PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN TỰA
TỰA CHUNG
Kinh: Như thế,
tôi được nghe, một thời Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt, cùng
với chúng đại Tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc Vô Lậu
[Lậu: tiếng chỉ phiền não] Đại A La Hán.
Thông rằng:
Tất cả các kinh đều mở đầu bằng “Như thị ngã văn nhất thời”. Đây là Đức
Anan tuân theo ý chỉ của Đức Phật, kết tập các kinh, trước xướng sáu chữ
này, giải tan mọi nghi ngờ. Như thị, như thị ấy là chỉ có thể tự tin lấy,
không cần ngôn thuyết. Nếu hiểu được cái Pháp Như Thị, là chỗ phó chúc bí
mật của Phật Tổ, tức là những lời lòng vòng sau này, đều là lời cước chú
chua thêm vậy.
Có vị tăng vào
tham lễ quốc sư Huệ Trung, sư hỏi : “Làm sự nghiệp gì?”
Tăng đáp :
“Giảng kinh Kim Cang”.
Sư hỏi : “Hai
chữ đầu hết là cái gì?”
Đáp : “Như
thị”.
Sư hỏi : “Đó
là cái gì?”
Tăng không đáp
được.
Sư bảo : “Than
ôi! Vậy thì lấy gì mà giảng kinh?”
Lại còn thiền
sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn[Tuyết Phong thiền sư, tên Nghiã Tồn, người xứ
Phước Châu. Đắc pháp nơi Tổ Đức Sơn. Đời Đường Ý Tông, năm Hàm Thông, tại
núi Tuyết Phong xứ Phước Châu sáng lập nhà thiền. Thường có đến 1500 người
trong chúng học đạo.] hỏi một vị tòa chủ: “Hai chữ Như Thị là tất cả khoa
văn, vậy thì bản văn là làm sao?”
Vị tòa chủ
[Người cầm đầu trong đại chúng] không đáp được.
Đức Ngũ Vân
đáp thay rằng: “Lại chia làm ba đoạn rồi”.
Hãy nói chỗ
Đức Ngũ Vân mở lời, là khoa văn hay là bản văn?
Chữ Tỳ Kheo có
ba nghĩa: Khất Sĩ; là Phá Ác; là Bố Ma (làm cho ma sợ). Chữ A La Hán cũng
có ba nghĩa là Ứng Cúng, là Sát tặc (giết giặc), là Vô Sanh. Đại là để
phân với Tiểu. Lậu cũng có ba loại: Vô Minh Lậu, Dục Lậu và Hữu Lậu.
Kinh nói “Ông
thường nghe trong Luật của Ta có ba nghĩa quyết định tu hành, đó là Nhiếp
Tâm làm Giới, do Giới sanh Định, nhờ Định phát Huệ. Đó là ba môn Vô Lậu
Học. Cấm Răn (Giới) tức là không lọt ra cái Ham Muốn Dâm Dục (Dục Lậu),
Yên Tĩnh (Định) ắt không có Phiền Não (Hữu Lậu), sáng tâm (Huệ) ắt không
có Vô Minh Phiền Não”. Ba món Vô Lậu này gọi là nghĩa quyết định. Tựa hồ
lấy Huệ làm chỗ cực tắc. Nên Đức Động Sơn nói với Ngài Tào Sơn
rằng: “Ở thời mạt pháp, người ta phần nhiều là Huệ Khô Khan (Càn Huệ [Càn
Huệ Địa, địa vị thứ nhất của Thập Địa và Tam Thừa. Cái trí tuệ khô khan
nên chưa thuần thục. Đại Thừa Nghĩa Chương nói: Tuy có trí tuệ, chưa đặng
tịnh thủy (tâm tĩnh lặng, ví như nước đứng im). Lại còn về phép quán sự
(đối lý quán nói sự quán) Đây chưa xong về lý, chưa thuần tịnh]). Để phân
biệt thiệt hay giả, thì có ba loại rỉ chảy (sấm lậu): Một là, Kiến
[Chỗ thấy theo sở học] sấm lậu: chưa lìa phàm phu, sa vào trong biển độc.
Hai là, Tình sấm lậu: vướng mắc vào thuận nghịch, chỗ thấy không được quân
bình. Ba là, Ngữ sấm lậu: cứu xét chỗ huyền diệu mà mất đi Tông chỉ, sau
trước Cơ Trí đều mê muội tối tăm, trí dơ lưu chuyển. Đối với ba loại này,
thầy phải nên biết”.
Trong cái Càn
Huệ, lại chia làm ba thứ này, nếu không có con Mắt Pháp phân biệt thì
không thể chiếu phá. Do đó, bậc A La Hán hồi hướng về Đại Thừa, hẳn phải
tư duy quán xét lời dạy của Ngài Động Sơn, thì mới đầy đủ cái nghĩa Vô Lậu
vậy.
