PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM
MỤC MỘT: GẠN HỎI CÁI TÂM
I. NGUYÊN DO CỦA THƯỜNG TRỤ VÀ LƯU CHUYỂN.
Kinh: Phật bảo
Ông Anan: “Ông với Ta đồng phái, tình như anh em ruột. Khi ông mới phát
tâm, thì ở trong Phật Pháp, thấy tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu
nặng của thế gian?”
Ông Anan bạch
Phật: “Tôi thấy ba mươi hai tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể
sáng suốt như ngọc lưu ly. Thường tự suy nghĩ : tướng ấy không thể do Dục
Ái sanh ra. Vì sao? Thứ dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen
lộn, làm sao sanh được thân vàng chói trong sạch sáng ngời như vậy, nên
tôi khao khát ngưỡng mộ xuống tóc mà theo Phật”.
Đối với chỗ
này tỏ hiểu thì nào phải đợi thấy cái thân vàng chói trong sạch mới gọi là
Như Lai ư?
Kinh : Phật
dạy: “Lành thay, Anan! Các ông phải biết: tất cả chúng sanh từ vô thủy đến
nay, sống chết nối nhau, đều do không biết cái Chân Tâm Thường Trụ [Hằng
còn], Thể Tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà lại dùng các Vọng Tưởng. Các
tưởng này chẳng chân thật, nên mới có sự chuyển động trôi lăn.
Thông rằng:
Ông Anan ân cần, tha thiết thưa hỏi Pháp Môn Vi Diệu Xa Ma Tha, Tam Ma,
Thiền Na là những phương tiện ban đầu nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành
Chánh Giác. Chính là muốn biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể trong
sạch sáng suốt, là cái Bản Thể Bất Diệt không bị xoay chuyển luân hồi. Ông
đã nói “Tướng ấy chẳng phải do Ái Dục sanh ra”, là đã hiểu rõ rằng Dục Ái
nhơ nhớp, Vọng Tưởng tạp loạn chính là cái gốc rễ Sanh Tử từ vô thủy đến
giờ. Cho nên Phật mới khen rằng “Lành thay!” Cái Chân Tâm Thường Trụ, vốn
không sanh ra và diệt mất. Vừa khởi vọng tưởng liền nhập luân hồi. Không
phải chỉ có Dục Ái nặng nề, nghiệp dữ đa mang đều chẳng phải chơn, mà bậc
Thanh Văn, Duyên Giác chưa hết lòng chấp trước thì cũng đều là Vọng. Vọng
tưởng hết sạch thì Tánh Thể sáng suốt, vốn tự Vô Sanh, làm sao mà có luân
chuyển. Toàn cả bộ kinh đều phát minh ý chỉ này. Cho nên, biết cái Chân
Tâm Thường Trụ, tức là Thấy Tánh, Thấy Tánh thì Vô Sự
vậy.
Ngài Linh Vân
[Tổ Chí Cần thiền sư, đời Đường, ở núi Linh Vân. Ban đầu ở Ngụy Sơn, nhân
thấy hoa đào mà tỏ ngộ đạo] thượng đường dạy: “Hỡi các nhân giả, hễ có dài
có ngắn là chẳng có Thường. Hãy xem bốn mùa hoa cỏ, hoa nở lá rơi. Xưa nay
trời người bảy nẻo, Đất Nước Gió Lửa, thành hoại chuyển vần, nhân quả nối
nhau, ba đường ác khổ, mảy lông cọng tóc chưa từng thêm bớt, chỉ có cái
gốc thần thức là thường còn. Hạng Thượng Căn gặp bạn lành soi sáng, ngay
đây là Giải Thoát, trước mắt là đạo tràng. Bực Trung, bực Hạ si mê ám độn,
chẳng soi suốt được, mê chìm trong ba cõi, luân chuyển tử sinh. Đức Thích
Tôn vì họ, tất cả Trời người, mà dạy dỗ chứng minh, tỏ bày con đường Vô
Thượng. Các ông lại am hiểu chăng?”
Có vị tăng
hỏi: “Làm sao để ra khỏi Sanh Lão Bệnh Tử?”
Ngài đáp:
“Núi xanh nguyên chẳng động
Mặc tình mây qua lại”.
(Thanh sơn nguyên bất động
Phù vân nhậm khứ lai).
Câu này đủ để
chú thích đoạn kinh trên. Không thể thêm bớt một chữ.
