PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM
MỤC NĂM: CHỈ RA CÁI VỌNG THẤY
I. XIN CHỈ DẠY TÁNH THẤY CHẲNG DO THẤY
Kinh: Ông Anan
bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như Đức Thế Tôn vì chúng tôi mà chỉ dạy về
Nhân Duyên, Tự Nhiên, các tướng Hòa Hợp và Chẳng Hòa Hợp, tâm tôi còn chưa
khai ngộ. Nay lại nghe Phật dạy: Tánh Thấy chẳng do thấy, thì lại càng
thêm mê muội.
“Cúi mong Phật
thương xót, bố thí cho con mắt Đại Huệ, chỉ bày cho chúng tôi cái Giác Tâm
sáng sạch”.
Nói vậy xong,
khóc lóc cúi lạy, vâng nghe lời dạy.
Khi ấy, Thế
Tôn thương xót Ông Anan và cả đại chúng, sắp muốn hiển bày pháp Đại Tổng
Trì (Đà La Ni), các Tam Ma Đề là Con Đường Vi Diệu của sự tu hành, nên mới
bảo Ông Anan rằng: “Ông tuy có trí nhớ mạnh mẽ, nhưng chỉ thêm phần đa
văn, chứ nơi pháp Xa Ma Tha quán chiếu vi mật, tâm còn chưa rõ. Nay ông
hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt chỉ bày, cũng là khiến cho những kẻ
hữu lậu mai sau được quả Bồ Đề”.
Thông rằng:
Tịch mà thường Chiếu, cho nên có thể soi rõ Kiến Tinh (cái Thấy) là hư
vọng. Chiếu mà thường Tịch cho nên biết: “Tánh Thấy chẳng phải là cái thấy
(Kiến phi thị kiến)”. Chỗ này mà hàng ngày chẳng viên dung ba Pháp Quán
[Không, Giả và Trung] thì chưa dễ hiểu nổi.
Sư Thạch Môn
Uẩn Huy làm vườn ở chỗ Tổ Thanh Lâm.
Một ngày kia
đang đứng hầu, Tổ nói: “Hôm nay ông làm gì?”
Đáp: “Trồng
rau”.
Tổ Lâm nói:
“Khắp pháp giới, đó là thân Phật, ông hướng chỗ nào trồng”.
Sư đáp: “Cày
vàng chẳng động đất, mầm linh tại chỗ sanh”.
Tổ Lâm hân
hoan.
Hôm sau, Tổ
Thanh Lâm vào vườn, gọi: “Uẩn Xà Lê!”
Sư Uẩn lên
tiếng: “Dạ”.
Tổ Lâm rằng:
“Trồng thêm cây không ảnh, để lại cho người sau xem”.
Sư Uẩn nói:
“Nếu là cây không ảnh, há để chịu trồng ư?”
Tổ Lâm nói:
“Không chịu trồng thì để đó! Ông từng thấy nhánh lá nó không?”
Đáp: “Chẳng
từng thấy”.
Tổ Lâm: “Đã
chẳng từng thấy, sao biết nó chẳng chịu trồng?”
Đáp: “Chỉ vì
nó chẳng từng thấy, cho nên nó chẳng chịu trồng”.
Tổ Lâm rằng:
“Đúng vậy, đúng vậy”.
Nếu ngộ được
Tánh Thấy lìa mọi Tướng Thấy, thì tất cả Nhân Duyên, Tự Nhiên, Hòa Hợp do
cái Thấy lập ra từ đâu mà sanh khởi?
Thiền sư Trí
Cự ban đầu hỏi Tổ Tiên Tào Sơn rằng : “Người xưa nâng giữ cho người bên
ngoài mé, kẻ học nhân này làm sao lãnh hội?”
Tổ Sơn đáp:
“Lui bước liền tựu thành mình, muôn ngàn chẳng mất một!”
Thiền sư Trí
Cự, ngay dưới lời, liền tiêu tan hết kiến giải, mới từ biệt đi. Sau đó,
tham học khắp nơi.
Một hôm, đang
xem kinh thì có vị sư hỏi: “Tâm của Thiền Tăng chẳng treo nhẫn đến một chữ
cái, đâu thể học nhiều?”
