101 CÂU CHUYỆN THIỀN |
||
Hogen, một Thiền sư Trung hoa, sống ở một ngôi chùa nhỏ trong làng. Một ngày kia có bốn nhà sư du hành xuất hiện và hỏi nếu họ có thể nhóm lửa ở trước sân để sưởi ấm. Trong khi nhóm lửa, Hogen nghe bọỉn họ bàn luận đến chủ quan và khách quan. Ngài tham gia vào và nói: "Có một tảng đá lớn. Quý vị xem nó ở trong hay ở ngoài tâm của quý vị?" Một vị tăng trả lời: "Theo Phật pháp thì mọi sự vật đều là biến thái của tâm, tôi có thể bảo rằng tảng đá ở trong tâm tôi." "Vậy thì đầu của ngài phải nặng lắm," Hogen quan sát, "nếu ngài phải mang mãi tảng đá như thế trong tâm." 77. KHÔNG VƯỚNG MẮC VÀO BỤI TRẦN Zengetsu, một thiền sư Trung hoa vào đời nhà Ðường, đã viết những lời khuyên này cho môn đồ: Sống giửa hồng trần nhưng giử không bị vướng mắc vào bụi trần là chánh đạo của kẻ tu Thiền. Khi nhìn thấy ai làm lành, hãy bắt chước. Khi nghe điều ác nên tránh. Ngay khi ở trong phòng tối, cư xử như mình đối diện với khách quý. Bộc lộ cảm quan, nhưng không nên vượt quá cái thật tánh của mình. Nghèo khổ là kho báu của ngươi, không nên đánh đổi nó cho một cuộc sống dễ dãi. Một người có thể trông giống kẻ khùng, nhưng chưa hẳn đã thế. Biết đâu rằng y đang cẩn thận che dấu sự thông thái của mình. Ðức hạnh là thành quả của sự tự chế. Ðừng đánh rơi chúng từ từng trời như là mưa hay tuyết. Lòng khiêm tốn là nền tảng của mọi đức hạnh. Hãy để cho mọi người sống gần tự biết đến bạn trước khi bạn làm cho họ biết đến. Một tấm lòng cao thượng không bao giờ trưng ra lộ liu. Lời của nó như ngọc quý, vô giá, ít khi được bày biện. Ðối với một người thiền sinh chân thật, mỗi ngày là một ngày may mắn. Thời gian trôi qua nhưng y không bị lùi lại. Chẳng có sự vinh quang hay nhục nhả nào làm chùn ý. Nên khắc khe với chính mình, chứ không phải với người khác. Không nên bàn cải chuyện đúng hay sai. Có vài điều, dù đúng, vẫn bị xem như là sai hằng bao nhiêu đời. Giá trị của điều phải, có thể được biết đến sau nhiều thế kỷ, cho nên không việc gì phải vội đòi hỏi có sự biết ơn tức thì. Hãy sống với nhân duyên và dành kết quả cho luật tối thuợng của vũ trụ. Hãy sống qua một ngày trong an nhiên tự tại. Một phú hộ đến nhờ thiền sư Sengai viết cho một câu hoành phi nói đến sự giàu có của gia đình y để truyền lại cho các thế hệ sau. Sengai lấy một tờ giấy thật lớn rồi viết: "Cha chết, con chết, cháu chết." Người phú hộ nổi giận. "Tôi nhờ ngài viết cho câu gì nói đến hạnh phúc của gia đình tôi! Sao ngài lại giu cợt thế này?" "Chẳng có ý giu cợt đâu," Sengai giải thích. "Này nhé, nếu con của ông chết trước ông, thật là một điều bất hạnh. Nếu cháu của ông chết trước con ông, có phải là cả hai cha con đau khổ lắm không? Nếu mỗi thế hệ trong gia đình ông đều theo tuần tự mà qua đời thì đó mới đúng là giòng đời tự nhiên. Ta gọi đó là phồn thịnh thực sự." Một người đàn bà tên Kame ở Nagasaki là một trong ít người chế tạo ra lư