ĐỨC PHẬT TRONG ĐỜI

T.T THÍCH NHẬT QUANG

TINH THẦN TU PHẬT

Phật Đản 1999 – 2543

Kỷ niệm đản sanh đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni lần thứ 2543 này, chúng ta lại một lần nữa tưởng niệm về đức Phật với tất cả cuộc đời và công hạnh của một đấng cha lành, thị hiện ra nơi đời vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Về lịch sử, chúng ta đã từng điểm qua trong những lần kỷ niệm trước. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến quá trình trải dài hơn 45 năm thuyết pháp giáo hóa độ sanh của Như Lai, đức Phật đã để lại những bài học, những tấm gương sáng cho chúng ta noi theo với mục đích muốn chúng ta học hiểu, áp dụng hành trì làm sao được lợi lạc như chính Thế Tôn.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ra dưới cội hoa Vô ưu trong vườn hoa thành Ca Tỳ La Vệ, không giống như chúng ta sanh ra trong bảo sanh viện. Sau này Ngài thiền định và thành Phật dưới cội cây Bồ-đề. Lúc hết duyên hóa đạo, từ giã cuộc đời, Ngài thị tịch dưới cội cây Sa la. Qua đó đủ cho chúng ta thấy Ngài là con người đặc biệt, gắn bó với thiên nhiên chứ không là của riêng ai. Chúng ta ngày nay ở chùa, chứ không ở cội cây nên dễ vướng mắc cái chùa. Đi đâu cũng thấy mình có chùa Thường Chiếu, cái lưng của mình dính với chùa Thường Chiếu, ai đụng tới chùa Thường Chiếu thì không được. Bởi thế nên mình tu không thành Phật.

Đức Phật là một con người thực, có lịch sử, có cha mẹ và đặc biệt Ngài cũng có gia đình. Lớn lên theo nghi thức truyền thống của triều đình, Ngài vâng lệnh phụ vương làm lễ thành hôn với một công nương, sau đó sanh ra hoàng tử La Hầu La. Cuối cùng Ngài từ bỏ tất cả đi tu. Sự thị hiện này rất có giá trị đối với hầu hết Phật tử chúng ta. Nếu đức Phật thị hiện như một bậc tiên thánh nào từ núi cao hay trên trời rớt xuống tu hành thành Phật thì chúng ta không thể nào tu được. Trong Phật giáo, đức giáo chủ của chúng ta là một con người được sinh ra và trưởng thành trong điều kiện như tất cả mọi người. Cuối cùng thấy rõ nỗi khổ đau của kiếp nhân sinh nên Ngài dứt khoát xuất gia tìm đạo, và với quyết tâm siêng năng tinh tấn không lui sụt, Ngài đã thành đạo.

Điều đó cho thấy nếu chúng ta quyết tâm mãnh liệt thì cũng có thể tu thành Phật. Việc thành Phật không dành riêng cho đức Phật Thích Ca hay một vị Phật nào, mà tất cả chúng sanh đều có thể giác ngộ thành Phật. Quí vị thử nghĩ, một ông hoàng muốn đi tu có dễ không? Đôi khi một người dân thường muốn đi tu mà buông không được, bứt không rời, hà huống một ông hoàng ở tuổi thanh xuân, cắt đứt được tất cả để đi tu thì quả là một con người có ý chí mạnh mẽ quyết liệt.

Bài học này nói lên sự kiên quyết, sự siêng năng liên tục và sự phát tâm mãnh liệt nhất định sẽ dẫn đến thành công. Người Tây phương nói “Muốn thì được, quyết thì thành”. Chúng ta nếu muốn thành Phật thì phải quyết tâm tu học siêng năng liên tục. Phần này Phật tử mình còn lèng èng lắm, nên tu hoài vẫn không tới đâu. Thái tử Tất Đạt Đa sau lần dạo bốn cửa thành, Ngài thấy hiện thực của cuộc đời toàn là khổ đau. Người già cả thiếu sự bảo dưỡng, thiếu người nuôi nấng nên khổ đau. Người bệnh hoạn rên xiết không thuốc thang, không người săn sóc nên khổ đau. Cuối cùng hình ảnh của sự chết hiện ra với một cái xác nằm queo bên đường, ruồi nhặng giòi tỉa ăn hút, không ai chôn cất đếm xỉa đến, thật là khổ đau cùng tột. Sau khi chứng kiến cảnh già nua bệnh hoạn chết chóc ấy rồi, Ngài suy nghiệm về thân mình một mai có rơi vào những tình huống như vậy không? Đây là vấn nạn lớn làm cho Thái tử mất ăn mất ngủ. Cuối cùng Ngài nhận ra ai có thân này đều sẽ đi đến tình huống ấy và đều bị khổ đau. Do đó Ngài quyết tâm tìm được giải thoát.