Kinh: “Nay ông
muốn học đạo Bồ Đề Vô Thượng, phát minh Chơn Tánh thì phải lấy Tâm Ngay
Thẳng (Trực Tâm) mà trả lời chỗ Ta hỏi. Mười phương Như Lai đồng một con
đường mà ra khỏi Sanh Tử đều là bởi Tâm Ngay Thẳng. Tâm mà nói là Ngay
Thẳng, tức là từ địa vị đầu tiên cho đến cuối cùng, suốt trong khoảng
giữa, cứ như thế, một mực không có những tướng quanh co.
Thông rằng:
Hiệp Luận nói: “Ở đây, đặc biệt nói là Chân Phát Minh Tánh, vậy thì cũng
có Vọng Phát Minh Tánh sao? Có chứ. Làm sao để phân biệt? Đáp: Vô tâm tùy
mặc xoay vần mà khắp biết, vốn mầu nhiệm sáng soi mà hằng vắng lặng, ấy là
Chân Phát Minh Tánh”. Chỗ nói “Mười phương Như Lai đều cùng một đường mà
ra khỏi Sanh Tử đều do Trực Tâm” là thế. Còn nghịch với thời tiết, bỏ lỡ
nhân duyên, lấy vọng tưởng mà gắng gượng hiểu biết, là Vọng Phát Minh
Tánh. Chỗ nói “Dùng các vọng tưởng, vọng tưởng này chẳng chân thật nên có
luân hồi” chính là thế. Vốn là một Thể, nhưng bởi vì không có tự tánh,
không có thời gian, nên tùy chỗ dùng mà có sai khác đó thôi. Tùy mặc xoay
vần, hằng hằng vắng lặng mà Hay Biết, ắt hợp với Bổn Tánh [Cái đức tánh
xưa nay có lâu rồi vậy.] nhiệm mầu. Nghịch thời lỡ duyên mà Biết, ắt hợp
với Trần Cảnh hư vọng.
Ngài Mã Minh
[Nhà Đại Thừa luận sư ra đời 600 năm sau khi Phật nhập tịch. Tên tiếng
Phạn là As’vaghosa. Học trò của Hiếp trưởng lão] dạy: “Cái Bổn Tánh vốn
trong sạch, bởi vì Vô Minh bất giác mà hiện ra tướng tâm ô nhiễm. Tuy có
tâm ô nhiễm, Bổn Tánh vẫn thường sáng suốt trong sạch. Cái tướng của tâm ô
nhiễm là vô minh đang hiện hành. Còn Bổn Tánh sáng sạch là cái Trí Thể Bất
Động”.
Có vị tăng hỏi
Tổ Vân Am: “Luận Tạp Hoa nói: Cái vô minh đang hiện hành tức là Như Lai
Bất Động Trí. Điều này thật khó tin, làm sao hiểu được?”
Khi ấy có một
đồng tử đang quét đất.
Tổ Am bèn gọi.
Đồng tử quay đầu lại.
Tổ Am nói:
“Chẳng phải là Bất Động Trí đó sao?”
Lại hỏi: “Cái
Phật Tánh của ngươi như thế nào?”
Đồng tử nhìn
qua trái, qua phải, như không vậy rồi bỏ đi.
Tổ Am nói:
“Chẳng phải là vô minh hiện hành đó sao?”
Chân Phát Minh
Tánh ấy, như ánh sáng của hạt minh châu, thường tự soi hạt châu. Đức Khổng
Tử dạy “Không nghĩ quấy”, là cũng gần giống vậy. Còn Vọng Phát Minh Tánh
thì ví như phương Đông trời sắp sáng, trong khoảng lờ mờ, có chút bóng
sắc. Kinh Dịch nói “Chỗ mờ tối hỗn tạp mà sáng”, là gần giống vậy.
Kinh: “Anan,
nay Ta hỏi ông: “Đương khi ông do ba mươi hai tướng của Như Lai mà phát
tâm thì ông lấy cái gì mà thấy và cái gì ưa thích?”
