏ
cuộc quay về con đường thoái hóa. Phật gọi đó là những chiến sĩ bại trận,
giữa đường bỏ hàng ngũ. Chúng ta nên tránh những tình trạng tệ xấu ấy, hãy
cố gắng làm một chiến sĩ không biết khuất phục trước quân thù. Có như vậy
mới xông pha chiến trận và mang chiến thắng trở về. Thà là bước thật chậm,
nhưng bước nào vững bước ấy, một bước là gần đến nhà một bước. Nhất định
như vậy.
Với cái tinh
thần tu thiền, thiền sinh làm sao phát huy được trí tuệ của mình, tất
nhiên tất cả những bóng mờ ấy đều bị quét sạch. Giống như mặt trời lên thì
tất cả những tăm tối đều dứt hết. Ở đây, điểm thứ nhất tôi muốn nói chúng
ta phải phá tan được những sự ham muốn, tức là những cái dục. Dục nói theo
nghĩa rộng là những dấy niệm đối với các duyên trần, chớ không phải chỉ sự
ham muốn nơi sắc dục mà thôi. Chúng ta phải làm chủ, con mắt lúc nào cũng
sáng, xem thấy rõ, nhìn tường tận coi những dấy niệm ấy là gì? Khi thấy rõ
ràng như vậy chúng ta sẽ không bị nó lừa nữa. Cho nên điều kiện tối cần,
nhất định chúng ta không thể lờ mờ, dây dưa, không thể không có thanh kiếm
trí tuệ thật bén chặt đứt được chúng. Thành ra nói đập tan, nói cắt đứt,
nói một đường gươm v.v… đều chỉ cho cái tỉnh sáng quyết liệt, không thoái
bước của người tu thiền.
Điểm thứ
hai, chúng tôi muốn nói phải phá tan được những dấy niệm trong lòng thuộc
về giận hờn, thù oán v.v… Chúng sanh luôn luôn bị hai cái gọng kềm thương
và ghét kẹp cổ lôi đi. Đối tượng nào ta thấy vừa lòng thích ý thì có niệm
thương. Cái thương cũng không làm cho mình yên nữa. Hiện nay có rất nhiều
người khổ vì thương, phải không? Ví dụ quí vị lo lắng vì thương con, hết
con tới cháu, hết cháu tới chắt… thương hoài. Thương hoài ngàn năm! Nếu ai
vương vào cái thế này tức là bị loại vọng niệm thương nhận chìm. Nó kéo
lôi mãi, làm sao sáng suốt, làm sao tĩnh tu được. Nhiều người bảo thương
có tội, có hại gì đâu? Dĩ nhiên là trong cuộc sống này con người có những
tình cảm thông, có sự thương yêu đùm bọc nhau. Nhưng trên phương diện tu
thì đây quả thực là một loại phiền não làm chướng đạo.
Phật cũng có
tình thương nhưng tình thương của đức Phật là từ bi. Trong tình thương này
có đầy đủ trí tuệ. Nhờ thế đức Phật thương chúng sanh nhưng không khổ như
chúng sanh. Nhờ ánh sáng trí tuệ chiếu soi nên tình thương là chất liệu
của lòng từ vô ngã vị tha. Đức Phật thương hết thảy mọi loài, không phân
biệt đẳng cấp, thương bình đẳng và trong sáng chớ không lương vương, mơ mơ
tưởng tưởng như chúng ta. Thương như chúng ta là kiểu thương hại. Thương
mà hại. Nó sẽ làm chướng đạo, làm mê mờ tánh giác của mình. Vì vậy điều mà
người tu phải để tâm dè dặt, là đối với tất cả những dấy niệm cảm tình, về
những thứ vừa lòng thích ý, lúc nào ta cũng phải tỉnh phải cảnh giác.
Tại sao phải
tỉnh, phải cảnh giác? Bởi những thứ này nó làm phiền mình dữ lắm. Đem nó
vào lòng rồi là rắc rối tới. Quả thực hậu quả của tất cả những cảm tình
không có trí tuệ đều dẫn tới khổ đau dài dài. Thương rồi lo, thương rồi
buồn, thương rồi khổ v.v… Có khi người ta tức giận lên vì thương, nhưng
rồi thương thì cứ thương mà giận thì cứ giận. Quái gở thật! Với người tu,
hiểu rõ con đường hiểm nguy khổ nạn như vậy, chúng ta phải biết dừng, biết
thôi chứ.
Ngoài thương
ra, còn cái không thương nữa. Không thương là sao? Đối diện với pháp trần,
với sự việc, một con người nào đó mình thấùy bực ghét rồi là cái gì thuộc
đối tượng đó mình cũng không ưa hết. Giống như anh chàng mất búa trong
chuyện cổ tích. Khi đã mất búa rồi, anh nhìn thấy người qua kẻ lại trước
nhà mình, ai cũng là kẻ ăn cắp cây búa của anh cả. Tại sao thế? Bởi vì
chúng ta không có trí tuệ. Thương là những cảm tính, không thương cũng là
cảm tính xuất phát từ vọng tưởng mà ra. Thực tình trên đời này có ai hoàn
bị đâu? Hoàn bị lắm cũng chỉ được sáu bảy mươi phần trăm thôi.