Chúng ta không thấy được như đức Phật nên sự phát tâm của mình cũng không dũng mãnh bằng Ngài. Chúng ta có thân này như mọi người nhưng vẫn cứ yên lòng ngày qua ngày với cuộc sống như thế. Cuộc sống an bài thế nào thì ta chấp nhận thế ấy. Chúng ta không dùng tuệ giác nào để thấy thêm được gì nữa, nên chúng ta cũng chẳng muốn tìm lối thoát.

Thái tử Tất Đạt Đa không như thế, Ngài luôn trăn trở khi biết thân này sẽ hoại diệt, mất mát. Ngài không thể nào đành lòng ngồi yên đợi chờ sự mất mát ấy đến, không thể chấp nhận bó tay với sự tan rã trong khổ đau. Ngài quyết tâm tìm cho ra một lối giải quyết. Học điều này chúng ta thấy đức Phật đi tu không phải riêng cho mình mà vì tất cả. Ở đây Ngài tìm chân lý để giải quyết những khổ đau mà mọi người bó tay chấp nhận.

Trước khi giác ngộ thành Phật, đức Thế Tôn đã học hỏi với những vị Thánh thời đó nhưng cuối cùng Ngài thấy chưa hoàn bị. Đức Phật tu khổ hạnh cũng thấy không hoàn bị, bởi vì những phương pháp ấy chưa giải quyết được vấn đề sanh già bệnh chết. Do đó Ngài tìm đến cội Bồ-đề, ăn uống trở lại bình thường. Thế Tôn trải tòa cỏ ngồi thiền với một quyết tâm, tự khắc tự thệ nếu không tìm được đạo giác ngộ giải thoát để giải quyết vấn đề sinh tử thì dù thịt nát xương tan Ngài cũng không rời khỏi chỗ ngồi này. Với tâm kiên quyết như vậy, cuối cùng Ngài đạt được sở nguyện của mình là thành tựu giác ngộ.

Sau khi giác ngộ, trải qua trên 45 năm Ngài đi khắp nơi để giảng giải những phương pháp mình đã thấu triệt cho tất cả chúng sanh noi theo tu hành. Từ đó nhân gian có Phật pháp và ngày nay chúng ta mới có kinh điển để học tập, nghiên cứu, hành trì. Ở đây chúng tôi muốn nêu lên một vài lời dạy mà vị giáo chủ của chúng ta đã giảng dạy.

Ngài dạy “Hỡi các đệ tử, ta khích lệ các ngươi, mọi pháp hữu vi đều biến hoại, hãy tích cực phấn đấu”. Đây là lời dạy phổ thông, hầu hết người con Phật ai cũng thuộc. Đức Phật khích lệ chúng ta đối với các pháp hữu vi sẽ hoại diệt, tất cả hãy phấn đấu. Những gì chúng ta có đây đều bị vô thường chi phối, không ai thoát khỏi. Ngài khuyên tất cả phải gắng gổ, phấn đấu. Phấn đấu làm gì? Phấn đấu để làm sao trong sự đổi thay, chi phối lớn lao đó mình vẫn an nhiên giải thoát. Chúng ta nhắm coi có làm được việc đó hay không?

Sự đổi thay lớn lao trong cuộc đời luôn là vận hành xưa nay không thay đổi. Mỗi chúng ta cảm nhận thế nào về sự hiện diện của mình? Sinh ra, lớn lên, già nua, cuối cùng là chết. Đây là kết quả mà không một ai ưng ý. Chúng ta không bao giờ muốn chết, cả những người bệnh hoạn cũng không muốn chết. Trừ những người gặp nỗi thống khổ quá lớn lấn áp, không muốn sống nữa thì nói muốn chết, nhưng khi cái chết đến họ cũng sợ sệt, hốt hoảng. Nói chung chúng ta không làm chủ được cái chết. Mà chết là gì? Là sự đổi thay, mất mát hoàn toàn sự sống trong đời này.

Sự sống được sắp đặt theo phúc duyên của mỗi người như thế nào thì chúng ta chấp nhận như thế ấy, chứ không hề có sự phấn đấu nào, bây giờ đức Phật dạy chúng ta phải phấn đấu. Phấn đấu để thay đổi trục xoay đưa đẩy chúng ta đến chỗ diệt vong mà chúng ta không làm chủ được. Phấn đấu như thế nào? Phấn đấu học đạo, phấn đấu học thiền để chúng ta nhận ra tánh giác của chính mình. Nhận và sống được với tánh giác thì khi đó mình làm chủ được, không bị lay chuyển bởi những đổi thay trước mắt.

Tại sao ta phải phấn đấu? Vì từ lâu lắm rồi, có thể nói là chúng ta không sáng suốt, chỉ hài lòng chấp nhận những gì ta có đây. Ví dụ chúng ta sanh ra trong hoàn cảnh gia đình khá giả, có cuộc sống đầy đủ, ta cũng cứ yên lòng như thế. Giả dụ như gia đình dần dần sa sút, dẫn đến kiệt quệ ta cũng cứ yên lòng như thế, không hề có sự phấn đấu nào để đổi thay, gầy dựng một tình trạng khác tốt đẹp hơn. Đó là do chúng ta thiếu năng lực, thiếu sáng suốt, cứ chấp nhận an bày như thế. Thường thì người ta nói định mệnh nhưng thật ra đó không phải là định mệnh, mà chỉ vì con người quen yếu đuối, quen chấp nhận, không chịu phấn đấu để vươn lên.