Thông rằng:
Đây là chỗ từ từ dẫn dụ trước hết của Thế Tôn. Đức Thế Tôn há chẳng biết
rằng “Sự Thấy thuộc về con mắt, ưa thích thuộc về cái tâm” hay sao? Nhưng
cái “Thấy Có” đó, là cái Thấy về hình tướng hữu vi. Cái “Có chỗ ưa thích”
ấy, là cái ưa về hình tướng hữu vi. Nên hỏi ai thấy, ai yêu, cốt để Anan
ngay lúc ấy nhận ra và nắm lấy con người thực xưa nay của mình vậy. Nếu có
thể hồi quang phản chiếu, tìm cầu cái Thấy ấy, chợt hiểu Bất Khả Đắc, hết
thảy ưa muốn vốn chưa từng có gốc rễ, tức thì nhập ngay vào Định Thủ Lăng
Nghiêm. Thế chẳng khoái sao? Về sau, nhà Thiền hay dùng cái cơ chốt này.
Có nhà sư hỏi Tổ Bá Trượng [Tổ Đại Trí Hoài Hải thiền sư, đời Đường, ở núi
Bá Trượng, nối
kế mối pháp thế đức Mã Tổ Đạo Nhất thiền sư. Tổ chế lập phép thức thiền
môn đầu tiên, gọi là Bá Trượng Thanh Qui. Tổ để lại nhiều công án như Bá
Trượng Giả Hồ, Bá Trượng Tam Nhựt Nhĩ Lung... ]: “Như sao là Phật?”
Tổ Trượng hỏi
: “Ông đó là ai?”
Đáp: “Tôi đây
vậy”.
Tổ Trượng rằng
: “Ông biết cái Tôi đó chăng?”
Đáp: “Rõ ràng
vậy”.
Tổ Trượng bèn
dựng đứng cây phất tử [Vật biểu hiện chức trụ trì.] lên, rằng: “Ông lại
thấy chăng?”
Đáp: “Thấy”.
Tổ Trượng bèn
chẳng thốt lời nào.
Chỗ hỏi của vị
tăng là Phật, mà Tổ Trượng lại chẳng nói gì đến Phật, chỉ ở Chỗ Thấy của
vị tăng mà nhắc nhở. Một tắc này, rõ ràng bày tỏ được cái khuôn mẫu của
Lăng Nghiêm.
Kinh: Anan
bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, sự ưa thích đó là dùng cái tâm và con mắt của
tôi. Do mắt thấy tướng tốt của Như Lai, tâm sinh ưa thích, nên tôi phát
tâm nguyện lìa bỏ sanh tử”.
Phật bảo Ông
Anan: “Như chỗ ông nói, thật do tâm và con mắt mà có ưa thích. Nếu không
biết tâm và mắt ở đâu, thì chẳng dẹp được trần lao. Ví như bậc quốc vương
bị giặc xâm lăng, phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần nhất phải biết chỗ ở
của kẻ giặc. Khiến ông bị luân hồi, thì tâm và mắt là thủ phạm. Nay ta hỏi
ông: “Tâm và mắt ấy hiện ở chỗ nào?”
Thông rằng:
Chỗ hỏi của Thế Tôn là riêng tỏ về chỗ Hướng Thượng Nhất Lộ [Tông thừa,
yếu chỉ nhà thiền, gọi chung là hướng thượng nhất lộ (ngoảnh lên một
đường)]. Nói “Lấy cái gì mà thấy, lấy ai ưa thích”, rõ ràng là chỉ thẳng
mặt trăng. Chỗ đáp của Ông A Nan chưa rời khỏi thường tình, chỉ biết hợp
theo Trần mà chẳng biết hợp với Giác. Xoay lưng lại với Giác mà hiệp theo
Trần, là lỗi của ai? Sáu Giặc (sáu Căn) làm môi giới, tự cướp lấy của báu
nhà mình. Cho nên, chỗ Ông Anan nói “Tâm và Mắt”, chỉ là Căn và Thức, lôi
kéo theo trần lao, lưu chuyển cùng sanh tử. Cái Thường Trụ Chân Tâm
[Cái Tâm Chân Thật không sanh ra, không diệt mất.] như vua trong nước, vì
bị giặc xâm lấn, nên vốn trong sạch mà gọi là dơ, vốn sáng soi mà gọi là
mờ ám. Tâm và mắt thật là lũ giặc của Chân Tánh vậy. Do đó, phải thấu đến
cùng sào huyệt của chúng mà diệt trừ. Nghịch dòng trôi lăn, giữ tròn Chân
Tánh, Lục Dụng (sáu Thức) chẳng hiện hành, mà phát ra sự sáng rỡ trong
sạch vốn có, sáu Căn đồng dùng thay lẫn cho nhau, con mắt thịt do cha mẹ
sanh ra thấy suốt mười phương, thì còn đâu các lỗi bị lưu chuyển nữa!