Ngay cả như
đức Phật, đương thời còn bị ngoại đạo chỉ trích, đâu phải lúc nào Ngài
cũng được mọi người quý trọng khen ngợi đâu. Đọc kỹ trong kinh điển Nguyên
thủy, chúng ta sẽ thấy hàng ngoại đạo luôn tìm cách moi móc nói xấu Cù Đàm
thế này thế kia v.v… Đức Phật còn như vậy, hà huống là chúng ta! Biết thế
chúng ta vững tâm tu hành, tất cả những hiện tượng trước mắt không có gì
hoàn toàn cả. Các pháp vốn bất toàn, thân này vốn bất toàn, tâm niệm của
mình cũng bất ổn bất toàn. Đã như vậy thì trong đời này có gì tuyệt đối?
Thành ra làm sao mọi giận hờn, phiền não đều phải được chúng ta loại bỏ
hết.
Người tu thì
phải là người có trí tuệ. Giữ gìn tâm niệm của mình như mèo rình chuột.
Quý vị cứ tưởng tượng khi con mèo nó rình chuột, đôi mắt nó lom lom, tay
chân không nhúc nhích, cố tâm đeo đuổi đến khi nào đớp được con chuột mới
thôi. Nhất định là như vậy. Nếu chúng ta tu mà nhìn từng dấy niệm của mình
lom lom như con mèo vậy thì nhất định không có vọng tưởng nào dám xen vào
đừng nói tới chuyện kéo lôi, nhận chìm hay dẫn dắt mình đi đâu cả. Những
vọng tưởng thương, không thương đều biến mất hết, bởi vì nó không thật.
Một khi có ánh sáng trí tuệ chiếu soi vào là nó lặng ngay. Có phá, có dẹp,
có làm chủ được như vậy thì mình mới là người chiến thắng, mới là người tu
vững vàng.
Điểm thứ ba
là phải phá tan sự lười biếng. Muốn phá tan lười biếng thì phải siêng
năng. Có siêng năng mới thấy được những cái dở, cái khuyết của mình. Siêng
năng như thế nào? Siêng năng trong nhà đạo là theo dõi bám sát từng tâm
niệm của mình, từng thói hư tật xấu để loại nó ra. Sự siêng năng quả thực
phải từ trong lòng mình phát ra, không phải ai ban bố cho. Tự mình có công
phu, siêng năng liên tục mới làm chủ được. Người tu không thể nào không có
siêng năng. Phải siêng năng. Lúc nào cũng siêng năng, bởi càng siêng năng
ta càng thấy rõ thói hư tật xấu của mình để loại bỏ nó đi. Có siêng năng
mới làm chủ được chút chút, không còn ngược xuôi dong ruổi theo các trần
cảnh như trước.
Trong công
phu tu hành nếu chúng ta không siêng năng, kết quả sẽ không đi tới đâu
hết. Giống như một học sinh, lơ mơ lan man đối với bài vở, học thì cứ học
nhưng không ra làm sao hết thì đảm bảo cuối khóa sẽ thi rớt thôi. Người tu
hơn ai hết, biết con đường Phật đạo dài lâu, trải dài kiếp số vô lượng,
gặp nhiều chướng ngại khó khăn nên cần phải siêng năng tinh tấn vượt qua.
Sự siêng năng thể hiện qua từng hành động, sinh hoạt nhỏ của mình. Ví dụ
thường buổi tối 6h30 phút là giờ tụng kinh, bữa nay tới giờ tụng kinh mình
còn vướng một chút việc, nên tự nói “Thôi kệ, mình giải quyết việc này
chút nữa đi rồi mai sẽ tụng kinh”. Nhưng nếu hôm nay vướng một chút việc,
mình phá vỡ thời khóa tu hành, thì ngày mai cũng sẽ vướng chút việc khác
nữa, rồi lại tiếp tục mất công phu. Cứ thế ngày kia, ngày nọ, năm chầy
tháng lụn, công việc lấp kín hết thời khóa công phu của chúng ta. Cho nên
chỉ cần một phút dễ duôi ban đầu là ta tự đào hố chôn mình bởi những thói
quen đó.
Dù đức Phật
có sống lại đưa tay kéo ta lên mà mình cứ nặng nề bởi những vướng mắc
thường tình thì Phật kéo mấy cũng không nổi. Ngài chỉ kéo được những người
chịu tỉnh giác, siêng năng, giữ vững ý chí tu hành thôi. Đây là kinh
nghiệm bản thân của chính chúng tôi. Cho nên khi nói đến sự lười biếng thì
không người tu nào không ít nhiều biết đến kết quả tệ hại của nó. Song nhờ
chúng ta còn có bạn, có thiện hữu tri thức, có Thầy và có những phương
tiện thắng duyên để thực hiện công phu tiếp tục. Yêu cầu đòi hỏi nơi chúng
ta là phải có sự khắc định. Người tu theo đạo Phật mà không khắc định,
khắc tĩnh thì khó tiến đạo lắm. Định tĩnh để không bị lay chuyển, không dễ
duôi xem thường thời khóa. Đừng có bữa nay như vầy ngày mai lại khác, việc
tu cứ một nắng mười mưa thì sẽ không đi tới đâu hết.