Phật dạy: Đối với các hiện quả, chúng ta biết rằng đó là những hậu quả do mình gây ra từ trước. Bây giờ chúng ta sẵn sàng trả, và đừng gây thêm những nợ nần như thế nữa. Muốn dừng được phải có trí lực, có sự sáng suốt và quyết tâm. Ví dụ như người lỡ nghiện thuốc, biết hậu quả sẽ đưa đến lủng phổi, nám phổi, ho lao… bây giờ quyết tâm không hút thuốc nữa. Đây chính là tu. Tu có nghĩa là sửa. Cái gì không cần thiết, không mang lại sự xứng hợp thì chúng ta bỏ, sửa lại. Lỡ gây ra nhân đưa đến những hậu quả không tốt, không an lạc, chúng ta sẵn sàng trả, không kêu ca, than trách gì hết nhưng phải chuẩn bị cho mình nhân mới không như thế nữa.

Đức giáo chủ dạy chúng ta phải phấn đấu tu tập. Đối với tất cả các pháp giữa cuộc đời này, đừng bao giờ nói rằng nó kéo lôi, nó dụ hoặc, nó làm lầm mê tôi. Chúng ta đừng bao giờ nói lời như thế mà phải khẳng định mình có trí lực, có khả năng, có tinh thần và có quyết tâm. Quyết tâm làm gì? Quyết tâm phấn đấu, những nhân gì đã gây tạo làm cho chúng ta bị trôi giạt như thế thì chúng ta không gây nữa. Trong lòng lúc nào cũng nung nấu một tinh thần tích cực, sáng suốt, có thế ta mới làm chủ được thói quen của mình. Những thói quen xoàng xỉnh thấy như không có gì đáng kể, nhưng nếu không có trí lực thì chúng ta không làm chủ được, cuối cùng thói quen đó sẽ thúc đẩy, kéo lôi chúng ta. Từ đó gây tạo nghiệp tập để rồi cuối cùng chúng ta bị xoáy trong vòng lẩn quẩn. Nhân như thế, quả như thế mà không có một lối thoát.

Người con Phật phải sáng suốt bình tĩnh, nhận định thấu suốt mọi sự trong cuộc đời này đều từ nơi ta mà ra, chứ không do ai hết. Tốt hay xấu, khổ hay vui là do tự chúng ta. Nếu ta không gây nhân khổ, không làm điều ác thì không bị quả báo khổ, đó là điều tất yếu. Nhận định như vậy rồi, dù hiện tại cuộc đời này ta khổ đau, thiếu thốn mọi mặt nhưng quyết tâm phấn đấu không gây thêm nhân đau khổ nữa. Khi trả hết nợ nần này rồi ta sẽ bình an. Đó là niềm vui là sự phấn khởi lớn lao của người biết tu tập.

Chúng ta không cần phải bay lên hay lặn vào lòng đất để biết về cuộc đời. Thưa quí vị! Không cần thiết. Ngay bây giờ chúng ta làm chủ được đối với tất cả các pháp, không để bị kéo lôi, không gây nhân đau khổ để bị loay hoay lẩn quẩn trong vòng điêu linh trôi giạt nữa là vui rồi. Ví dụ mỗi ngày ta không nói lời ác để bị hậu quả của cái miệng kéo lôi trong vòng luân hồi là ta đã tu được cái miệng. Ta không nghĩ điều gì sai trái để kết nhân thành những hậu quả xấu, bị thúc đẩy chịu những điều bất như ý là ta tu ngay tâm rồi.

Mỗi người con Phật chúng ta ai nấy đều ý thức và tu hành được như vậy thì Niết-bàn an vui ngay hiện tại chứ còn tìm ở đâu nữa. Niết-bàn đó ngay từ bước đi, trong giấc ngủ, trong bữa ăn, trong sự tiếp xúc, nói chuyện với khách, trong tất cả sinh hoạt, lúc nào cũng có Niết-bàn, vì chúng ta không vướng mắc bất cứ việc gì. Chúng ta không bị thói quen, không bị những lầm mê dẫn dắt khiến nói năng, hành động sai quấy, là chúng ta tu đúng theo lời Phật dạy, đảm bảo sẽ được an vui, khỏi cầu nguyện khấn vái gì ở đâu. Nếu người con Phật nhận được như vậy sẽ an vui tức khắc. Nếp nhăn nhó bực bội, sự tăm tối tiêu cực trong dáng mặt, cử chỉ sẽ không còn nữa. Đổi lại chúng ta là người sáng suốt, bình tĩnh, làm chủ được mình, không để bị động bởi những nghĩ ngợi, nói năng, hành động của mình. Lúc nào ta cũng an nhiên trong phong thái bình thường thanh đạm. Đó là Niết-bàn hiện thực mà người con Phật có thể nhập được bất cứ lúc nào, ở đâu.