Ngài đáp: “Văn
tự thì khác nhau, muôn pháp thể vốn không. Mê thì câu câu đều là ghẻ lở.
Ngộ thì lời lời đều là Bát Nhã. Ví không lấy, bỏ, nào hại Vẹn Tròn kia.
Cho nên nhớ
nhiều, đa văn mà được như Ngài Trí Cự thì cái gì mà chẳng có thể?
II. CHỈ RA HAI THỨ VỌNG THẤY
Kinh: “Anan,
tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai cái Vọng Thấy điên
đảo phân biệt. Ngay nơi Tâm Tánh mà phát sanh, ngay theo nghiệp mà xoay
vần. Thế nào là hai cái Vọng Thấy? Một là, cái Vọng Thấy Biệt Nghiệp của
chúng sanh. Hai là, cái Vọng Thấy Đồng Phận của chúng sanh.
Thông rằng:
Sắp nói rõ cái Kiến Tinh (cái Thấy) là hư vọng, nên dùng hai cái Vọng Kiến
Biệt Nghiệp và Đồng Phận mà chỉ bày. Đã rõ Biệt Nghiệp là hư vọng thì cái
hư vọng của Đồng Phận có thể suy ra vậy. Đã biết Đồng Phận là hư vọng, thì
có thể suy ra cái hư vọng của Kiến Tinh. Biết Kiến Tinh là hư vọng thì rõ
ngay Tánh Thấy chẳng hư vọng. Hiểu suốt chỗ này thì Tánh Thấy chẳng phải
là cái Thấy, có thể tự suốt nhiên không nghi ngờ gì nữa.
Thấy, Nghe,
Hay, Biết cũng cùng là hư vọng điên đảo, vậy sao chỉ biện rõ ở cái Thấy mà
thôi? Ở đoạn trước đã nói, “Khiến cho ông bị trôi lăn là lỗi ở tâm và con
mắt”. Cho nên trôi nổi bôn ba theo sắc, chỉ có cái Thấy là khó trị nhất.
Ông Anan bị Cô
Ma Đăng Già mê hoặc, đó chẳng phải Cô Ma Đăng Già mê hoặc Ông Anan, mà
chính là do cái Vọng Thấy của Anan làm nên bệnh. Huống gì cái Vọng Thấy
lưu chuyển này lại thuộc về sanh diệt, mà cái Thấy Chân Thật (Chơn Kiến)
thì chẳng thể trả về đâu, lặng trong thường trụ. Cho nên lấy cái Thấy của
người mù mà thấy sắc, thì sắc chẳng đáng ưa! Lấy cái Thấy của thấy tối mà
thấy ánh sáng, tức là cái Thấy vốn chẳng có sáng, có tối. Đạt thẳng đến
cái gốc nguồn của mọi cái Thấy, thì rõ suốt cái Tánh Thấy vốn không có cái
Thấy nào đến được, thế thì còn đâu cái lầm lỗi trôi lăn?
Xưa, Tổ Quy
Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn : “Chúng sanh trong đại địa, cái nghiệp thức mang
mang, vốn không có gốc rễ, căn cứ. Ông làm sao biết kia có hay không có?”
Ngưỡng Sơn
đáp: “Huệ Tịch này có chỗ nghiệm xét”.
Khi ấy, có một
vị tăng đi ngang trước mặt, Ngài Ngưỡng Sơn gọi: “Thầy Xà Lê!”
Vị tăng quay
đầu lại.
Ngưỡng Sơn
nói: “Thưa Hòa Thượng, cái này chính là nghiệp thức mang mang, không có
gốc rễ, căn cứ”.
Tổ Quy Sơn
nói: “Đây thật là một giọt sữa sư tử, làm tiêu sáu đấu sữa lừa!”
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Một gọi, quày đầu biết ta không?
Lưới trăng thưa thớt lại thành cong (như móc câu)
Con quí ngàn vàng vừa lưu lạc
Mờ
mịt đường cùng chắc thấy sầu”.
Một tắc này
đây, gọi là Vọng Kiến Biệt Nghiệp thì được đó!
Ông Thượng Thơ
Trần Tháo đang cùng những bạn đồng liêu ở trên lầu thì thấy có vài nhà sư
đi tới.
Có một vị quan
nói: “Những người đi tới đó đều là tăng hành cước”.