Thiền sư Tử Hồ
Tung có đêm la lớn : “Có cướp! Có cướp!”
Đệ tử choàng
dậy tranh nhau đuổi bắt. Ngài chụp lại một người, nói rằng: “Bắt được một
tên rồi”.
Người đệ tử ấy
nói: “Không phải đâu, chính là tôi đây”.
Ngài buông ra
nói rằng: “Chính là [Thị tức thị, thì phải rồi]”.
Chỉ bởi vì
chẳng chịu nhận lấy đó thôi!
Cho nên, nếu
chịu nhận lấy thì giặc cướp tức là con cái. Chẳng thể kham lấy, con cái
trở lại làm giặc. Đoạn thuyết thoại này đối với chuyện vị quốc vương đem
binh trừ giặc, thật là một phen hý lộng, riêng cho bực có mắt đó thôi.
II. CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN
Kinh: Ông Anan
bạch với Phật: “Thưa Thế Tôn, tất cả mười loài chúng sanh ở thế gian đều
cho cái Thức Tâm Hay Biết là ở trong thân. Thiết nghĩ, thì con mắt như hoa
sen xanh của Như Lai cũng ở trên mặt Phật. Nay tôi thấy con mắt vật chất
của tôi cũng ở trên mặt tôi. Như vậy thì cái Thức Tâm thật ở trong Thân”.
Phật bảo Ông
Anan: “Hiện nay ông ngồi trong giảng đường của Như Lai. Ông hãy xem rừng
Kỳ Đà ở đâu?”
- Thưa Thế
Tôn, giảng đường cao lớn thanh tịnh này ở trong vườn Cấp Cô Độc, còn rừng
Kỳ Đà hiện thật ở ngoài giảng đường.
- Anan, nay
ông ở trong giảng đường, thì ông thấy cái gì trước tiên?
- Thưa Thế
Tôn, tôi ở trong giảng đường, trước hết là thấy Như Lai, sau đó là đại
chúng, rồi nhìn ra ngoài thấy vườn rừng.
- A Nan, do
đâu ông thấy được vườn rừng?
- Thưa Thế
Tôn, do các cửa giảng đường mở rộng, nên tôi ở trong này mà thấy được ra
ngoài xa.
Thông rằng:
Phù Căn Tứ Trần [Con mắt vật chất]cũng giống như sáu Căn, đây chỉ về Nhãn
Căn mà thôi. Đất, Nước, Lửa, Gió: Tánh chúng xưa nay vốn trong sạch; mà
Tướng của Đất, Nước, Lửa, Gió mỗi mỗi đều dao động như bụi bặm, gọi là
Trần. Khi sáu Căn tạo thành thì nương theo tứ Trần này : sáu Căn chìm vào
trong, bốn Đại trôi nổi ở bên ngoài, cho nên gọi là Phù Căn Tứ Trần. Với
cả mười loài, Thức Tâm đều ở trong, mắt ở trên mặt thì không nói cũng biết
rồi. Con mắt của Như Lai ở trên mặt, nhưng không dám xác quyết Thức Tâm là
ở trong, vì Như Lai đã rời lìa cái Thức rồi, vì cái Pháp Thân thì tròn đầy
không có trong hay ngoài vậy. Anan nói ra thật đắn đo, mà người dịch cũng
cẩn thận. Thế Tôn muốn bày rõ cái nghĩa “Tâm chẳng ở trong”, nên trước hết
lấy giảng đường, rừng vườn, cửa nẻo làm ví dụ. Giảng đường ví như trong
thân, vườn rừng ví như ngoại vật, cửa nẻo ví như lục căn. Nếu Ông Anan là
người tỏ suốt, thấy được con người đích thực của Anan, vốn chẳng thuộc
giảng đường, chẳng thuộc vườn rừng, chẳng thuộc cửa nẻo, thì ông sẽ đến đi
tự tại, không làm gì có trong có ngoài. Nếu chấp chặt tâm này, lầm lạc cho
là ở trong Sắc Thân, lấy tạng phủ làm nhà nhốt kín, lấy sáu căn làm cửa
nẻo, ôm lấy ngoại cảnh làm vườn rừng, rồi nghĩ rằng ngoài những thứ đó thì
không có chỗ an thân. Một mai, nhà hư cửa nát, cảnh đổi, cái Thấy tiêu
vong, thì còn chỗ nào để an được. Thế Tôn tuy nương theo chỗ bình thường
biện biệt thứ tự trong ngoài, cũng chỉ rõ ràng sắc thân vốn như huyễn,
chẳng phải là chỗ để bám chấp được. Như giảng đường, cửa cái, cửa sổ đối
với ta chẳng có tương can gì.