Tóm lại tất cả mọi người, không kể trí ngu, sang hèn, nếu thành tâm cầu đạo, ăn năn sám hối thì đều có thể tu hành và chứng đạo, trở thành bậc Thánh giữa chúng sanh và chứng được Niết-bàn tại cõi thế. Tất cả chúng ta đây ai nấy đều ý thức được như vậy qua lời đức Phật dạy, đều gắng gổ phấn đấu đừng gây tạo nghiệp nhân xấu ác nữa. Sám hối ăn năn là tự khắc, tự hứa với lòng mình, từ nay những suy nghĩ nói năng, hành động gì sai thì tuyệt đối không làm nữa. Quyết tâm siêng năng liên tục hành trì theo phương pháp Phật dạy. Được vậy đảm bảo người đó hiện tại được an lạc, nghĩa là nhập Niết-bàn giữa cõi thế, không nói thời gian hay chỗ nơi.

Kiểm lại ý nghĩ, ngôn ngữ, hành động của mình, những gì sai trái từ trước, sám hối cắt đứt không cho tái phạm nữa. Ngay bây giờ sống hồn nhiên, tự tại, làm chủ được đối với tất cả sinh hoạt, đó là một cách tu. Tu như thế không gây một sự trở ngại nào trong cuộc đời này hay trong sinh hoạt gia đình của mình, miễn làm sao giác ngộ, nhẹ nhàng thảnh thơi, giải thoát là được. Bởi vì Phật là giác ngộ, ai giác ngộ được như Phật đều gọi là Phật.

Nhưng bây giờ chúng ta chưa giác ngộ như Phật mà chỉ giác ngộ năm ba mươi phần trăm thì chúng ta là con Phật, chúng ta là Phật tử. Kiểm lại trong lòng chúng ta có được giác ngộ khoảng chừng năm ba mươi phần trăm thì chúng ta xứng đáng là Phật tử rồi. Ai gặp mình nói chị là Phật tử ta yên lòng. Ờ tôi là Phật tử, tôi đang hành trì, đang thực hiện lời Phật dạy, tôi đã có những giác ngộ chút chút như vậy. Và nuôi một quyết tâm rằng tôi sẽ giác ngộ hoàn toàn, chắc chắn như vậy, không có con đường khác. Giống như nhà mình chỉ có một cửa, từ cửa đó đi vào và cũng từ đó đi ra chứ không có cửa nào khác. Ta là Phật tử, Phật giác ngộ hoàn toàn thì ta cũng dần dần được giác ngộ như Phật.

Kinh Pháp Hoa nói những đồng tử bé thơ, trong lúc giỡn chơi với nhau, đùa cát nắn thành tháp Phật, tượng Phật, vẽ chữ Nam Mô Phật, Phật đều thọ ký cho những đồng tử này về sau sẽ thành Phật. Chúng ta đã vượt hơn những đứa bé đó, đã trưởng thành, đã giác ngộ được năm sáu bảy mươi phần trăm rồi thì nhất định chúng ta sẽ thành Phật. Nhiều Phật tử tu theo đạo Phật mà nghe nói giác ngộ là ngán lắm. Nói con tu gieo duyên vậy thôi, chứ chuyện giác ngộ không biết tới chừng nào? Thưa quí vị, giác ngộ không phải việc bên ngoài, của ai cho mà tự trong lòng mình. Thí dụ từ trước ta thấy cái gì đẹp thì mê thích, đắm trước, chạy theo muốn đoạt cho được. Đó là việc làm của người mê. Bây giờ cũng sự việc như vậy mà mình bình tĩnh, không tham đắm, không chạy theo, đó là tinh thần của người giác. Từ đó suy gẫm ra thì đối với tất cả cảnh tham, cảnh sân, cảnh si, những buồn vui được mất, ta đều bình thường, không để niệm dấy lên tức mình đã giác. Cứ thế mà giác cho đến khi nào giác ngộ hoàn bị mới thôi.

Khi đã kiên thệ như vậy rồi dù hiện tại có như thế nào, chúng ta cũng vượt qua. Theo gương đức Thế Tôn, một khi đã tuyên thệ ngồi thiền định dưới cội Bồ-đề, bao giờ giác ngộ mới thôi, quyết không đứng dậy khi chưa thành tựu sở nguyện. Chúng ta cũng thế, quyết tâm tu và tu đúng theo phương pháp Phật dạy thì bao giờ làm chủ được mình và làm chủ được tất cả các pháp mới thôi. Hiện tại được người cung kính quí trọng cũng tốt, bị người khinh thường hủy nhục cũng chẳng sao. Giả dụ như có một cái thân khỏe mạnh tốt đẹp ai thấy cũng cung kính, không phải đi bác sĩ thuốc men gì hết, tu cũng tốt. Nhưng nếu mang cái thân bệnh bướu sắp chết trong một vài tháng tới đây cũng cứ bình thường. Tinh thần đó là tinh thần của người có trí lực toát ra từ công phu áp dụng lời Phật dạy.