Trần Tháo nói:
“Chẳng phải đâu”.
Vị quan nói
rằng: “Sao biết chẳng phải?”
Tháo nói: “Chờ
tới rồi thẩm nghiệm xem”.
Chốc lát, các
vị sư đi tới trước lầu. Ông Tháo đột nhiên kêu lớn: “Thượng Tọa!”
Các nhà sư đều
ngẩng đầu lên.
Ông liền nói
với các vị quan rằng: “Chẳng tin đạo”.
Các quan ngơ
ngác.
Ngài Thiên
Đồng nêu lên rằng: “Trần Thượng Thơ ngay mặt mà nêu rõ, dối Ngài Trường Lô
một điểm chẳng được!”
Tức một tắc
này, gọi là Vọng Kiến Đồng Phận thì được lắm ! Nhưng nếu trong các vị sư,
có vị khi nghe la mà chẳng quay đầu, ắt khiến Ngài Ngưỡng Sơn phải nhổ
lưỡi ra và Ông Trần Tháo phải xin lỗi đấy.
Kinh: “Thế nào
là Vọng Kiến Biệt Nghiệp?
“Anan, như
người thế gian con mắt bị nhặm đỏ thì ban đêm nhìn ngọn đèn thấy có riêng
một bóng tròn năm màu bao phủ. Ý ông thế nào? Cái bóng sáng tròn hiện ra
nơi ngọn đèn đó là sắc của ngọn đèn hay sắc của cái Thấy?
“Anan, nếu như
đó là cái sắc của ngọn đèn thì sao những người không nhặm mắt lại không có
thấy, mà chỉ có người nhặm mắt mới thấy cái bóng tròn? Nếu đó là sắc của
cái Thấy thì cái Thấy đã thành sắc rồi, vậy người nhặm mắt thấy bóng tròn
kia gọi là cái gì?
“Lại nữa,
Anan, nếu cái bóng tròn ấy rời đèn mà riêng có, thì lẽ ra các bức bình
phong, màn, bàn, ghế, cũng phải có bóng tròn. Còn nếu rời cái Thấy mà
riêng có, thì lẽ ra không thể thấy được, cớ sao người nhặm mắt lại thấy
cái bóng tròn ấy?
“Vậy nên biết
rằng : Sắc thật ở nơi đèn, cái Thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cái bóng
tròn và cái thấy có bóng tròn đều là bệnh nhặm. Cái Thấy Được Bệnh Nhặm
thì vốn chẳng phải là bệnh.
“Rốt cuộc,
không nên nói rằng cái bóng tròn ấy là ngọn đèn hay là cái Thấy, vì ở
trong đó, cái bóng tròn không phải từ ngọn đèn, cũng không phải từ cái
Thấy. Cũng như mặt trăng thứ hai, chẳng phải mặt trăng thật, cũng chẳng
phải là cái bóng của mặt trăng. Tại sao thế? Bởi thấy cái mặt trăng thứ
hai là do dụi mắt mà có. Cho nên những người Trí không nên đi tìm cái căn
nguyên của mặt trăng do dụi mắt mà thành là hình tướng hay chẳng phải hình
tướng, là lìa cái Thấy hay chẳng phải cái Thấy. Bóng tròn cũng như thế :
nó do nhặm mắt mà thành. Muốn gọi cái gì là ngọn đèn hay cái gì là cái
Thấy cũng còn chẳng được, huống hồ phân biệt cái bóng tròn là không phải
ngọn đèn hay không phải là cái Thấy?
Thông rằng :
Sắp chỉ rõ rằng Tánh Thấy chẳng phải là cái Thấy, nên lấy mắt nhặm làm ví
dụ. Cái thấy-bệnh của mắt nhặm thì vọng thấy có bóng tròn. Người không
nhặm làm sao thấy có bóng tròn? Nhặm mắt đó là bệnh, nhưng cái Thấy Được
Bệnh Nhặm thì chưa từng bệnh vậy. Đó là để so sánh với cái Thấy (Kiến
Tinh) là hư vọng, nên vọng thấy có Tâm Cảnh. Cái Tánh Thấy thì không hư
vọng, nên không thấy có Tâm Cảnh. Vậy thì cái Thấy là hư vọng chứ Tánh
Thấy chưa từng hư vọng vậy. Nếu ở nơi chỗ vọng thấy có Tâm Cảnh lại sanh
khởi thêm cái thấy về Nhân Duyên, Tự Nhiên, Thị Phi thì cũng giống như
người nhặm mắt thấy cái bóng tròn rồi truy tìm cái căn nguyên phát sanh
của nó!