Chúng ta tu
hành mà không biết mình rõ ràng thì khó tiến được lắm. Có khi ta còn lầm
nữa. Ví dụ bình thường mình ngồi thiền một tiếng đồng hồ, bữa nay ngồi
tăng lên được nửa tiếng, ta thích quá cứ tưởng như vậy là sắp thành Phật
rồi. Cho nên nói ra toàn nói chuyện trên trời, những chuyện minh tâm kiến
tánh thành Phật, Bồ-tát hóa đạo gì gì đó… Nhưng xin thưa việc ấy chỉ lóe
lên trong một lúc nào đó thôi, chứ chưa thi gan cùng tuế nguyệt được đâu.
Nếu không thực hành kiên quyết liên tục thì sẽ ló đuôi phàm phu với bao
nhiêu tập khí y như cũ thôi. Việc tu hành cần phải thực hành liên tục,
không thể một ngày hai ngày là xong được, không thể bước tới một bước rồi
lùi hai ba bước. Thành ra biết mình biết người thì trăm trận trăm thắng.
Chúng ta tu rồi biết các pháp là giả huyễn nên buông hết. Lâu ngày công
phu nhuần nhuyễn thì không cần nói tới việc thành Phật ta cũng thành Phật
như thường. Rõ ràng như vậy.
Điểm thứ tư
là không phóng tâm. Do không phóng tâm chúng ta mới bình tĩnh, không xao
lãng. Chỗ này hơi tế nhiệm một chút. Phóng tâm là gì? Là những dấy niệm
dong ruổi. Ví dụ như ta ngồi đây, nghe động tịnh gì bên ngoài liền dấy
niệm. Nghe âm thanh của một lời ca, tiếng nhạc gì đó, mình dấy niệm nhớ
lại thành phố năm xưa tháng này có ai… Chính những dấy niệm này làm cho
chúng ta không tu được. Cho nên phải làm sao tập trung được chủ lực để phá
tan sự phóng tâm, tức phá tan những dấy niệm của mình. Đây cũng chính là
pháp tu chủ yếu “biết vọng” do Hòa thượng Ân sư chỉ dạy Tăng Ni tại các
Thiền viện.
Chúng ta
không tập trung thì không sao làm chủ được những dấy niệm của mình. Đó là
điều hiển nhiên thôi. Những dấy niệm tuy không là gì hết, nhưng nó sẽ dẫn
mình đi không cùng tận, đi không biết đường về. Nó không là dây xiềng cột
trói, cũng không là mây mưa vũ bão nhưng lại chướng ngăn bước tiến đạo của
chúng ta ghê lắm. Nếu không dừng được cứ lao theo thì mình sẽ bị nó còng
trói, lôi đi đời đời kiếp kiếp. Ghê gớm như vậy đó. Vì vậy người tu hơn ai
hết, phải quyết tâm buông được, bỏ được những phóng tâm của mình. Muốn làm
điều này, con đường hay nhất chính là thiền định.
Phật tử hiện
nay đối đầu với trăm công ngàn việc, làm sao có được những phút giây yên
tĩnh để thiền định? Điều này đòi hỏi quí vị phải khéo sắp xếp, khéo ứng
dụng đạo lý Phật dạy vào sinh hoạt của mình. Dĩ nhiên Phật tử không có
những điều kiện thuận lợi như người tu chúng tôi, nhưng nếu quyết tâm quí
vị vẫn có thể tự sắp xếp thời khóa riêng cho mình. Tùy hoàn cảnh gia đình,
tùy công việc mà quí vị cố gắng thực tập công phu miễn sao có niềm an lạc
là tốt rồi. Nên nhớ nếu không có thiền định, không có sự định tĩnh, chúng
ta không làm sao làm chủ được cái phóng tâm. Vì vậy quý vị phải có nguyên
tắc, sắp xếp và ấn định cụ thể công việc hằng ngày của mình để không mất
công phu.
Thưa quý vị,
chúng ta có sống thêm một trăm năm hay một ngàn năm nữa cũng không thể nào
giải quyết được hết mọi thế sự ở trần gian. Tỉnh biết như vậy, chúng ta
phải khung lại, gói gọn lại giải quyết những việc trước mắt thôi. Ví dụ
sáng nay mình đi chợ mua thức ăn về nấu nướng xong, đúng giờ dùng cơm.
Chừng ấy việc thôi, đừng có thêm cái gì trong đó nữa. Chứ kiểu tính đi chợ
Phước Thái mà ra gặp bạn rủ đi Thành phố liền xách giỏ đi tuốt là hỏng
việc rồi, làm sao kịp bữa cơm trưa? Ai giải quyết, sắp xếp công việc như
vậy sẽ không làm gì được hết. Rồi mắc mứu, rồi lang thang.
Việc tu hành
cũng thế. Chủ trương của chúng ta là làm sao ngay trong đời này sáng được
việc lớn, thấy lẽ thực của các pháp. Thấy được như vậy tức là thấy đạo, là
kiến tánh. Như thấy thân này không thật mình mới bỏ tất cả những gì không
thật. Cho nên cái thấy trí tuệ ấy rất cần cho chúng ta. Mà muốn phát huy
trí tuệ ấy chúng ta phải gói gọn công việc lại, ấn định giờ giấc và tinh
thần tu hành cho rõ ràng, dứt khoát.
Như Tăng Ni
chúng tôi ở Thiền viện dưới sự hướng dẫn chỉ dạy tu thiền của Hòa thượng
Viện trưởng, thì nhất định chúng tôi không thể đem một pháp nào khác vào
đây thực hiện được cả. Không nên nói pháp này của Phật dạy, pháp do Hòa
thượng truyền đạt lại cũng của Phật dạy, nên tôi áp dụng pháp nào ở đây
cũng được hết. Không phải thế. Tuy pháp nào cũng do đức Phật dạy, nhưng
trong khi tu chúng ta nên chọn lựa một pháp thích hợp với trình độ, căn cơ
của mình, rồi thẳng một con đường mà tiến, không thể đi hai hàng mà có thể
mau đến nơi được. Ở Thiền viện dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng là chuyên
tu Thiền, chỉ học Thiền và hành trì pháp Thiền mà thôi. Tu có đường lối
chủ trương hẳn hoi như vậy mới đến nơi đến chốn được.
Chúng ta đâu
không biết thân này vô thường, hoàn cảnh tốt đâu phải lúc nào cũng đến với
chúng ta. Thân này đổi thay luôn luôn, nào bệnh hoạn, nào tai họa, đủ thứ
rình rập mình… Một luồng gió độc cũng đủ làm mất mạng, một tai nạn nào đó
bất ngờ cũng đủ làm con người tang thương, đau khổ suốt đời… có gì bảo đảm
đâu? Bây giờ chúng ta còn có điều kiện, phương tiện, còn tỉnh táo, các
giác quan còn sáng suốt mà không chịu tu, không nỗ lực tu cho đạt được kết
quả như thực, đến lúc già bệnh muốn đọc kinh nhưng hai mắt mờ căm không
thấy chi thì làm sao đọc được? Không đọc được thì làm sao hiểu kinh? Hoặc
mình muốn nghe pháp, mà hai lỗ tai điếc ngắc làm sao nghe?
Cứ nghiệm
nơi thân mình, chúng ta thấy rõ tứ đại hợp tan vô thường. Bốn thứ ấy lại
luôn chống trái nhau. Như có bao giờ chúng ta muốn trong người lúc nóng
lúc lạnh đâu. Ai cũng muốn khỏe mạnh, điều hòa hết. Nhưng ra ngoài trời
nếu không có nón hay dù che ở trên, đi nắng một hồi bị trúng nắng thì cảm
nắng, phát sốt. Hoặc đi trong mưa, trong gió, trong đêm lạnh mà không có
những phương tiện che đỡ trên đầu thì sẽ bị cảm sương, cảm nước, cảm lạnh.
Lạnh, nóng luôn luôn chống trái nhau, nó làm bất ổn cho thân này. Rõ ràng
có gì bảo đảm đâu?
Do đó chúng
ta phải tranh thủ gấp. Việc tu hành cần tranh thủ và có thái độ dứt khoát,
không nên đợi. Người ta nói duyên tốt, phúc lành không đến hai lần. Duyên
tốt đến với chúng ta mà ta không kịp thời nhận định sáng suốt để nó mất đi
thì khó tìm lại. Giống như trong truyện cổ tích kể: Có anh chàng nọ đi
rừng, ngang qua một gốc cây to, bất thần anh thấy chú thỏ nhắm mắt nhắm
mũi thế nào, chạy đụng gốc cây chết nằm đó. Anh lượm con thỏ về nấu ăn,
thấy ngon lành quá. Bữa sau anh lại ra gốc cây ấy ngồi chờ, coi có con thỏ
nào chạy đụng vô đó chết nữa không! Đợi hoài đến đói meo, nhưng anh chẳng
thấy con thỏ thứ hai nào chạy đụng vô gốc cây mà chết nữa cả.
Việc tu hành
của chúng ta không phải là việc cầu may. Chúng sanh sống theo luật nhân
quả. Người có tu, có công phu, có hành pháp như thế nào thì sẽ đạt được
kết quả tương xứng như thế ấy. Chắc chắn là vậy. Người Phật tử tin chắc
nhân quả, hành trì đúng nhân quả thì chẳng sợ gì cả. Sở dĩ chúng ta còn sợ
ma sợ quỷ, sợ trời gầm sét đánh, là vì mình chưa tin, chưa thấy được sự
thực của luật nhân quả. Nhân quả là gì? Phật dạy, người gây nhân bất hảo
sẽ bị quả không tốt. Người gây nhân tốt sẽ được quả tốt. Đó là điều dĩ
nhiên thôi. Phật tử nắm chắc như vậy rồi tu, khỏi sợ cái gì cả. Quí vị
không cần đến gốc cây, ông lò, miếu đình khấn vái cho con được cái này cái
kia… Ai muốn thi đậu bắt buộc phải siêng học, muốn tu hành kiến tánh ngay
trong đời này thì phải công phu liên tục, phải phá tan những tật xấu của
mình, nhất định sẽ thành công thôi.
Điểm thứ
năm là phá tan hoài nghi, tức là những nghi ngờ về Tam bảo
và nghi ngờ về khả năng giác ngộ của chính mình. Trong giới Phật tử, còn
nhiều vị nghi ngờ lắm! Bởi nghi ngờ nên tất cả lời Phật dạy, ít ai áp dụng
tới nơi tới chốn được. Quí vị đang tu như vậy, nhưng nghe ai nói “Bây giờ
lên núi (nào đó), uống nước tiên ban chỉ một lần thôi là mở sáng trí ra
thấy được đạo, khỏi phải tu gì cả”. Lúc đầu nghe thấy lạ nhưng nghe nhiều
lần như vậy, trong bụng nghĩ “Ừ! Đâu mình lên trên đó coi, uống thử chút
nước tiên xem có phải như vậy không?” Tức ngay đó đã bị ma quỷ, các loại
tư tưởng lan man ốp mình rồi, hà huống là chạy theo? Người như vậy là chưa
vững niềm tin, còn nghi ngờ đối với pháp tu.
Phật từng
dạy chúng ta đến với Như Lai để suy nghiệm chớ không phải đến để tin. Phật
không chấp nhận cuồng tín hay vì lý do nghe đồn đãi mà chúng ta đến với
Ngài. Ngài dặn đệ tử, những người muốn học theo Ngài phải hiểu Ngài rồi
mới tin Ngài, tu theo Ngài. Bây giờ muốn hiểu Phật phải làm sao? Trước
nhất phải làm sao làm chủ được đối với tất cả những cảnh duyên, không
phóng tâm ngược xuôi ra ngoài. Không để những giận hờn, thương ghét quấy
rầy làm mất thì giờ của mình. Chúng ta phải dứt khoát tự sắp xếp thời khóa
biểu tu tập đúng cho mình. Như vậy là tin Phật, tu Phật.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni trước khi thành Phật không phải là một vị Thánh, có những
biến hóa thần kỳ rồi mới vào thế giới này. Mà Ngài là một con người, trải
dài kiếp số Ngài cũng đã nếm trải tất cả những khổ đau trong luân hồi sanh
tử. Từ đó Ngài thấy được nguồn gốc của sự khổ đau, phát tâm tu hành và
quyết tìm ra một phương pháp để giải quyết những khổ đau cho chính mình,
đồng thời giúp tất cả mọi loài cùng giải quyết những khổ đau chung ấy.
Ngài đã có mặt ở Ấn Độ cách chúng ta hơn 2500 năm, con của vua Tịnh Phạn
và hoàng hậu Ma Da với tên Tất Đạt Đa. Lớn lên cũng lập gia đình rồi sau
xuất gia tu hành. Trải qua thời gian tầm đạo và tu hành khổ hạnh trong
rừng già, tinh tấn dũng mãnh không ai bằng, cuối cùng Ngài mới thành tựu
đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Như vậy đức
Phật là một con người lịch sử, để lại cho chúng ta những phương pháp tu
học rõ ràng qua kinh nghiệm bằng xương bằng thịt của bản thân. Chứ Ngài
không phải là một cái đấng thần linh nào bay đến với những phép thuật lạ
đời. Điều đó cho chúng ta thấy, Phật muốn làm sao mỗi người con Phật đều
thấy được thực chất của mình. Chúng sanh từ nghiệp tập mà nối tiếp trong
sanh tử, bây giờ đừng gây tạo nghiệp tập nữa thì chấm dứt vòng sanh tử
luân hồi. Cho nên Phật thị hiện trong cuộc đời như bao nhiêu con người,
mang tâm trạng buồn vui sướng khổ như bao người. Từ đó Ngài vươn lên thoát
khỏi những cột trói khiến cho con người phải chịu khổ vô cùng tận. Có thế
chúng ta mới noi theo, mới vững niềm tin mình cũng có thể tu được, cố gắng
dụng công phu thật đắc lực.
Nếu chúng ta
trả xong món nợ lớn nhân quả từ nhiều kiếp mê lầm rồi, làm chủ được mình
thì ta đã qua được những cơn bệnh ngặt, thoát khỏi tù tội. Ta là người qua
khỏi sa mạc khô khan nguy hiểm. Thành quả ấy có được tự nơi bản thân ta
thôi. Tôi xin lặp lại, muốn vượt qua những khó khăn chúng ta phải trả hết
những nợ nần cũ. Muốn giải quyết tất cả rối rắm, mở tung những cái gút
trong lòng, phải là chính chúng ta chứ không ai hết. Trong kinh Phật dạy
tự ta làm cồn đảo cho mình. Tự ta phải tu tập, phải giữ giới, phải hành
trì thì mới đạt được kết quả.
Có nhiều
Phật tử bảo: “Thầy nói tu nghe dễ, nhưng thật ra đâu phải dễ”. Ừ! Đâu phải
dễ, khó lắm chứ. Việc tu dĩ nhiên là khó, nhưng không phải chúng ta không
thực hiện được. Nó đòi hỏi ta phải có sự kiên quyết. Có kiên quyết mới trả
hết nợ nần cũ, thoát được những ngục tù, sa mạc khô khan. Trong cuộc đời
đầy dẫy bấp bênh với vô vàn những nỗi bất hạnh, không như ý, nhất là cái
khổ đau trầm luân sanh tử kéo dài, chúng ta không có nội lực thâm hậu thì
không giải quyết được. Người có sức mạnh lớn mới vùng lên thoát ra được,
dĩ nhiên cũng cần tới sự hộ niệm của chư Phật, các vị Thánh trước, lịch
đại Tổ sư và các bậc thiện hữu tri thức nữa. Có sức mạnh tâm linh, chúng
ta mới giải quyết được nỗi khổ ngay trong hiện tại và đảm bảo giải thoát ở
mai sau.
Những nỗi
khổ trong hiện tại, nếu chúng ta không làm chủ được, nó sẽ là nguyên nhân
dẫn đến những khổ đau triền miên trong tương lai. Từ đó ta lầm mê, tiếp
tục tạo thêm nghiệp tập tăm tối nhận lãnh khổ đau chồng chất. Chủ trương
của đạo Phật là tự mình chịu trách nhiệm cho chính cuộc đời của mình.
Người không có tự lực, cứ xìu xìu ển ển thì không ai giúp gì được. An lạc
chỉ có khi nào ta làm chủ được mình. Rõ ràng như vậy. Ví dụ người ta chửi
mình, mình chửi lại thì hai bên ấu đả nhau, dẫn đến đau khổ. Không khi nào
làm như vậy mà được hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ có khi người kia chửi mình mà
ta nhớ lời Phật dạy phải từ bi, coi những lời chửi ấy như nước cam lồ, ta
bình tĩnh vui vẻ thì sẽ được an ổn. Đó là kết quả của sự tu hành.
Trong bất cứ
hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được, vì xã hội là một môi trường mà
ở đó ta có nhiều điều kiện thực hiện việc tu học. Giới hạn như chúng tôi ở
thiền viện, đôi khi thiếu các duyên thử thách. Nói thì nói vậy, chứ thiệt
tình chúng tôi cũng sợ hết hồn, không dám giáp mặt với cuộc đời khi lực tu
của mình còn yếu. Cho nên chúng ta phải hiểu tu Phật thì ở đâu cũng tu
được, ở đâu cũng là môi trường để thử nghiệm sức tu học của mình.
Ví dụ như
một Phật tử lái xe đàng hoàng, bất trắc có người nào đó đụng mình. Việc va
chạm ấy, Phật tử là người không có lỗi, do anh kia quờ quạng sao đó thành
ra có sự cố. Nhưng ngược lại người kia gây gổ, la lối, bức xúc Phật tử thế
nọ thế kia. Lúc đó nếu người không biết tu thì có chuyện liền. Nhưng Phật
tử bình tĩnh, nhẹ nhàng, sáng suốt, lắng nghe và tìm cách gỡ rối. Vì vậy
dù bên kia có nói gì đi nữa, Phật tử vui vẻ tìm cách giải quyết, một lát
hai bên thỏa thuận nhau tiếp tục lộ trình, đường ai nấy đi. Ngược lại, bên
kia không tỉnh nói năng tầm bậy, bên đây cũng không tỉnh thế là hai bên
đụng nhau. Đụng nhau nhiều hơn nữa thì đi đến ấu đả, hai bên không thể
ngồi lại giải quyết được, phải nhờ thế lực thứ ba. Khi thế lực thứ ba đến
thì theo đúng nguyên tắc là cả hai bị mời vô phòng công an. Như vậy cuối
cùng rối tung lên, có lợi ích chi đâu.
Cho nên hiểu
lời Phật dạy, áp dụng đúng theo đó thì lúc nào ta cũng có Niết-bàn, có
hạnh phúc. Có câu chuyện như thế này. Hồi xưa, Cố Hòa thượng Pháp Chủ Giáo
Hội Tăng Già tức Hòa thượng Huệ Quang, có một vị cư sĩ người Hoa mến mộ
đạo Phật, thường tới lui học hỏi Phật pháp với Ngài. Bấy giờ Hòa thượng
cho vị cư sĩ này quyển kinh Pháp Bảo Đàn bằng chữ Hán. Ngài dặn:
- Đạo hữu về
ráng đọc cho thuần. Đọc xong sẽ sáng, sẽ nắm vững đường lối chủ trương tu
hành, nhất là tu thiền.
Vị cư sĩ
nghe lời Hòa thượng đọc tới đọc lui quyển Pháp Bảo Đàn đến muốn thuộc
lòng. Chẳng bao lâu trong công việc làm ăn của cư sĩ có sự kiện tụng. Cuối
cùng ông bị vô khám. Trong khám, lời nhắc của Cố Hòa thượng đối với ông
càng rõ hơn, nên ông chuyên tâm đọc kinh Pháp Bảo Đàn, đọc một cách say
sưa liên tục. Hồi ở ngoài ông cũng đọc nhưng có khi phải lo việc nọ việc
kia nên bị gián đoạn. Bây giờ vào khám ông buông hết mọi việc, chỉ có đọc
kinh Pháp Bảo Đàn thôi. Vì vậy ông không thấy cực khổ, chật chội, thiếu
thốn, như mọi tù nhân khác. Thần sắc tỉnh táo, vui vẻ và ông cho rằng thời
gian ở đây ông tu nhiều hơn ở ngoài. Người nhà đến thăm hỏi, ông nói:
“Bình thường, chẳng có gì. Tôi rất an lạc”.