Nói điều đó cho thấy rằng hiện tại chúng ta có thể nhập được Niết-bàn. Nó không phải là cái gì mơ hồ, chỉ nói nghe cho vui mà là một hiện thực cụ thể ta có thể áp dụng, suy nghiệm, thể nhập một cách thấu đáo để làm chủ được tất cả các pháp. Phật là giác ngộ, ai giác ngộ được như Phật đều là Phật. Cho nên đã có nhiều Phật trước đức Phật Thích Ca và cũng sẽ có nhiều vị Phật ra đời kế tiếp. Những vị Phật ra đời kế trong đó có mình, quí vị có dám nghĩ như vậy không? Đức Phật Thích Ca nhập Niết-bàn tính đến bây giờ đã hơn 2500 năm rồi, chúng ta là những vị Phật tử hiện tại. Đảm bảo khi giác ngộ hoàn toàn chúng ta sẽ là Phật.

Bây giờ còn là Phật tử, phạm vi giáo hóa của quí vị không được rộng rãi. Ban đầu từ trong gia đình, việc tích cực tu học của mình sẽ ảnh hưởng tốt đến người thân. Dần dần kết quả tốt sẽ ảnh hưởng đến xóm làng, xã hội, đất nước… rồi khi giác ngộ hoàn toàn chúng ta nói ai cũng nghe hết. Các vị tu hành chân chánh không có quyền lực chi hết, nhưng quả thật một người đạo cao đức trọng nói ra lời gì ai cũng thích thú, cũng làm theo vì đều có sự phấn khởi vui vẻ an lạc. Con đường tu hành là như vậy.

Như tôi đã nói trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nhiều đức Phật. Điều này về phương diện lịch sử không sai tí nào. Bởi vì đức Phật Thích Ca Mâu Ni là đức Phật thị hiện trong thế giới hiện tại, còn trước nữa đã có nhiều đức Phật ra đời thị hiện giáo hóa chúng sanh trong những cõi nước khác. Vậy thì chắc chắn ở tương lai cũng sẽ có rất nhiều vị Phật ra đời để tiếp tục con đường giáo hóa độ sanh, trong nhà thiền gọi là nối đèn tiếp lửa.

Dưới cái nhìn của đạo Phật, nếu chúng ta biết sử dụng trí tuệ chân thật thì như các Thiền sư nói nấu cát thành cơm. Nghĩa là ai cũng có thể thành Phật, ai cũng là Phật sẽ thành. Phật chỉ dạy chúng ta con đường tu tập để chấm dứt mọi đau khổ. Đối với cái nhìn của người con Phật các pháp do nhân duyên sinh, nhờ nhiều nhân tố mà nó hình thành. Biết rõ tất cả các pháp do nhiều nhân duyên sinh như vậy, là người nắm được then chốt để chấm dứt sự khổ đau.

Người tu hành đúng theo lời Phật dạy, sẽ đoạn tận được sự khổ. Vì sao? Vì các pháp do duyên sanh nên không thật, đã do duyên sanh thì cũng do duyên diệt. Chúng ta còn có mặt ở đây, đầy đủ những duyên tốt hợp lại nên việc tu tập tiến triển thuận lợi. Đến lúc nào đó duyên tốt không hội đủ nữa thì nó sẽ hoại diệt. Người nhận ra được như vậy sẽ bình tĩnh giữa cuộc sống, bình tĩnh luôn lúc mình bị mất mát. Người tu hành chân chánh thấy rõ đạo lý, sẽ không còn khóc lóc bi lụy khổ đau khi thân này gặp tình huống xấu, người ấy sẽ bình thường vì tự làm chủ được. Đó là bước đầu.

Kế tiếp, theo tinh thần thiền chúng ta tu tập để nhận ra tánh giác là cái không bị sanh tử chi phối, không bị động bởi hiện tượng sanh diệt. Phật bảo tất cả chúng sanh đều có tánh giác, nếu chịu khó tu tập sớm muộn gì mình cũng sẽ nhận được nó. Ở đây Phật luôn luôn nhắc nhở hàng đệ tử rằng tự ta làm cho mình trong sạch hoặc làm cho mình nhơ bẩn, không ai làm cho ai trong sạch hoặc nhơ bẩn cả. Chúng ta ý thức rõ ràng sự tốt đẹp cũng từ mình và sự xấu xa cũng từ mình mà ra. Nếu làm điều xấu ác là tự ta làm ô nhiễm mình. Dù ta có chỗ tựa nương nhưng vẫn không được ai che chở đâu. Ví dụ mình là đệ tử Phật, ta nghĩ Phật giác ngộ hoàn toàn, ta giác ngộ được bao nhiêu phần trăm là có điểm tựa, nên cứ làm càn điều xấu, điều ác thì chắc chắn chúng ta chuốc lấy quả khổ vì tự ta làm ô nhiễm mình rồi. Cho nên Phật dạy, tự mình làm điều ác là tự làm ô nhiễm mình. Tự mình không làm điều ác là tự thanh tịnh mình. Thanh tịnh hay không thanh tịnh đều do mình, không ai làm cho ta thanh tịnh hay ô nhiễm được.