Cho cái bóng
lòa ấy là ngọn đèn, là cái Thấy tức nói cái bóng tròn do ngọn đèn, do cái
Thấy mà có: đó là nghĩa Nhân Duyên.
Cho cái bóng
lòa ấy chẳng phải ngọn đèn hay cái Thấy, là nói cái bóng tròn lìa ngọn
đèn, lìa cái Thấy mà riêng có: đó là nghĩa Tự Nhiên.
Đã chẳng phải
là Nhân Duyên, lại chẳng phải là Tự Nhiên, thời chỉ do mắt nhặm mà thành
có bóng tròn vậy.
Cái nhặm mắt
thấy có bóng tròn, và cái dụi mắt thấy mặt trăng thứ hai, đồng là một cái
bệnh-thấy. Nếu suy xét cái chỗ phát sinh của mặt trăng thứ hai này là hình
tướng hay là cái Thấy, lìa hình tướng hay lìa cái Thấy thì quả là mê muội
thay! Cũng như nói cái bóng tròn là ngọn đèn, là cái Thấy, hay chẳng phải
ngọn đèn, chẳng phải cái Thấy, thì gọi là người Trí được sao?
Ở hai trường
hợp này, biết rõ là hư vọng, suy cứu cái nghĩa Nhân Duyên, Tự Nhiên còn
không thể được huống gì trong cái Bổn Giác Minh Tâm chẳng phải là nhặm mắt
hay dụi mắt các thứ, vốn không có tướng tròn hay mặt trăng thứ hai thì ở
chỗ nào mà vọng lập ba thứ hý luận Nhân Duyên, Tự Nhiên!
Cho nên, lấy
Nhân Duyên, Tự Nhiên, Hòa Hợp mà luận về cái Thấy, cũng còn trong bệnh
nhặm mắt vậy thôi, người Trí không thế, vì đó là Biệt Nghiệp Vọng Kiến.
Tổ Quy Sơn
thấy lửa đồng [Dã hỏa], hỏi Ngài Đạo Ngô: “Có thấy lửa
không?”
Đạo Ngô nói:
“Dạ, thấy”.
Tổ Sơn: “Từ
đâu khởi ra?”
Đạo Ngô: “Dẹp
hết sự đi, đứng, nằm, ngồi xin thầy riêng đưa một câu hỏi xem?”
Tổ Quy làm
thinh.
Tổ Phật Giám
nêu ra rằng:
Rực rực lửa đồng
Người người đều thấy
Chỉ có Đạo Ngô
Thấy ra khắc hẳn.
Tổ Hương Lâm
Viễn đang giãy cỏ, có vị tăng hỏi: “Hãy xem nhà người đời mất lửa”.
Tổ Viễn nói
rằng: “Lửa trong chỗ nào?”
Vị tăng nói:
“Chẳng có thấy sao?”
Tổ Viễn nói
rằng: “Chẳng thấy”.
Vị tăng nói:
“Cái lão già mù này”.
Khi ấy, chúng
đều nói: “Viễn Thượng Tọa thua rồi!”
Sau Ngài Minh
Giáo Khoan nghe chuyện, than rằng: “Phải là huynh Viễn ta mới được”.
Cái Thấy này
xa khác lắm thay, chẳng rời Chánh Vị [Tự Tâm thường trụ]. Với cái Kiến
Tinh của thế gian giống như bệnh nhặm mắt, làm sao sánh được?
Lại Tổ Quy
Sơn, hỏi Ngài Đạo Ngô: “Đi đâu về đó?”
Ngài Đạo Ngô
đáp: “Thăm bệnh về”.
Tổ Sơn: “Bao
nhiêu người bệnh?”
Đáp: “Có người
bệnh, có người không bệnh”.
Tổ Sơn: “Người
không bệnh có phải là Trí Đầu Đà?”
Tổ Ngô nói:
“Nói được cũng chẳng ăn nhằm gì”.