Kinh: Các vị
Phật Tử trụ trì, khéo vượt lên các Hữu. Ở các quốc độ, thành tựu uy nghi.
Theo Phật chuyển pháp luân, kham lãnh xứng đáng di chúc của Phật. Nghiêm
tịnh Giới Luật để mở rộng khuôn phép cho ba cõi. Hiện thân vô số, cứu
thoát chúng sanh, tột đời vị lai, khỏi các Trần ràng buộc.
Thông rằng:
Trụ Trì là cái Giác Tánh Thường Trụ (hằng còn), hay nắm giữ (trì) vạn
Pháp. Đoạn kinh này chỉ mười mấy chữ, thật bao quát hết ý chỉ của cả bộ
kinh. Nói rằng “Khéo vượt lên các Hữu”, tức là Ngũ Ấm, Lục Nhập, Mười Hai
Xứ, Mười Tám Giới, cho đến bảy Đại đều chẳng có thể làm chướng ngại, thì
nghĩa “Phá Vọng” đã đầy đủ hết. Nói rằng “Thành tựu uy nghi”, tức là dựng
lập Đạo Tràng, ba món tiệm thứ. Năm mươi lăm địa vị, tức là con đường Bồ
Đề, thì nghĩa “Hiển chơn” đã đầy đủ. Nói rằng “Diệu kham di chúc” thì hai
mươi lăm pháp môn viên thông đều chứng Tự Tánh, đồng kham thọ ký thành
Phật, mà cái tông chỉ “Kiến Tánh” tự còn. Nói rằng “Mở rộng khuôn phép
trong ba cõi”, thì bộ kinh này phù trì Giới Luật, dặn dò cẩn thận bốn Cấm
Giới, Thập Thiện và chín loại Định để nêu rõ quy tắc cho ba cõi. Ngài Anan
thị hiện dâm sự để mở đầu bộ kinh là cũng vì vậy. Nói “Ứng thân vô lượng”,
là dạy các vị Bồ Tát và A La Hán hiện thân trong đời mạt pháp, hóa làm đủ
thứ hình dạng, cứu vớt các chúng sanh luân hồi vậy. Vì phòng ngừa cho
chúng sanh đời mạt pháp khỏi các ma sự, “Siêu khỏi các Trần ràng buộc”,
chứng đến chỗ viên thông. Thật là lời dặn dò khuôn mẫu sau chót của Như
Lai vậy.
Ngài Phong
Huyệt Chiểu thiền sư có lời dạy rằng: “Nếu lập một mảy trần [Trần: hạt
bụi.], dẫu nước nhà đang hưng thịnh, lão quê này cũng buồn rầu. Không lập
một mảy trần, dẫu nước nhà sụp đổ, lão quê này cũng vui ca”.
Ngài Tuyết Đậu
dựng cây trụ trượng lên mà nói: “Lại còn có vị tăng cùng sống cùng chết
nào không?”, ý chỗ lập trần là ở đó. Tụng rằng: “Lão tăng dạy dỗ chẳng
nhướng mày. Mong cho nhà nước vững nền ngay. Mưu thần dũng tướng giờ đâu
tá. Vạn dặm gió trong, chỉ tự hay.”
Ngài Tuyết Đậu
ở trong cửa Phật sự, chẳng bỏ một Pháp. Ngài Thiên Đồng ở nơi Thực Tướng
chẳng thọ một mảy trần. Hai Pháp song hành bình đẳng, cùng một chỗ xuất
ra.
Tụng rằng:
“Sông Vị trắng trong thả nhợ câu
Nào giống Di Tề chết đói đâu
Chỉ tại mảy trần sanh lắm vẻ
Nghiệp tốt, danh cao, khó bỏ thay”.
Lại còn Tổ
Trường Khánh nói rằng: “Mọi chuyện giống như ngày nay là bởi Lão Hồ [Lão
Hồ: người rợ già. Chỉ Đức Đạt Mạ.] có chỗ cho người ta ngưỡng vọng”.
Tổ Bảo Phước
nói: “Mọi sự giống như ngày nay là vì Lão Hồ tuyệt hết mọi chỗ cho người
ta ngưỡng vọng”.
Ngài Thiên
Đồng dạy thêm: “Giàu, ngàn miệng ăn vẫn cho là ít. Nghèo, một thân này vẫn
hận là nhiều”.