hương ở Nhật Bản. Lư ấy quả là một tác phẩm nghệ thuật hiếm có, chỉ được dùng trong trà thất hay ở bàn thờ gia đình. Cha của Kame cũng là một nghệ nhân. Suốt ngày, nàng còn thích say sưa rượu chè, hút sách và vui chơi với nam giới. Khi nào có được ít tiền nàng liền mở tiệc mời mặc khách tao nhân, văn thi sĩ, thợ thuyền, bọn đàn ông có sự nghiệp hoặc vô nghề. Sự giao thiệp rộng rãi đã gợi hứng cho các sáng tác của nàng. Kame làm việc rất là chậm chạp, nhưng khi tác phẩm hoàn thành thì thực là tuyệt mỹ. Những lư hương của nàng lại được trân quý ở những gia thất mà nội tướng không hề uống rượu, hút sách hay giao hảo với nam nhân một cách bừa bải. Một lần, thị trưởng của Nagasaki nhờ Kame thiết kế cho ông ta một lư hương. Nàng lần lửa mãi đến hơn nữa năm. Ðến lúc đó thì ông thị trưởng, đã được cất nhắc lên làm việc ở một thành phố khác, đến viếng nàng. Ông ta hối thúc nàng bắt tay vào việc. Sau cùng khi có cảm hứng, Kame hoàn thành lư hương và đặt lên một cái bàn. Nàng nhìn nó rất chăm chú. Nàng ngồi đối diện nó, hút thuốc và uống rượu cứ như nó là bạn rượu. Suốt ngày nàng nhìn ngắm nó. Sau rốt, chụp một cái búa Kame dập nát nó ra. Nàng thấy nó không phải là một sáng tạo toàn mỹ như nàng muốn. Khi Bankei thuyết pháp ở chùa Ryumon, một tăng sĩ phái Shinshu, vốn tin vào giải thoát qua chú niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, ganh tị với đám thính chúng đông đảo nên muốn tranh luận với ngài. Bankei đang giữa cuộc giảng thì vị tăng sĩ kia xuất hiện, nhưng vì vị ấy gây náo động cho nên Bankei phải ngưng buổi thuyết pháp để hỏi cớ sự. "Tổ sáng lập của phái chúng tôi," vị tăng sĩ dõng dạc, "có những năng lực kỳ diệu như là ngài cầm bút ở một bên bờ sông mà có thể viết thánh hiệu của Phật A Di Ðà lên trên một tấm giấy do đồ đệ của ngài giơ lên ở phía bên kia sông. Ông có thể làm được phép lạ như thế không?" Bankei nhẹ nhàng đáp: "Con cáo của ông có thể làm được tiểu xão đó, nhưng đó không phải là phong cách của Thiền. Phép lạ của ta là khi đói thì ăn, khi khát thì uống." Gasan đang ngồi cạnh giường của Tekisui, ba ngày trước khi thầy mình viên tịch. Tekisui đã chọn ngài là vị kế thừa. Ngôi chùa vừa bị cháy và Gasan bận lo tu sửa. Tekisui hỏi: "Con sẽ làm gì sau khi ngôi chùa được cất lại?" "Khi sư phụ lành bệnh, chúng con muốn sư phụ thuyết giảng ở đó," Gasan trả lời. "Giả sử ta không sống được đến ngày đó thì sao?" "Thì chúng con sẽ tìm người khác vậy," Gasan đáp. "Giả sử con không thể tìm được người khác?" Tekisui tiếp. Gasan lớn tiếng trả lời: "Ðừng hỏi những câu vớ vẫn nữa. Hãy ngủ đi." Yamaoka Tesshu, khi còn là một thiền sinh trẻ, đi viếng hết thiền sư này đến thiền sư nọ. Ngài đến thăm Dokuon của chùa Shokoku. Muốn vội tõ sự chứng ngộ của mình, ngài nói: "Rốt ráo thì, Tâm, Phật, và chúng sinh chẳng hề hiện hữu. Thật tướng của mọi pháp là Không. Không có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Không