Tổ Thiên Đồng
ở chỗ “Chẳng ăn nhằm [Giao thiệp] gì”, tụng rằng:
“Thuốc diệu nào từng qua miệng
Thần y không thể cầm tay
Nhược Tồn [Nhược Tồn : nếu còn.. ] nó vốn chẳng phải không
Chí Hư [Chí Hư : rỗng không.. ] nó vốn chẳng phải có
Chẳng Diệt mà sanh, chẳng mất mà thọ
Siêu hết trước Phật Oai Âm
Một mình bước sau Không Kiếp
An
bình thì trời che đất chở
Vận chuyển thì thỏ chạy quạ bay”.
(Diệu dược hà tằng quá khẩu
Thần y mạc năng trốc thủ
Nhược Tồn dã cừ bổn phi vô
Chí Hư dã cừ bổn phi hữu
Bất Diệt nhi sanh, bất vong nhi thọ
Toàn siêu Oai Âm chi tiền
Độc bộ Kiếp Không chi hậu
Thành bình dã thiên cái địa kình
Vận chuyển dã ô phi thố tẩu)
Tắc này ở
trong Chân Kiến mà nhổ sạch gốc bệnh. Bệnh với không bệnh cũng chẳng có
liên quan gì, huống là phân biệt nhặm với chẳng nhặm!
Kinh: “Thế nào
là Vọng Kiến Đồng Phận?
“Anan, cõi
Diêm Phù Đề này, ngoài nước biển cả ra, trong đó đất liền có ba ngàn châu.
Châu lớn chính giữa, bao quát từ Đông sang Tây có đến hai ngàn ba trăm
nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển, trong đó có châu đến hai
trăm, ba trăm nước hoặc có mười, hai mươi cho đến ba mươi, bốn mươi, năm
mươi nước.
“Anan, nếu ở
trong đó có một châu nhỏ chỉ có hai nước mà riêng người trong một nước
đồng cảm ác duyên, thì chúng sanh trong nước đó thấy tất cả những cảnh
giới không tốt. Hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến
thấy nhiều ác tướng khác như Vựng, Thích, Bội, Quyết, Tuệ, Bột, Phi, Lưu,
Phụ Nhĩ, Hồng Nghê. Chỉ nước đó thấy, còn chúng sanh nước bên kia thì
không thấy mà cũng không nghe.
Thông rằng: Bộ
Hiệp Luận nói “Vựng là khí chung quanh mặt trời. Thích là điều xấu ở mặt
trời, mặt trăng. Bội, Quyết: khí xấu gần mặt trời. Tuệ là sao chổi. Bột :
một loại sao chổi. Phi là phi tinh, một loại sao từ dưới bay lên. Lưu là
lưu tinh, một loại sao từ trên rơi xuống. Phụ là phụ khí, khí giống như
cõng mặt trời. Nhĩ là nhĩ khí, khí bên cạnh mặt trời như cái tai. Hồng
Nghê là cầu vồng, cái sáng gọi là Hồng, cái tối gọi là Nghê”.
Sách Xuân Thu
Truyện chép : năm Thứ Sáu đời vua Ai Công, nước Sở có điềm mây như con quạ
đỏ ôm lấy mặt trời mà bay trong ba ngày. Vua sai hỏi Châu Thái Sử, Thái Sử
nói: “Ứng vào thân vua”. Ông Đỗ Dự bàn thêm : “Mặt trời là vua của con
người, yêu khí ôm lấy thì ứng vào vua. Chỉ có nước Sở thấy, thì vua nước
khác không hề gì!”
Đời Lỗ Châu
Công, năm Thứ Hai Mươi Sáu, tháng Một [Mười Một]nước Tề có sao chổi. Tề
Hầu sai cầu đảo.
Ông Án Tử
thưa: “Vô ích, làm vậy là mê tín. Đạo trời chẳng thay đổi, đâu có hai mệnh
thì cầu đảo làm gì? Đạo trời có sao chổi là để trừ uế khí. Nếu vua không
có uế đức thì cầu đảo làm gì? Còn nếu có uế đức thì cầu đảo sao được?” Ông
Đỗ Dự bàn thêm : “Chỉ có nước Tề thấy, nước Lỗ không thấy”.