Ngài Trí Huy
Thiền sư trước khi tịch có bài kệ:
“Ta có một căn nhà
Xây lợp bởi mẹ cha
Tám mươi năm lui tới
Gần đây rõ sắp hoại
Sớm liệu dời nơi khác
Nào có chuyện ghét thương
Đợi lúc kia sập nát
Đây kia không ngăn ngại”.
(Ngã hữu nhất gian xá
Phụ mẫu vị tu cái
Vãng lai bát thập niên
Cận lai giác tổn hoài
Tảo nghị di biệt xứ
Sự thiệp hữu tắng ái
Đãi tha tồi hủy thời
Bỉ thử vô phòng ngại).
Rồi ngồi kiết
già mà đi. Đó là thương ghét đều quên, đến đi không trở ngại, cái Năng
Kiến [Tâm và Mắt] đã tiêu vong thì còn nói gì đến chuyện trong ngoài nữa.
Kinh: Khi ấy,
Đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, đưa cánh tay sắc vàng xoa đầu Ông Anan, dạy
ông và đại chúng rằng: “Có Pháp Tam Ma Đề, tên là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng
Nghiêm Vương, gồm đủ muôn hạnh. Mười phương Như Lai, đều do một pháp môn
là con đường Diệu Trang Nghiêm ấy mà siêu xuất. Nay ông hãy nghĩ kỹ!”
Ông Anan đảnh
lễ, kính vâng lời Phật dạy.
Thông rằng:
Một pháp môn siêu xuất này rõ ràng chỉ ra con đường Đốn Ngộ
cốt ở chỗ chuyển Thức thành Trí. Tinh thuần dùng Kim Cang Càn Huệ mới có
thể nói là con đường đạo Chân Thật. Sau này, trong kinh có nói: “Diệu Pháp
này, vô lượng Chư Phật trong hằng sa kiếp đời quá khứ, nhờ khai ngộ cái
tâm này mà được đạo Vô Thượng. Thức Ấm tận hết, thì ngay đây các Căn của
ông có thể dùng thay cho nhau được [Tai có thể thấy, mắt có thể nghe... ].
Từ trong chỗ dùng thay nhau đó mà có thể thấu vào Kim Cương Càn Huệ của Bồ
Tát. Cái Tâm thuần nhất tròn sáng ở trong phát chiếu ra, như ngọc lưu ly
trong sạch, ngậm mặt trăng quý báu ở trong. Như vậy rồi vượt lên hàng Thập
Tín, Thập Trụ, Thập Hành, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm, đến chỗ tu hành
của Kim Cương Thập Địa Bồ Tát, đến địa vị Đẳng Giác Tròn Sáng, nhập vào
cái Biển Trang Nghiêm Mầu Nhiệm của Như Lai, tròn đầy cái Đạo, quy về
trong cái Vô Sở Đắc”.
Đầu đuôi ứng
nhau, tất lấy việc siêu xuất Thức Ấm làm cái quy tắc rốt ráo. Đức Thế Tôn
thấu suốt rằng sự tiếp nối nhau của sanh tử thế gian chỉ là sự tiếp nối
nhau của mỗi mỗi vọng tưởng, mê mờ chẳng hề biết quay trở lại. Thức Ấm hết
ráo, đó là Chân Tâm Thường Trụ, hiện bày trước mắt, Thể Tánh trong sạch
sáng soi, cùng Phật không khác. Cho nên, phá được Thức Ấm, tức nhập Đốn
Môn. Ông Anan tuy thông minh học rộng, rốt cuộc chẳng ra khỏi thức tình
phân biệt. Thức tình chưa trừ, chỉ là ở chỗ “Có đắc”. Mà chứng Bồ Đề, chỉ
ở tại chỗ “Không đắc”. Cho nên, phần sau của kinh, nơi bảy chỗ hiển bày
cái Tâm, Ông Anan mỗi mỗi cứ lấy chỗ “Có đắc” mà tự trói, còn Thế Tôn thì
thảy thảy đều lấy chỗ “Không đắc” mà quét sạch. Kinh Lăng Già nói: “Có
tướng để đắc là Thức, không có tướng để đắc là Trí”. Đây thật là Đốn Môn
liền chứng Bồ Đề vậy.
Đức Nhị Tổ
Thần Quang [Tổ Huệ Khả. Người đời Bắc Ngụy, xứ Lạc Dương. Lúc Đạt Ma đại
sư ở núi Tung Sơn, tại Chùa Thiếu Lâm, đức Thần Quang cầu đạo rất mực. Đến
đêm hôm trời tuyết, chặt lìa cánh tay trái. Đức Đạt Ma cảm chịu. Cải đổi
tên là Huệ Khả. Sau, thọ y bát của Tổ Đạt Ma, nối pháp của thiền tông, làm
Tổ Thứ Hai], chặt tay trước mặt Sơ Tổ Đạt Ma cầu xin pháp môn An Tâm.
Tổ nói: “Đem
cái tâm lại đây ta an cho!”
Ngài Thần
Quang thưa: “Tìm hết tâm rồi, rốt là không thể đắc!” [Mích tâm liễu bất
khả đắc]
Sơ Tổ nói: “Ta
an tâm cho ông rồi đó”.
Nếu Ông Anan
có thể tin được bảy chỗ trưng bày tâm đều bất khả đắc, thì y bát đâu có
riêng truyền cho Ông Ca Diếp!
Kinh: Phật bảo
Ông Anan: “Như lời ông nói: ở giảng đường, do cửa mở rộng nên ông thấy
được vườn rừng ở xa. Liệu có chúng sanh nào ở trong giảng đường, không
thấy Như Lai mà lại thấy được ngoài giảng đường không?”
Ông Anan thưa:
“Thưa Thế Tôn, ở trong giảng đường không thấy Như Lai mà lại thấy được
rừng suối bên ngoài, thật không có lẽ đó”.
Phật dạy:
“Anan, ông cũng như thế. Cái tâm linh của ông, hết thảy đều rõ biết. Nếu
hiện nay cái tâm rõ biết đó của ông thật ở trong thân, thì trước hết nó
phải rõ biết trong thân thể. Vậy có chúng sanh nào, trước thấy bên trong
thân rồi sau mới thấy những vật ở bên ngoài không? Dầu không thấy được
tim, gan, tì, vị nhưng móng tay mọc, tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy,
đúng ra phải rõ, sao lại không biết? Đã không biết bên trong, làm sao biết
được bên ngoài? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay rõ biết đó trụ ở
thân, không có lẽ nào như vậy”.
Thông rằng: Do
mắt thấy mà tâm biết, chẳng rời căn trần, do bởi phía trong mà biết phía
ngoài, đó là cái thấy bình thường thế tục. Đức Thế Tôn bèn ở nơi cái thấy
thường tình mà bác bỏ rằng “Đã không biết phía trong làm sao ở phía
trong?” Tuy người có Trí cũng phải khuất phục bởi lý luận này. Thật ra,
tim gan tì vị, không gì mà chẳng biết rõ. Móng tóc gân mạch, không gì mà
chẳng hay. Nếu không hay biết, thì hóa ra chỉ là một vật ù lì vậy sao?
Ngài Phó Đại
Sĩ [Họ Phó, tên Hấp, tự Huyền Phong, là đạo sĩ để tóc. Lấy họ mà gọi là
Phó Đại Sĩ; còn theo xứ mà gọi là Đông Dương Đại Sĩ. Tự ngài xưng là Thiện
Huệ Đại Sĩ.] có bài kệ:
“Đêm đêm ôm Phật ngủ
Sáng sáng cùng Phật dậy
Đứng ngồi vẫn theo nhau
Nói nín đồng vừa vặn
Mảy tơ chẳng lìa nhau
Tương tự như hình, bóng
Muốn biết chỗ Phật ở
Lời nói âm thanh đó”.
(Dạ dạ bảo Phật miên
Triêu triêu hoàn cọng khởi
Khởi tọa trấn tương tùy
Ngữ mặc đồng cư chỉ
Túng hào bất tương ly
Như thân ảnh tương tự
Dục thức Phật khứ xứ
Chỉ giá ngữ thanh thị).
Theo lời nói
này đây, thì nói rằng “Cái tâm rõ biết ở trong Thân” cũng chẳng phải là
không đúng!
Ngài Vân Môn
[Tổ Văn Yến thiền sư, tại núi Vân Môn, nối kế Tổ Tuyết Phong.
Sắc phong các hiệu Khuôn Chơn thiền sư, Đại Từ Vân Khuôn Chơn Hoằng Minh
thiền sư. Để lại nhiều thoại đầu công án như Vân Môn Nhất Bửu, Vân Môn Tam
Cú, Vân Môn Thể Lộ Kim Phong... ] nói rằng: “Luận Bảo Tạng nói
“Trong trời đất, giữa vũ trụ, có một vật báu, ẩn tại Non Hình (thân thể).
Cầm lồng đèn hướng vào trong Phật điện, đem ba cửa đến để trên lồng đèn,
để làm gì?”
Ngài tự thay
thế mà nói: “Theo vật, ý dời”.
Lại nói: “Mây
nổi sấm động”.
Ngài Tuyết Đậu
[Một vị cao tăng. Tuyết Đậu là tên núi. Được ngài Vân Môn truyền pháp. Tại
núi này còn có Thường Thông thiền sư, Minh Giác đại sư đều lấy tên núi làm
hiệu] tụng rằng:
Xem đi,
Bến cổ ai kia
nắm cần câu
Mây trùng
trùng, nước mênh mông
Trăng sáng,
bông lau, anh tự thấy!.
Đoạn công án
này nói cái Năng Tri Tỏ Biết và cái Bổn Giác Tròn Sáng rất dễ lẫn lộn,
cũng tương tợ như trăng sáng và bông lau, nên cần soi xét phân biệt. Nếu
soi xét phân biệt ra được, thì không chỉ lồng đèn và lộ trụ [Lộ trụ: cây
cột trước chùa. Là một công án của Tổ Vân Môn: Cổ Phật với cây lộ trụ
tương giao, đó là cơ thứ mấy?], mà còn đốn triệt được Tâm Tông của Tổ Vân
Môn, và cái vật báu trong thân cũng cùng với Tăng Triệu [Tăng Triệu: người
viết bộ Bảo Tạng Luận còn gọi là Triệu Luận] khế hợp.. Đâu phải là bọn ma
mị tinh hồn giỡn cợt tầm thường có thể mượn lời mà nói được.
III. CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN
Kinh: Ông Anan
cúi đầu bạch Phật: “Tôi nghe lời Phật dạy như vầy, mới rõ tâm tôi thật ở
ngoài thân. Tại sao như thế? Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải
chiếu trong phòng, sau mới do cửa chiếu sáng ngoài sân. Tất cả chúng sanh
không thấy bên trong thân mà chỉ thấy bên ngoài, cũng như ngọn đèn, để ở
ngoài phòng, không thể chiếu sáng trong phòng. Nghĩa ấy rõ ràng, chắc là
không lầm, chưa biết có đúng với liễu nghĩa của Phật hay không?”
Phật bảo Ông
Anan: “Vừa rồi, các tỳ kheo theo Ta đi khất thực trong thành Thất La
Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Ta đã thọ trai rồi, giờ ông hãy xem trong
chúng tỳ kheo, khi một người ăn thì các người khác có no không?”
Ông Anan bạch
Phật: “Thưa Thế Tôn, không. Vì rằng các tỳ kheo tuy là A La Hán nhưng thân
xác khác nhau, làm sao một người ăn mà các vị kia no được”.
Phật bảo Ông
Anan: “Nếu cái tâm tỏ hiểu, thấy biết của ông thật riêng ở ngoài thân, thì
thân và tâm ở ngoài nhau, chẳng dính líu gì với nhau. Vậy thì cái gì tâm
biết thì thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết. Nay
Ta đưa tay nhu nhuyễn lên cho ông xem, khi mắt ông thấy thì tâm ông có
phân biệt không?”
Ông Anan bạch
Phật: “Thưa Thế Tôn, đúng vậy”.
Phật bảo Ông
Anan: “Nếu thân và tâm cùng hay biết một lúc thì làm sao tâm lại ở ngoài
thân? Vậy, phải biết rằng ông nói cái tâm rõ biết trụ ở ngoài thân, thật
không thể có điều ấy”.
Thông rằng:
Chỗ thấy của Ông Anan chưa chân thật nên không tránh khỏi việc theo lời mà
sanh ra sự hiểu biết. Cái tri giải sanh ra theo lời nói ấy chính là chỗ ở
của thức tình. Đức Thế Tôn cốt nhổ dứt cái thức căn nên mỗi mỗi đều chặt
bỏ, khiến cho Ông Anan không có chỗ để bám víu. Đấy mới thật là giống như
quốc vương đi dẹp giặc, biết chỗ của giặc mà diệt trừ.
Ông Anan cho
rằng cái tâm ở ngoài thân, là đúng với chỗ liễu nghĩa của Phật, chẳng phải
là không có kiến thức đâu. Bởi vì cái tâm ấy, ngầm ẩn nơi Trời thì là
Trời, ngầm ẩn nơi Đất bèn là Đất, cùng khắp vũ trụ, rộng trải nhiều đời,
chứ đâu phải ràng buộc mãi trong một thân này. Thế nên ông mới nói “Tỉnh
ngộ biết cái tâm tôi thật ở ngoài thân”. Lại thêm “Nghĩa ấy rõ ràng, chắc
là không lầm”.
Đức Thế Tôn
lấy ví dụ “Người khác ăn tất chẳng phải ta no”, để chỉ rằng nếu cái tâm ở
ngoài thì có quan hệ gì đến thân ta. Cái thân mạng là hình tướng, nên ăn
chẳng thể tương thông, làm sao người này ăn người kia no được. Còn cái tri
giác là thần nhiệm, trong ngoài nào có trở ngại được. Chỉ vì Ông Anan chấp
chặt “Tâm ở ngoài”, như một vật sáng, chỉ chiếu bên ngoài mà không thể
chiếu bên trong. Thế thì ngoài thân là tâm, còn trong thân chẳng phải là
tâm sao! Nếu tâm ở ngoài thân, thì thân không thể biết : như người khác
ăn, ta chẳng thấy no. Nhưng mắt thấy cái gì, tâm liền phân biệt ngay cái
ấy, thế thì cái tâm ấy lại chẳng thường ở trong ư? Cho nên nói ở ngoài là
sai lầm.
Ngài Tào Sơn
[Bổn Tịch thiền sư, kế pháp Tổ Động Sơn Lương Giới thiền sư. Phái Tào
Động. Tào Sơn là tên gọi theo chỗ ở] một hôm nghe tiếng chuông, bèn nói:
“Ối chà, ối chà!”
Có nhà sư hỏi:
“Hòa Thượng làm sao thế?”
Ngài bảo:
“Đánh trúng tâm ta”.
Nhà sư không
có chỗ đối lại.
Ngài Ngũ Tổ
Giới nói thay rằng: “Làm tâm của thằng giặc hoảng hồn!” [Tác tặc nhân tâm
hư]
Ngài Phó Đại
Sĩ có bài kệ:
“Xóm làng các Phật, tại thế giới
Bốn biển núi sông, sanh đầy khắp
Phật với chúng sanh đồng một Thể
Chúng sanh là giả danh của Phật
Như cần thấy Phật: xem ba quận
Rừng ruộng, nhà vườn, ở khắp nơi
Hoặc ở không trung bay quanh quẩn
Hoặc cho sông núi tiếng vang lừng
Hoặc kết bạn bè đi khắp xứ
Hoặc lại cô đơn bước một mình
Hoặc khiến ban ngày xuôi ngược chạy
Hoặc khiến ban đêm đi gác canh
Hoặc đen, hoặc đỏ, rồi hoặc trắng
Hoặc tía, hoặc hồng với vàng, xanh
Hoặc to hoặc nhỏ mà mới dưỡng
Hoặc trẻ hoặc già lúc xưa sanh
Hoặc có cây đàn trên lông cánh
Hoặc mang đèn đóm ở thắt lưng
Hoặc giữa hư không bay loạn xạ
Hoặc sanh cây cỏ mặc tung hoành
Hoặc vô ngôn hạnh mà ra cửa
Hoặc vào hang đất tạm ký sanh
Hoặc xoi lỗ cây làm quê quán
Hoặc kết cỏ cây làm thành, ổ
Hoặc dệt võng lưới làm đường thôn
Hoặc nằm đất đá làm thềm ốc
Chư Phật Bồ Tát đều như thế
Cái ấy tên là Xá Vệ thành”.
Nơi này mà khế
chứng [Hợp tự biết thực tình] thì nói cái tâm Giác Liễu Năng Tri trụ ở
ngoài thân cũng không phải là chẳng trúng vậy! |