Xét chỗ khai
thị của các vị tôn túc, tất cả đều vì người, nào có khác với tâm cứu độ
chúng sanh đời sau của Phật, Tổ. Nên sao chép lại để làm cái pháp Trụ Trì
[Còn hoài]
Kinh: Các vị
là: Đại Trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na
Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà làm Thượng Thủ. Lại có vô số các
vị Bích Chi Vô Học và Sơ Tâm đồng đến chỗ Phật giảng đạo. Nhằm ngày các vị
tỳ khưu mãn hạ Tự Tứ, các vị Bồ Tát từ mười phương đến, xin Phật giải
quyết nghi hoặc, kính vâng Đức Từ Nghiêm, thỉnh cầu Nghĩa Thâm Mật.
Đức Như Lai
trải pháp tọa, ngồi khoan thai, vì cả Pháp Hội mà tỏ bày cái mật nhiệm sâu
xa. Chúng hội trong sạch, được việc chưa từng có.
Thông rằng:
Đây là nói về chỗ bắt đầu của kinh. Nói là các vị Bồ Tát thỉnh cầu Mật
Nghĩa, mà chẳng có nói cái gì là mật. Nói đức Phật tỏ bày cái thâm áo, mà
chẳng nói cái gì là thâm áo, thì làm sao chúng hội thanh tịnh lại được chỗ
chưa từng có?
Xưa, Đức Thế
Tôn một hôm lên tòa pháp. Đức Văn Thù bạch chùy rằng: “Hãy xem rõ Pháp
Vương Pháp. Pháp Vương Pháp như thế [Đế quán Pháp Vương Pháp. Pháp Vương
Pháp như thị]”.
Đức Thế Tôn
bèn xuống pháp tòa.
Tổ Thiên Đồng
tụng:
“Một đoạn của nhà có thấy không
Miên man trời đất chạy thoi nhanh
Gấm cổ dệt thành, bao Xuân sắc
Ngại gì tiết lộ bởi Đông Quân [Thần mùa Xuân]”.
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng:
“Thánh chúng đương nhiên ắt hiểu ngay
Pháp Vương, Pháp Lệnh chẳng như đây
Hội này mà có Thiền gia khách
Văn Thù nào phải hạ một chùy”.
Nếu đối với
chỗ Đức Thế Tôn lên tòa yên ngồi mà đã rõ thông tin tức, mới thật diệu khế
cái Áo Mật, mà chẳng cần nhờ đến lời lẽ phiền phức vậy.
Hàng Bích Chi,
còn có hạng Sơ Phát Tâm là học trò của hàng Bích chi.
“Hưu Hạ Tự Tứ”
là trong Luật có dạy ba ngày ra Hạ là Mười Bốn, Mười Lăm và Mười Sáu tháng
Bảy.
Kinh: Tiếng
của Phật hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, vang khắp mười phương.
Hằng sa Bồ Tát dến chốn đạo tràng, có Ngài Văn Thù Sư Lợi
làm Thượng Thủ.
Thông rằng:
Chim Ca Lăng Tần Già khi còn trong trứng đã đủ tiếng hay, các loài chim
khác không so sánh kịp. Thí dụ cho Đốn Giáo vào ngay dòng giống Phật,
không cần mượn tu tập, Tam Thừa không bì kịp. Phật dùng âm thanh này để
dạy cho hàng căn cơ Đốn Ngộ.
Thuở xưa, có
lần Ngài Mục Kiền Liên muốn cùng tột âm thanh của Phật, dùng hết thần lực,
đi qua hằng sa cõi, đến một cõi Phật có Báo Thân rất lớn. Ngài chống
trượng đi trên miệng bát cơm của chư vị cõi đó. Các đệ tử ở đấy đều thưa
với đức Phật cõi đó: “Tại sao lại có loại trùng giống hệt con người?”
Đức Phật kia
đáp: “Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử của phật Thích Ca ở cõi Ta Bà. Chớ thấy
hình vóc nhỏ nhoi mà xem thường!” Rồi đức Phật hỏi Ngài Mục Kiền Liên đến
đây làm gì.
Ngài trả lời
là muốn cùng tột âm thanh của Phật.
Đức Phật dạy:
“Âm thanh của Phật vô tận, ông không thể cùng tột được đâu”.
Ngài Mục Kiền
Liên bèn trở về.
Nên nói “Khắp
hết mười phương” là đúng vậy.
Hằng sa Bồ Tát
mỗi mỗi đều có chỗ ở, như những cõi kể trong kinh Hoa Nghiêm, vũ trụ vô
cùng, chỗ nào mà chẳng phải là Trụ Xứ của Bồ Tát ? Nay nghe âm thanh Phật,
các Bồ Tát đi đến với Phật.
Văn Thù tức là
Diệu Đức, để bày tỏ cái Thiệt Trí. Mở bày Đốn Giáo thì đúng là Cơ của
Ngài, nên Ngài làm Thượng Thủ.