Hai đoạn trên
để nghiệm câu trong kinh: “Có một châu chỉ có hai nước, mà riêng người
trong một nước đồng cảm ác duyên thì chúng sanh trong nước đó thấy những
cảnh giới không tốt”. Thật rõ ràng vậy.
Cảm ứng ác
duyên có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp thì không thể tránh.
Bất định nghiệp thì có thể thay đổi.
Ví dụ, như Tổ
đời Hai Mươi Ba, là Ngài Hạc Lặc Na [Haklena. Lặc Na: âm tiếng Phạn. Hạc:
âm tiếng Hán; tôn giả sau khi sanh ra, có bầy hạc cảm mến bay theo nên gọi
vậy] tôn giả, biết trước vị Tổ đời Hai Mươi Bốn là Sư Tử tôn giả sẽ gặp
nạn. Một hôm, bỗng nhiên Tổ chỉ về hướng Đông Bắc, hỏi rằng: “Đó là khí
tượng gì?”
Tổ Sư Tử thưa:
“Tôi thấy khí như cái mống trắng khắp cả trời đất, lại có năm luồng hắc
khí chạy ngang trong đó”.
Tổ nói: “Điềm
đó thế nào?”
Ngài Sư Tử
thưa: “Tôi không biết được”.
Tổ dạy: “Sau
khi tôi mất năm mươi năm, nước Bắc Thiên Trúc sẽ có nạn nổi lên, chạm đến
thân ông”.
Sau này, Ngài
Sư Tử tôn giả quả bị vua nước Kết Tân giết. Cánh tay phải của vua tự nhiên
rụng xuống đất, bảy ngày sau thì chết. Thái Tử Quang Thủ than rằng: “Vua
cha ta cớ sao tự mình chiêu lấy tai họa”. Bấy giờ có vị Tiên núi Bạch
Tượng rõ sâu nhân quả nên rộng nói cho Thái Tử nghe việc đời trước, mở
thoát lưới ngờ. Đây là chỗ gọi là định nghiệp không thể tránh được vậy.
Vua Tống Cảnh
Công bị sao Hỏa Tinh nên lo sợ, mời Ông Tử Vi vào hỏi.
Ông Tử Vi nói:
“Bị sao Hỏa Tinh là điềm trời phạt, họa ứng vào thân bệ hạ, nhưng có thể
dời qua quan Tể Tướng”.
Cảnh Công bảo:
“Tể tướng để trụ nước, nếu dời qua mà chết thời không nên. Thôi, để quả
nhân xin tự gánh chịu vậy”.
Ông Tử Vi nói:
“Có thể dời qua nhân dân”.
Vua đáp: “Dân
chết rồi thì làm vua với ai. Thôi, để trẫm chết một mình”.
Ông Tử Vi
thưa: “Có thể dời vào năm”.
Vua đáp: “Năm
đói kém thì dân chết đói. Làm vua mà muốn giết dân để tự mình sống thì còn
ai xem ta là vua nữa. Âu cũng là mạng đã hết của quả nhân vậy. Khanh chẳng
nên nhiều lời”.
Ông Tử Vi vội
vàng quỳ xuống lạy mà tâu rằng: “Hạ thần xin chúc mừng bệ hạ. Trời ở trên
cao mà nghe dưới thấp. Vua đã có được ba lần lời nói của người nhân, trời
ắt thưởng vua ba lần. Đêm nay chắc sao sẽ dời chỗ, vua sống thêm hai mươi
mốt năm”.
Cảnh Công nói:
“Khanh làm sao biết?”
Ông Tử Vi
thưa: “Vua có ba điều thiện thì được thưởng ba lần, do đó sao dời ba lần.
Mỗi lần bảy năm, ba lần là hai mươi mốt năm. Nên tuổi thọ dài thêm hai
mươi mốt năm. Nếu sai, hạ thần xin chịu chết”.
Vua ưng chịu.
Đêm đó, sao
dời ba lần như Ông Tử Vi đã nói. Đây là chỗ gọi là bất định nghiệp có thể
chuyển dời vậy.
Tóm lại, định
nghiệp và bất định nghiệp ở nơi Tự Tánh nào có thêm bớt, cũng là Như
Huyễn. Chấp Huyễn mà cho là thật, thì chỉ vì vọng thấy vậy thôi. |