có gì để cho và không có gì để nhận." Dokuon ngồi hút thuốc yên lặng, chẳng nói gì. Bỗng nhiên ngài dùng ống điếu bằng trúc đập Yamaoka một cái làm cho chàng thanh niên nỗi giận. "Nếu chẳng có gì hiện hữu," Dokuon hỏi, "vậy thì cơn giận từ đâu đến?" Hyakujo, Thiền sư Trung Hoa, thường hay lao động cùng với các đệ tử, ngay cả đến tám mươi tuổi, dọn dẹp vườn tược, cắt cỏ, tỉa cây. Hàng đệ tử không đành lòng thấy sư phụ tuổi đã cao mà làm lụng vất vả quá, nên mới đem dấu dụng cụ làm vườn đi, bởi vì họ biết thầy vẫn không nghe lời họ khuyên mà nghỉ ngơi. Ngày hôm ấy Thiền sư không ăn. Ngày hôm sau cũng thế, và ngày kế tiếp cũng vậy. "Hay là sư phụ giận vì chúng mình dấu dụng cụ của ngài chăng," bọn đệ tử đoán chừng. "Chúng ta nên để chúng lại chỗ cũ." Hôm họ trả lại dụng cụ, thiền sư làm việc trở lại và ăn như cũ. Vào buổi tối, ngài dạy chúng: "Không làm, không ăn." (Hay Bá Nha Tử Kỳ - LND.) Thuở xưa ở Trung Hoa có hai người bạn, một người đàn rất tuyệt và một người nghe rất tinh. Khi người đàn về cao sơn thì người nghe bảo: "Tôi có thể nhìn thấy núi thẳm ở trước mặt." Khi người đàn về lưu thủy, người nghe reo: "Ðây là giòng nước chảy!" Nhưng rồi người nghe mắc bệnh lìa trần. Người bạn kia cắt đứt dây đàn và không bao giờ đàn nữa. Từ bấy giờ, việc cắt đứt dây đàn ý tõ tình bạn thắm thiết. Thiền sư Ikkyu, ngay lúc còn bé đã rất thông minh. Thầy của cậu có một chén uống trà rất quý, một đồ cổ hiếm hoi. Ikkyu lỡ tay đánh vỡ chén và vô cùng bối rối. Nghe bước chân thầy đến, Ikkyu vội dấu chén vỡ sau lưng. Thầy xuất hiện, Ikkyu hỏi: "Tại sao con người phải chết?" "Thật là tự nhiên," vị thầy già trả lời. "Mọi vật đã sống lâu tất phải chết." Ikkyu, liền giơ cái chén vỡ ra nói: "Ðã đến lúc cái chén của thầy cũng phải chết." 86. PHẬT SỐNG VÀ THỢ LÀM BỒN TẮM Các Thiền sư thường chỉ dạy cho đệ tử trong biệt thất. Không ai được bén mãng đến. Thiền sư Mokurai ở chùa Kennin tại Kyoto, vẫn thích trò chuyện với các thương gia, nhà báo cũng như với các đệ tử của ngài. Có một người thợ làm bồn tắm ít học, hay đến hỏi những câu vớ vẫn, uống một cốc trà rồi bỏ đi. Một ngày nọ có mặt người thợ trong khi Mokurai muốn chỉ dạy cho một đệ tử nên ngài yêu cầu người thợ đợi ở phòng bên cạnh. "Tôi biết ngài là một vị Phật sống," người thợ phản đối. "Ngay cả các tượng Phật đá còn chẳng hề từ chối mọi người đến l bái. Thế tại sao tôi lại bị mời ra?" Mokurai đành phải bước ra bên ngoài để tiếp đệ tử. Thiền sư Gettan, sống vào cuối triều đại Tokugawa. Ngài thường bảo: "Có ba hạng đệ tử : Một hạng hoằng hóa giáo lý, một hạng tu tập ở chùa, và một hạng giá áo túi cơm. Gasan cũng nói như thế. Khi ngài còn tu học với vị thầy rất khắc khe là Tekisui; đôi khi còn bị thầy nện cho mấy gậy. Nhiều thiền sinh khác không chịu nỗi đã phải bỏ đi. Gasan ở lại, nói: "Một đệ tử xoàng thì dựa oai thầy. Một đệ tử khá thì