Hiểu rõ như vậy để chúng ta phấn đấu. Giả dụ bây giờ mình chưa được hoàn bị thì cố gắng phấn đấu. Theo lời đức Phật dạy, giới Phật tử chúng ta có cách thức tu hành, có thể áp dụng được đạo lý trong đời thường, những lúc bận rộn với nhiều mối tương giao. Chúng ta biết một cách rõ ràng, không ỷ lại, không đổ thừa cho ai. Tại mình gây tạo những điều ác nên bây giờ vui lòng nhận quả xấu. Nếu ta vui vẻ phấn đấu làm những điều tốt thì sẽ hưởng những quả phúc an lành. Phật tử ở nhà tu cũng được, tu trong mọi thời, mọi sinh hoạt, chớ không nhất thiết vào chùa mới tu được.

Phật dạy người con Phật phải tự tin nơi mình, nơi khả năng có thể thành tựu giác ngộ giải thoát tối hậu của mình. Đó là lời cả quyết rằng chúng ta có thể tu tập để được giác ngộ tối hậu như đức Phật. Thế Tôn chỉ là bậc đạo sư đã thể nghiệm được như vậy, chỉ dạy những phương pháp để chúng ta cùng thể nghiệm như Ngài. Phật không thể thay mình giác ngộ hay đọa vào địa ngục được. Tự mình tin nơi khả năng của chính mình để được giác ngộ. Chỉ nội niềm tin này nếu người tu chúng ta vững tin thì không bao giờ có hiện tượng mê tín dị đoan hay là cầu cúng gì khác. Bởi ta biết rõ những thứ bên ngoài không thật. Cái thật ở tự nơi tâm của mình. Tinh thần tu tập của Phật dạy là như thế.

Trong những ngày cuối cùng, đức Phật dạy thị giả A Nan rằng: “Hãy dựa vào bản thân mình như là ngọn đèn sáng cho chính mình, hãy dựa vào sức của bản thân mình là chính, hãy dựa vững vàng vào chính pháp, đừng tìm một chỗ dựa nào khác ngoài bản thân mình”. Hoặc Thế Tôn dạy tất cả chúng ta “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên từ chánh pháp”. Khẳng định bước đi của mình, không nên ỷ lại cầu cạnh những gì bên ngoài. Đó là ý nghĩa lời dạy trong những phút giây cuối cùng, Ngài đã đinh ninh dặn dò chúng ta như vậy. Nói như Thiền sư thì mỗi người đều có một tâm thể rỗng rang sáng suốt, hay có tánh giác sáng suốt trùm khắp. Người biết tu là người sống và nhận lại được tánh giác của mình.

Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh con người có đầy đủ bản chất hướng thiện đồng thời có đầy đủ khả năng tự hoàn thiện mình. Tự mình cố gắng phấn đấu sẽ được giác ngộ giải thoát. Tự mỗi người cố gắng phấn đấu làm sao để mình hoàn toàn được giác ngộ, giải thoát. Vì bản chất mình có sẵn khả năng đó khỏi phải tìm cầu bên ngoài. Đức Phật không phải là nhà cách mạng. Tuy nhiên đức Phật không tán đồng chế độ đẳng cấp của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Cho nên giáo hội mà đức Phật thành lập tức giáo hội Tăng già, những người đệ tử của đức Phật đã giác ngộ giải thoát, đứng trong hàng ngũ Tăng già, lấy sự hòa hợp làm điểm tựa để sinh hoạt.

Trong giáo hội không có đẳng cấp. Như Phật nói, người sang người hèn dù ở giai cấp nào nếu biết tu, biết tỉnh giác đều có thể gia nhập giáo hội của Phật. Ấn Độ thời đó có bốn giai cấp: Giai cấp tu sĩ, giai cấp vua chúa, giai cấp những người buôn bán và giai cấp nô lệ. Mỗi giai cấp sinh hoạt riêng rẽ, nhất là những giai cấp hạ tiện ở dưới thì không có quyền sinh hoạt tương đồng như những giai cấp trên. Trái lại đối với giáo đoàn do đức Phật thành lập, Ngài không chấp nhận như vậy. Ngài nói ai cũng có Phật tánh, nên ai cũng có khả năng thành Phật. Vì vậy trong giáo đoàn của đức Phật  các giai cấp hoàn toàn bị xóa bỏ. Người đệ tử có uy tín, nắm giềng mối giới luật của thời đức Phật là Tôn giả Ưu Ba Ly. Ông xuất thân trong dòng hạ tiện, là người làm thuê, thợ cắt tóc.