Xưa, Ngài Vô
Trước Văn Hỷ thiền sư đến động Kim Cương ở núi Ngũ Đài chiêm bái Đức Văn
Thù. Ngài gặp một ông già đang dắt trâu đi và mời Ngài vào chùa.
Ông già gọi:
“Sa di!” Thì có một đồng tử ứng tiếng dạ, chạy ra tiếp. Ông già thả trâu
đi, dắt thiền sư lên nhà khách. Nhà cửa đều chói lọi ánh vàng. Ông già
ngồi lên giường, chỉ một cái đôn gấm mời Ngài ngồi.
Ông nói : “Ông
từ đâu tới?”
Sư Văn Hỷ đáp:
“Phương Nam”.
Ông hỏi: “Phật
Pháp ở phương
Nam
trụ trì thế nào?”
Sư đáp: “Đời
mạt Pháp các Tỳ Kheo ít phụng trì Giới Luật”.
Ông hỏi:
“Chúng nhiều ít?”
Sư đáp: “Hoặc
ba trăm, hoặc năm trăm”.
Sư Văn Hỹ trở
lại hỏi: “Phật Pháp ở đây trụ trì thế nào?”
Ông già trả
lời: “Rồng rắn lẫn lộn, phàm Thánh ở chung”.
Sư hỏi: “Chúng
nhiều ít?”
Ông đáp:
“Trước ba ba, sau ba ba [Tiền tam tam, hậu tam tam]”. Ông kêu đồng tử đem
trà và váng sữa [Tô lạc] lại. Sư dùng xong, tâm ý thông suốt.
Ông già cầm
chén pha lê lên hỏi: “Phương Nam có thứ này không?”
Sư đáp: “Không
có”.
Ông hỏi: “Bình
thường lấy gì uống trà?”
Sư không đáp
được.
(Tiếc thay!
Đang khi ấy chỉ nên đập nát nghiến cái chén pha lê!)
Văn Hỷ thấy
trời đã tối, bèn hỏi ông ở lại một đêm được chăng.
Ông già nói:
“Ông còn cái tâm chấp không thể ở lại”.
Sư nói: “Tôi
đâu có tâm câu chấp”.
Ông già hỏi:
“Ông đã thọ Giới chưa?”
Sư đáp: “Thọ
Giới đã lâu”.
Ông già nói:
“Nếu không có cái tâm chấp, thì thọ Giới để làm gì?”
Sư cáo từ. Ông
già bảo đồng tử tiễn Ngài về.
Ngài hỏi đồng
tử : “Trước ba ba, sau ba ba là nhiều ít?”
Đồng tử gọi
lớn: “Đại Đức!”
Sư ứng tiếng
dạ.
Đồng tử nói:
“Đó là nhiều ít?”.
Sư Hỷ lại hỏi:
“Đây là chỗ nào?”
Đáp rằng: “Đây
là động Kim Cương, chùa Bát Nhã”.
Sư Văn Hỷ mới
tỉnh ngộ ra rằng ông già tức là Văn Thù vậy. Không thể ra mắt trở lại dược
nữa, bèn cúi đầu trước đồng tử, xin một lời nói để từ biệt.
Đồng tử đọc
bài kệ:
Trên mặt không
sân: đồ cúng dường
Trong miệng
không sân: xuất Diệu Hương
Trong tâm
không sân là châu báu
Không dơ,
không nhiễm tức Chân Thường.
Nói xong, cả
người lẫn chùa đều ẩn mất.
Thầy Hỷ sau
tham học với Tổ Ngưỡng Sơn, chóng ngộ tâm khế, giữ chức Điển Tòa [Lo về
trai tăng trong thiền viện]. Khi nấu ăn, Đức Văn Thù thường hiện hình trên
nồi cháo. Sư Văn Hỷ lấy cái đũa tre quậy cháo đánh mà nói rằng : “Văn Thù
tự mặc Văn Thù. Văn Hỷ tự mặc Văn Hỷ”.
Đức Văn Thù
bèn nói bài kệ :
“Bầu đắng rễ cũng đắng,
Dưa ngọt tận cuống ngọt
Tu
hành ba đại kiếp
Lại bị lão tăng từ (chối)”.
Thấu đến Trong
Ấy [Giá Lý] lại còn nói có tâm câu chấp nữa ư?
Tổ Tuyết Đậu
tụng rằng:
“Ngàn đỉnh nhấp nhô một màu lam
Ai
là Văn Thù để đối đàm
Nực cười Thanh Lương [Núi Ngũ Đài] nhiều ít chúng
Trước ba ba sau cũng ba ba”.
Chỗ này mà
thấu thoát [Hiểu thấu róc tuốt] được mới cho gặp mặt Đức Văn Thù. |