ngưỡng mộ từ tâm của thầy. Môt đệ tử giỏi thì trở nên vững chải hơn dưới kỷ luật của thầy." 88. LÀM SAO LÀM MỘT BÀI THƠ CHỮ HÁN Một thi sĩ nỗi danh người Nhật được hỏi làm thế nào để kết cấu một bài thơ chữ Hán (Tuyệt Cú - LND.). "Thông thường một bài tuyệt cú chỉ có bốn câu," ông ta giải thích. "Câu đầu là khởi; câu hai là thừa, câu ba là chuyển và câu bốn là hợp. Một bài ca quen thuộc của Nhật đã vẽ rõ như thế này: Hai cô con gái của người bán lụa ở Kyoto Cô chị hai mươi tuổi, Cô em, mười tám. Một chiến sĩ có thểgiết người bằng lưởi kiếm, Nhưng các cô gái này giết đàn ông bằng đôi mắt." Các thiền sư hay huấn luyện cho đệ tử tự biểu lộ. Hai Thiền viện có hai cậu bé thiền sinh được gởi gắm. Một cậu thường đi mua rau mỗi sáng, gặp cậu kia trên đường. "Anh đi đâu đấy?" một cậu hỏi. "Tôi đi đến bất cứ nơi nào bàn chân dẫn dắt," cậu kia trả lời. Câu trả lời như thế làm cậu kia bối rối, bèn đến nhờ thầy mình giúp. "Sáng mai," sư phụ bảo, "khi con gặp tên nhải ấy, hỏi lại câu ấy. Nó sẽ trả lời y như cũ, thì hỏi nó: ‘Giả sữ anh không có chân, vậy anh đi đâu đấy?’ Như thế sẽ sửa lưng được nó."Hai đứa bé gặp lại nhau sáng hôm sau. "Anh đi đâu đấy?" cậu trước hỏi. "Tôi đi đến bất cứ nơi nào gió đưa," cậu kia trả lời. Thế là cậu bé trước ngẫn ngơ, thiu não về tìm gặp thầy. "Hỏi nó đi đâu nếu không có gió," sư phụ mách. Lũ trẻ lại gặp nhau hôm sau, lần thứ ba. "Anh đi đâu đấy?" cậu trước hỏi. "Tôi ra chợ mua rau," cậu kia trả lời. Tangen theo học với Sengai từ khi còn bé. Khi được hai mươi tuổi, ngài muốn từ giả sư phụ để tìm học thêm ở các thiền sư khác mà đối chiếu, nhưng Sengai không cho phép. Cứ mỗi lần Tangen gợi ý liền bị Tangen đập cho một gậy lên đầu. Sau rốt Tangen nhờ một sư huynh xin thầy hộ. Vị sư huynh liền giúp và cho Tangen biết: "Xong rồi. Huynh đã sắp xếp để đệ có thể đi tầm đạo ngay." Tangen đến gặp Sengai để cảm tạ. Thiền sư trả lời bằng cách đập cho đệ tử một gậy khác. Khi Tangen kể lại chuyện ấy, vị sư huynh nói: "Làm sao thế được? Không lẽ thầy đã cho phép rồi lại đổi ý. Huynh sẽ hỏi thầy." Và ông ta đi gặp sư phụ. "Ta không hề hủy phép," Sengai bảo. "Ta chỉ muốn cho hắn một cú đập chót lên đầu, để khi trở về hắn sẽ giác ngộ và ta không còn dịp để quở trách hắn nữa." Matajuro Yagyu là con của một nhà kiếm sĩ nỗi danh. Cha của y từ con, vì cho rằng kiếm thuật của con mình xoàng quá khó mà đạt đến chỗ tuyệt luân. Vì thế Matajuro đến núi Futara gặp nhà danh kiếm khác tên Banzo. Rồi Banzo cũng xác nhận lời phê phán của người cha. "Ngươi muốn học kiếm thuật dưới sự chỉ dạy của ta?" Banzo hỏi. "Ngươi không đáp ứng đũ yêu cầu." "Nhưng nếu tôi gắng sức làm việc, bao năm thì tôi có thể trở thành thuật sư?" người thanh niên van nài. "Cả đời của ngươi," Banzo trả lời. "Tôi không thể chờ lâu như thế,: Matajuro giải thích. "Tôi sẽ trải qua mọi khổ nhọc nếu ngài dạy cho tôi. Nếu tôi trở thành kẽ tôi đòi