Đạo Phật chú trọng đến đời sống đạo đức, giới luật, công đức, trí tuệ, không chuộng những hình thức bên ngoài của xã hội, của con người. Xã hội của Phật là một xã hội bình đẳng tuyệt đối, bình đẳng vô duyên, tức là không có một duyên cớ nào, không có một chiều nào hết, như nước trăm sông đổ về biển, tất cả những dòng cũ không còn nữa, khi đó chỉ là biển cả. Trước khi gia nhập giáo hội chư vị Tỳ-kheo thuộc dòng này phái kia, sau khi gia nhập giáo hội tất cả đều hướng đến một mục đích là giác ngộ giải thoát. Tất cả những tỵ hiềm riêng tư cố thủ không còn nữa mà bây giờ là giác ngộ, giải thoát.

Đây là một tinh thần vừa khiêm hạ vừa phóng khoáng, lớn lao đặc biệt của giáo hội Phật giáo. Đức Phật thu nhận tất cả, không phân chia ranh giới biên cương, ai gia nhập vào giáo hội rồi đều lấy việc tu tập để được giải thoát làm chính. Cái đến của tăng sĩ Phật giáo là đỉnh cao của sự giải thoát. Cởi bỏ những riêng tư ràng buộc, hoàn toàn thể nhập vào thể tánh trong lặng, mênh mông trùm khắp. Ai sống được như vậy người ấy sẽ tươi tắn, hạnh phúc vì luôn an trụ trong Niết-bàn.

Có lần tôi được nghe và nhìn qua hình ảnh ghi lại cách sinh hoạt của các nước văn minh có Phật giáo. Các vị tôn túc nơi ấy tổ chức cho Phật tử khắp nơi tu trong vòng một tuần lễ. Tổ chức này nhận đơn tất cả mọi người trên thế giới, không luận ở đâu, miễn tuần lễ đó về đạo tràng đúng giờ và thực hiện đúng qui chế theo sự sắp đặt của ban tổ chức. Các vị từ khắp nơi về làm lễ nhập khóa, xuống tóc, thọ giới, tu trì và được các vị tôn túc hướng dẫn trong thời gian đúng một tuần lễ. Hết tuần lễ mọi người trở lại công việc của mình.

Điều tôi cảm nhận qua hình ảnh tu tập tuy ngắn ấy nhưng có kết quả rất thiết thực. Giây phút trước khi mọi người chia tay trở về, ai nấy đều cảm động. Tất cả đều hứa hẹn sẽ sắp đặt, dành dụm thời gian để trở lại tu tập, sống đời sống thánh thiện như thế dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi. Những vị này chưa phải là các đức Phật có thần thông, chưa phải là những Thiền sư có năng lực trong việc giáo hóa chúng sanh, nhưng họ nói lên tâm khảm của mình qua thời gian tu tập một tuần lễ thật đầy xúc động vì sự an lạc mà họ có được. Chia tay trong tình thân thương với một tâm trạng sáng suốt, nguyện kết duyên với nhau để được tu theo Phật pháp cho đến khi hoàn toàn giác ngộ mới thôi.

Trong hoàn cảnh xã hội văn minh tiến bộ, trong sự sống thụ hưởng vật chất như ngày nay mà còn có rất nhiều người biết cách tu tập, ham thích tu tập, đó là điều đáng khen và đáng mừng. Nếu trong thời gian một tuần ấy, họ không tu tập mà làm những điều xấu ác thì thật là tai họa cho nhân loại biết chừng nào. Tôi thấy đạo Phật ngày nay có phần lạc quan lắm. Nhiều người nói việc tu lắm. Vâng! Khó lắm chớ đâu phải dễ. Nhưng với những hình ảnh và con người có thật như tôi vừa nêu, bằng những phương pháp khoa học, họ có thể vừa tu tập vừa hướng dẫn những anh em đồng chí của mình cùng tu tập, cùng đầu tư vào trong ngôi nhà đạo Phật thì thật là hay!

Ngôi nhà đó đức giáo chủ chúng ta đã gầy dựng cho tới ngày hôm nay, trong phút giây làm lễ kỷ niệm ngày đản sanh của Ngài, hàng Phật tử chúng ta cảm thấy bồi hồi xúc động vô cùng. Nếu không có đức Phật, không có những kinh nghiệm, những phương pháp do Thế Tôn truyền dạy lại thì giờ này không biết chúng ta ra sao, làm gì, ở đâu? Có ánh sáng trí tuệ và từ bi của Phật soi rọi, nhân loại ngày nay mới có thể dừng được những bước ngông cuồng thác loạn của mình bên bờ vực thẳm của vô minh và khổ đau.