Qua câu
chuyện này cho thấy, nếu chúng ta áp dụng được lời Phật dạy thì nhất định
Niết-bàn ngay trong hiện tại. Mỗi người đều có thể nhập Niết-bàn, hưởng
Niết-bàn ngay hiện tại. Với điều kiện là dám bỏ các pháp trần. Trong cuộc
sống này, nếu chúng ta muốn được an ổn, muốn giải thoát thành Phật thì bản
thân phải hành trì lời Phật dạy. Hành trì đúng thì mặc tình cho phong ba
bão táp, mặc tình cuộc đời thịnh suy, lúc nào chúng ta cũng an ổn. Thiền
sư Mãn Giác có bài thơ thế này:
Xuân khứ
bách hoa lạc,
Xuân đáo
bách hoa khai.
Sự trục nhãn
tiền quá,
Lão tùng đầu
thượng lai.
Mạc vị xuân
tàn hoa lạc tận,
Đình tiền
tạc dạ nhất chi mai.
Xuân đi
thì trăm hoa lụn tàn, xuân đến trăm hoa đua nở. Mọi việc xây vần trước mắt
chúng ta như vậy. Mọi hiện tượng, mọi sinh hoạt trong cuộc
sống này rõ ràng như vậy, luôn luôn sanh diệt. Khi ta nhìn lại thì cái già
đã đến nơi. Tóc bạc, răng rụng, bệnh hoạn, bao nhiêu sự suy tàn của thân
này kéo đến. Vô thường chi phối, sự đổi thay trùm khắp.
Nhưng với
người Phật tử hay với người có mắt sáng, thấy ngoài sự đổi thay và nỗi khổ
đau ấy, còn có cái gì? “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất
chi mai”. Đừng ngỡ xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua sân trước một cành
mai. Nghĩa là gì? Nghĩa là tất cả những hoa bên ngoài rụng hết nhưng
trong lòng chúng ta còn một sự tỉnh táo sáng suốt. Đó chính là Niết-bàn
ngay trong hiện tại.
Người không
bị trôi giạt, không bị cuốn hút bởi các pháp, làm chủ được mình là nhập
được Niết-bàn ngay hiện tại. Người tu thiền phải có công phu trong từng
giây phút hiện tại, không thể đợi chờ, hẹn hò gì cả. Vì vô thường chụp đến
bất cứ lúc nào. Ai biết được sự sống của mình sẽ ra sao. Như bây giờ bao
nhiêu thứ tai biến, ung bướu. Mới hôm qua đang sờ sờ vậy, đi siêu âm té ra
cục gì ở trong bụng, đụng tới nó sẽ vỡ, nín thở ngay. Như vậy là nguy rồi!
Có làm gì được đâu. Cái mình trọng vọng quý báu, gìn giữ, trau chuốt, sơn
vẽ luôn luôn, mà nó bấp bênh như vậy hà huống những thứ khác. Ngoài thân
tâm hư giả này, còn có nào là nhà cửa, địa vị, tiền của … tất cả những thứ
ấy không bảo đảm, không giữ được khi vô thường chi phối. Mạng sống của
mình, mình không bảo toàn được huống là những thứ ấy.
Thành ra
người tu phải là người giữ thế chủ động cho mình. Ở bất cứ hoàn cảnh nào,
nếu chúng ta nhớ lời Phật dạy, áp dụng được thì sẽ hết khổ. Nếu người tu
Phật không kiên quyết hành trì, dứt khoát ngay trong mỗi niệm thì khó mà
nhận được Phật, Bồ-tát ở ngay cạnh mình. Chỉ người nào khi đối diện với
những khó khổ ghê gớm nhất, vẫn nhớ Phật, tu theo lời Phật dạy, người đó
mới hết khổ, được vui. Kho tàng chuyện cổ tích dân gian của chúng ta, ảnh
hưởng rất lớn tinh thần Phật dạy. Phật thị hiện làm ông già tóc bạc phơ
như ông tiên, vung cây đũa thần cứu nàng Tấm. Phật thị hiện cá kình, cá
ông để cứu người khi họ gặp sóng to gió lớn. Nhưng với điều kiện là mình
phải tha thiết một lòng nghĩ nhớ đến Phật, đừng nghĩ chuyện tầm bậy. Không
khẳng quyết thì khó có tâm thành để đạt kết quả như ý.
Hồi xưa, lúc
tôi còn nhỏ ở chùa Vạn Đức. Có một gia đình Phật tử nọ, đệ tử của Hòa
thượng Vạn Đức, đi chùa rất thuần thành. Duy chỉ người rể thì không thích
đi chùa. Sống chung trong nhà, anh ta thấy mẹ vợ đốt nhang tụng kinh, lễ
Bồ-tát Quan Thế Âm. Cha vợ rồi mấy người em vợ cũng thành tâm niệm Bồ-tát
Quan Thế Âm. Thấy thì thấy thôi chứ anh không hề tham dự. Nhưng lạ một
điều là âm thanh tiếng niệm Bồ-tát Quan Thế Âm và hình ảnh Bồ-tát Quan Thế
Âm đóng vô đầu anh hồi nào không biết. Lần đó anh đi công tác, máy bay về
đến phi trường, nhưng không bung chân ra được. Nó chạy lòng vòng mãi, dưới
này người ta tập hợp tất cả xe cứu hỏa… Nếu kéo dài thêm một thời gian
ngắn nữa thì kể như máy bay gặp nạn, tất cả hành khách trên đó không thoát
khỏi tử vong.
Bấy giờ tự
nhiên anh này nhớ Bồ-tát Quan Thế Âm và anh nhất tâm niệm Bồ-tát Quan Thế
Âm. Anh niệm đến nỗi quên hết mọi chuyện, chỉ nhớ Bồ-tát Quan Thế Âm. Cuối
cùng, chiếc máy bay hạ xuống vì hết nhiên liệu, bỗng dưng hai chân của nó
bung ra được! Mọi người hú vía xem như mình chết đi mà được sống lại. Khi
đó có một người bạn hỏi anh ta:
- Hồi nãy
trong lúc nguy ngặt, tôi thấy anh ngồi như chết cứng, là sao vậy?
Anh ta nói:
- Thực tình
tôi thấy nguy cơ mất mạng không thoát, lúc đó bỗng dưng tôi nhớ hình ảnh
mẹ vợ và tất cả những người trong gia đình mỗi đêm đốt nhang lạy Phật rồi
niệm Bồ-tát Quan Thế Âm. Tự nhiên âm thanh và danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm
hiện lên trong tâm, tôi chỉ còn biết mỗi một việc là niệm Ngài mà thôi.
Lúc niệm như vậy tôi không thấy sợ sệt và cũng không còn thấy cái gì bên
ngoài nữa. Cho đến khi máy bay đáp xuống được rồi, tôi mới chợt tỉnh ra là
mình đang niệm danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm.
Khi về nhà
anh trình bày sự việc trên cho mọi người trong gia đình nghe. Và sau lần
nguy ngặt ấy, anh con rể này mới bắt đầu tìm hiểu đạo Phật, bắt đầu đi
chùa và mỗi đêm anh là người lạy Phật, niệm Bồ-tát Quan Thế Âm siêng năng
hơn ai hết. Bây giờ anh mới thấy hiệu năng, kết quả của việc tu học. Nó
không phải là cái mà chúng ta mong cầu hiển hiện ra, nó ăn sâu vào trong
tâm thức. Để đến một lúc nào đó, ta hữu cảm thì tất ứng, hữu duyên thì sẽ
được độ. Từ chỗ cảm nhận như vậy anh trở thành người rất hâm mộ đạo Phật,
rất siêng năng trong việc tu tập. Kể từ đây, anh mới hiểu thế nào là tự
sống lại.
Sống lại
bằng cách nào? Không phải chỉ niệm như vạây thôi, mà là buông được mọi thứ
bên ngoài. Nghĩa là thấy rõ pháp tu và đường lối tu của mình. Chú tâm niệm
như vậy là làm chủ được mình, không bị động bởi những cảnh duyên bên
ngoài. Sau lần tai nạn ấy, mỗi lần anh đến trước bàn Phật thắp hương, ngồi
lắng yên và anh thấy rõ ràng rằng mình buông được những cái lăng xăng
trước mắt, mình làm chủ được đối với những âm thanh sắc tướng bên ngoài,
những cái sợ sệt, những cái bức xúc ở bên ngoài nên mình an ổn. Điều này
là một hiện thực. Anh thấy rõ ràng sự an ổn không do ai ban cho mình, mà
chỉ có mình mới đem lại sự an ổn chân thật cho mình mà thôi. Đó là một
cách tu.
Phật không
bảo chúng ta tụng đọc lời Phật dạy mà không hiểu, không áp dụng. Không
phải gõ mõ tụng hoài những lời Phật dạy. Như cha mẹ dạy con “đừng bất
hiếu” thì không bao giờ cha mẹ bảo con mỗi ngày tới trước mặt mình nói lại
“con đừng bất hiếu”. Không cha mẹ nào muốn con lặp lại như vậy mà chỉ muốn
bản thân đứa con đó đừng làm những việc bất hiếu. Cũng thế, dù hạng người
nào nếu nghe hiểu và áp dụng đúng lời Phật dạy, buông hết các trần cảnh
thì người đó hưởng được pháp lạc, luôn luôn an ổn, đó là vào Niết-bàn chứ
gì? Cho nên biết có công phu thì có kết quả, có an lạc, có Niết-bàn. Đạo
Phật là đạo giúp cho chúng ta có thể hưởng giá trị thiết thực ngay trong
hiện tại.
Chúng tôi
mong rằng tất cả Phật tử chúng ta học Phật, hiểu Phật và áp dụng được lời
Phật dạy để hết khổ, được vui như chính niềm an vui mà đức Phật đã đạt
được. |