hết lòng theo ngài, thì sẽ bao lâu?" "Ồ! có thể là mười năm," Banzo dịu giọng. "Cha của tôi sắp già, không mấy chốc tôi phải chăm sóc cho ổng," Matajuro tiếp tục. :Nếu tôi hết sức làm lụng, thì sẽ bao lâu đạt chỗ tuyệt luân?" "Ồ, có thể là ba mươi năm," Banzo nói. "Sao lại thế?" Matajuro hỏi. "Trước tiên, ngài bảo mười năm và nay lại ba mươi. Tôi sẽ chịu đựng mọi cực nhọc để đạt tinh thuật trong thời gian ngắn nhất!" "Vậy thì," Banzo bảo, "trong trường hợp đó ngươi sẽ phải ở với ta trong bảy mươi năm. Một kẻ hấp tấp như ngươi khó mà học được nghề nhanh." " Tốt lắm," người thanh niên tuyên bố, rốt ráo hiu rằng mình bị chỉ trích vì thiếu nhẫn nại, "Tôi đồng ý." Matajuro được dặn không bao giờ nói đến kiếm thuật, không bao giờ đụng đến kiếm. Y nấu cơm, rửa chén, trải giường, quét sân, dọn vườn, làm mọi thứ cho thầy mà không được nói đến kiếm thuật. Ba năm trôi qua. Matajuro vẫn lao động cật lực. Nghĩ đến tương lai, y lại buồn lòng. Ngay cả chẳng hề được bắt đầu học môn kiếm thuật mà y thề hiến trọn đời. Nhưng một ngày kia Banzo đi lén ra sau lưng y và nện cho một phát đau điếng với cây kiếm gỗ. Ngày hôm sau, trong khi Matajuro đang nấu cơm, một lần nữa Banzo lại lao đến y bất thần. Kể từ hôm ấy, ngày cũng như đêm, Matajuro luôn cảnh giác đề phòng cú đâm bất chợt. Không giây lát nào mà ngưng nghĩ đến mùi kiếm của Banzo. Y học thật nhanh làm sư phụ hài lòng mĩm cười. Matajuro trở thành kiếm sĩ cừ khôi nhất trong nước. Hakuin thường kể cho các đệ tử nghe chuyện một bà lão có một cửa hàng trà, ca tụng bà ngộ được Thiền. Tăng chúng không tin nên đi đến trà thất tìm cho ra lẽ. Cứ khi nào thấy họ đến là bà đã có thể nói ra ngay rằng họ đến vì trà hay để nhìn thấy sự hiu thiền của bà. Trong trường hợp thứ nhất thì bà tiếp đãi họ rất ân cần. Trong trường hợp thứ hai thì bà vẫy họ ra sau bình phong. Ngay khi họ vừa tuân theo, bà liền đập cho một phát với cây khơi lửa. Chín trong mười tăng sinh không thoát khỏi cú đập của bà. Encho là người kể chuyện có tài. Những chuyện kể về tình yêu luôn làm thổn thức con tim người nghe. Khi ông ta kể đến chuyện chiến tranh thì người nghe tưởng như mình đang ở ngoài bải chiến trường. Một ngày nọ, Encho gặp Yamaoka, một dân giả gần đạt đến bậc sư về Thiền. "Tôi biết," Yamaoka nói, "Ngài là người kể chuyện hay nhất nước, ngài làm cho mọi người khóc hay cười theo ý muốn. Hãy kể chuyện Cậu Ðào tôi ưa thích. Khi tôi còn bé, tôi thường ngủ cạnh mẹ tôi, và bà hay kể chuyện cổ tích này. Giửa chuyện thì tôi đã ngủ say. Hãy kể như mẹ tôi hằng kể vậy." Encho chẳng dám kể thử ngay. Ông xin cho một thời gian để nghiên cứu. Vài tháng sau ông đến gặp Yamaoka và nói: "Xin vui lòng cho tôi cơ hội được kể câu chuyện." "Ðể ngày khác đi," Yamaoka trả lời. Encho lộ vẻ bất bình. Ông nghiên cứu thêm nữa và muốn thử kể lại. Yamaoka từ chối mấy bận. Khi Encho bắt đầu nói thì Yamaoka chận ngang, nói: "Ngài chưa giống mẹ tôi." Phải mất đến năm năm Encho mới kể được câu chuyện cổ tích giống như mẹ của Yamaoka đã từng kể. Theo cách đó, Yamaoka đã truyền Thiền cho Encho. Nhiều đệ tử theo học thiền với Thiền sư Sengai. Một người trong đám hay thức dậy nữa đêm, trèo tường trốn khỏi thiền viện để xuống phố du hí. Một đêm kia Sengai đi kiểm soát khu tăng thất, thấy vắng mặt thiền sinh nọ và khám phá ra cái ghế cao mà y hay dùng để trèo tường. Sengai lấy cái ghế đi và đứng thay vào chỗ ấy. Khi kẽ ngao du quay về, chẳng biết đến sự việc, đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống. Khi khám phá ra mọi chuyện y sững sốt. Sengai bảo: "Khi gần sáng trời thường lạnh lắm. Ðừng dể bị cảm." Người đệ tử không bao giờ ra ngoài vào ban đêm nữa. Bassui viết bức thư sau cho một trong những đệ tử của ngài sắp viên tịch: "Chân tâm của con không hề được sinh, nên nó không bao giờ diệt. Nó không phải là một hiện thực, d bị hũy hoại. Nó không hẳn là hư không, như một khoảng trống. Nó không sắc không tướng. Nó không thọ vui hay cam khổ. "Ta biết rằng con đang bị bệnh nặng. Như một thiền sinh giỏi, con hãy quán chiếu đến chứng bệnh đó. Con có thể không hiu ai đang đau khổ, mà tự hỏi mình: Cái gì là chân tâm? Chỉ quán tưởng đến điều này. Con chẳng cần gì khác. Chẳng ham muốn điều chi. Phút cuối của con xem như vô hạn chỉ giống như một mảnh tuyết tan trong tịnh độ. Thiền sư Gisan bảo một thiền sinh trẻ tuổi xách đến cho ngài một thùng nước để hòa lạnh bồn tắm. Thiền sinh mang đến một thùng nước, và sau khi làm lạnh bớt bồn tắm y đổ phần còn lại ra đất. "Ðồ ngu!" sư phụ mắng đệ tử. "Sao con không tưới nó vào các cây? Con có quyền gì mà phí phạm ngay cả một giọt nước trong chùa này?" Thiền sư trẻ đốn ngộ ngay lúc ấy. Y đổi pháp danh thành Tekisui, nghĩa là một giọt nước. Thời xưa ở Nhật, về đêm người ta thường dùng lồng đèn tre với ngọn nến bên trong. Một người mù đến viếng bạn vào ban đêm được gia chủ biếu cho cây đèn lồng mang về. "Tôi chẳng cần đèn," ông ta bảo. "Tối và sáng đối với tôi đều giống nhau." "Tôi biết anh không cần đèn để soi đường." người bạn trả lời, "nhưng nếu anh không mang đèn thì kẻ khác có thể đâm sầm vào anh. Thôi hãy cầm lấy." Người mù ra đi với cây đèn lồng và chẳng bao lâu sau có người va vào ông. "Hãy xem chừng chứ!" ông nói lớn với người lạ. "Bộ không thấy ngọn đèn sao?" "Nến của ông đã tắt ngấm rồi, ông bạn ạ," người lạ trả lời. Kitano Gempo, viện chủ của thiền viện Eihei, viên tịch vào năm 1933 lúc chín mươi hai tuổi. Suốt đời ngài đã giữ mình không để bị chấp trước vào vật gì. Lúc còn là một hành giả khất thực ở tuổi hai mươi ngài gặp một người đồng hành nghiện thuốc lá. Ðang lúc cùng đi xuống núi, họ ngừng lại nghỉ dưới một gốc cây. Kẻ đồng hành mời ngài thuốc hút, ngài nhậản vì đang đói bụng. "Thật là thích thú làm sao khi hút," ngài nhận xét. Kẽ kia biếu ngài một ống điếu khác và gói thuốc lá rồi chia tay. Kitano chợt nghĩ: "Nỗi thích thú này có thể gây trở ngại cho việc thiền định. Trước khi quá muộn, ta nên ngưng lại ngay." Rồi ngài liền quẳng điếu. Khi hai mươi ba tuổi, ngài nghiên cứu Kinh Dịch, vũ trụ quan sâu xa nhất. Bấy giờ vào mùa đông và ngài cần áo ấm. Ngài viết thư cho sư phụ ở cách xa hằng trăm dậm xin giúp đở, và gởi cho một khách du lịch nhờ trao lại. Mùa đông sắp hết mà chẳng thấy thư hồi âm hay quần áo ấm đâu cả. Kitano liền bốc quẻ Kinh Dịch xem bức thư có đi lạc hay không. Ngài đoán đúng, vì sau đó bức thư từ sư phụ chẳng thấy đả động gì đến quần áo ấm cả. "Nếu ta dùng Kinh Dịch mà đoán đúng mọi chuyện thì ta sẽ xao lảng việc thiền định," Kitano cảm thấy như thế. Rồi ngài liền từ bõ môn học kỳ bí đó và không bao giờ đoái hoài đến nó nữa. Khi được hai mươi tám tuổi, ngài học lối viết thảo triện và thơ văn. Ngài trở thành điêu luyện đến nỗi sư phụ ngài còn ca ngợi. Kitano suy ghĩ: "Nếu ta không ngừng ngay, thì ta sẽ trở thành một thi sĩ, mà không phải là một thiền sư." Rồi ngài chẳng bao giờ viết một bài thơ nào nữa. Tosui là một thiền sư đã từ bõ lối khuôn thước của thiền viện để sống với đám hành khất dưới một chân cầu. Khi ngài đã già quá, một ngưới bạn giúp đở ngài sống mà khỏi phải đi ăn xin. Ông ta bày cho Tosui cách gom cơm lại để chế ra dấm, và Tosui đã thực hiện đến khi ngài qua đời. Trong khi Tosui làm dấm, một người hành khất cho ngài một bức tranh Phật. Tosui treo trên tường của căn chòi và dán một tấm bảng bên cạnh. Tấm bảng viết: "Ông Phật A Di Ðà ạ: Căn chòi này chật chội quá. Con có thể giữ Ngài lại làm kẽ vô gia cư. Nhưng xin đừng nghĩ rằng con cầu xin Ngài cho con được tái sanh vào cõi cực lạc của Ngài nhé." Shoichi là một thiền sư chột mắt, nhưng rạng ngời giác ngộ. Ngài dạy hàng đệ tử ở chùa Tofuku. Ngày và đêm cả ngôi chùa đều tuyệt yên tỉnh. Không hề nghe một tiếng động. Ngay cả việc tụng kinh cũng bị thiền sư cấm. Ðệ tử của ngài chỉ làm có một việc là thiền định. Khi thiền sư viên tịch, cụ già hàng xóm nghe có tiếng chuông rung và tiếng tụng kinh. Bà biết ngay rằng Soichi đã khuất núi. Ðức Phật dạy: "Ta xem ngôi vị của vua chúa hay các nhà cai trị chỉ như hạt bụi. Ta thấy kho tàng vàng ngọc châu báu như gạch đá. Ta coi xiêm y lụa là như giẽ rách. Ta nhìn ra vô số thế giới của vũ trụ như cái hạt nhỏ trong trái cây, và chiếc hồ lớn nhất của Ấn độ như giọt dầu trên bàn chân ta. Ta nhận thấy mọi pháp trong đời đều là hư huyển tựa như ảo thuật của phù thủy. Ta suy nghiệm ra niệm tối thượng giải thoát như một sợi chỉ đan bằng vàng trong giấc mộng, và xem thánh đạo của các đấng giác ngộ như những đóa hoa trong mắt. Ta thấy thiền định như trụ chống của một quả núi, cõi Niết bàn như là ác mộng giữa ban ngày. Ta xem sự phán đoán về thiện và ác như vũ khúc uốn luợn của con rồng, và sự tăng và giảm của đức tin như vết tích sót lại của bốn mùa." ] |