Thế nên dù chúng ta chưa hoàn toàn giác ngộ, nhưng đã là Phật tử, chúng ta biết sợ nhân xấu, không gây nhân bất hảo, biết áp dụng lời Phật dạy nên đã phần nào đóng cửa các nẻo ác, mở cửa các đường lành. Đạo Phật là đạo thanh tịnh giải thoát, cao quý của tất cả mọi người, mọi loài, ai cũng có thể gia nhập được. Phật dạy: Không luận ai, nếu người giác ngộ hoàn toàn thì người đó là Phật, nếu giác ngộ được năm sáu mươi phần trăm là Phật tử. Như vậy trong số ấy có chúng ta. Nói cho cùng chúng ta sẽ giác ngộ từ từ, và tự khắc tự hứa, nguyện sẽ nương nhau đùm bọc nhau để cùng đi đến giác ngộ hoàn toàn như vị giáo chủ của mình.

Phật dạy: “Hỡi các Ty-kheo, cũng như các con sông lớn khi chúng đổ vào biển thì chúng mất tên gọi cũ và được gọi chung là biển cả”. Đây là câu kết lại những điều tôi nói ở trên. Tất cả chúng ta là phàm phu, nam hoặc nữ, sang hèn, có địa vị hay không địa vị trong xã hội này, nhưng đã là con Phật, tu theo Phật, tất cả những gì riêng tư trước đó chúng ta bỏ hết để cùng vào trong biển cả mênh mông, trong tánh giác trùm khắp, trong trí tuệ Phật. Người con Phật lúc nào cũng hăng say tích cực phấn đấu cho trọn vẹn tinh thần giác ngộ mới vừa lòng, mới xứng hợp là người con Phật.

Trong ngày đại lễ kỷ niệm đản sinh của đức Phật, chúng ta không có gì cúng dường cho xứng đáng với công ơn trời biển của Ngài, ngoài mỗi một việc là cố gắng tu tập để được giác ngộ giải thoát như đức Phật. Nếu không có Ngài thì không có sự giác ngộ, không có sự giác ngộ thì không biết bây giờ chúng ta tăm tối đến thế nào? Với tâm thành tri ân công đức không gì tính kể của đấng Thế Tôn, chúng ta tự khắc, tự hứa đùm bọc nhau cùng thực hiện tinh thần giác ngộ ấy để dâng lên cúng dường đức Phật trong ngày kỷ niệm này.

Đức Phật là người không nhà học đạo, từ bỏ tất cả quyến thuộc chỉ chuyên tâm vào việc thiền định mới đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng ta cũng thế, noi gương Như Lai từ bỏ tất cả tham sân si, cố gắng phát huy trí tuệ tiêu trừ những si mê điên đảo vọng động từ bao đời. Đó là ta phá vỡ căn nhà tăm tối, gia nhập vào giáo hội thanh tịnh giải thoát, là đệ tử Phật. Chúng ta dẹp bỏ hết những riêng tư để mở rộng trí tuệ Phật của mình. Càng mở rộng trí tuệ Phật ta càng an lạc giải thoát. Khi ấy mọi người chung quanh ta cũng an lạc giải thoát.

Không luận kẻ trí người ngu, kẻ sang người hèn, nếu thành tâm cầu đạo, thành tâm học đạo và áp dụng đạo thì giữa cõi đời này người đó là người trong sạch, là tu sĩ, là người đạt đạo. Với tâm thành cầu đạo khẩn thiết, với sự tu học dưới sự chỉ dạy của bậc đạo sư, chúng ta không còn là những cá nhân riêng tư, mà tất cả sống chung trong ngôi nhà Phật pháp với tinh thần lục hòa cộng trụ, vui vẻ hoan hỷ tu tập để được thành tựu rốt ráo viên mãn như đức Phật. 

Trong ngày này tất cả người con Phật đều khởi tâm hướng về vị giáo chủ. Ai nấy đều thâm tạ thâm ân của Ngài. Bởi vì nếu không có đạo giải thoát thanh tịnh do Ngài truyền lại thì chúng ta còn chìm đắm trong những nỗi khổ đau bất tận. Hiện tại chúng ta chưa hoàn toàn hết khổ, nhưng đã nắm vững phương pháp, thấy rõ những việc cần thiết mình phải làm, nên đã phần nào tự thanh tịnh lấy mình, không để ô nhiễm với trần cảnh như trước nữa.

Tất cả Phật tử đều biết muốn thành Phật cũng do mình, muốn lang thang trong vòng luân hồi cũng do mình. Thế nên tự mình yên lòng, không còn phải băn khoăn lo lắng gì nữa. Càng được bình an thì càng thấy ân của vị giáo chủ vô cùng tận. Cho nên trong ngày kỷ niệm này, tất cả chúng ta nguyện dâng lên đức Phật thành quả tu tập của mình, cúng dường đúng chánh pháp. Đồng thời chúng ta phát nguyện luôn là người Phật tử xứng danh. Trong quá trình tu tập tuy gặp những khó khăn, nhưng ước nguyện duy nhất của chúng ta là phải giác ngộ như Phật mới vừa lòng con.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM