PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM
MỤC SÁU: CHỈ RÕ Ý NGHĨA TÁNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ
CÁI THẤY, VIÊN MÃN BỒ ĐỀ.
Kinh: “Anan, nay Ta đem hai việc ấy lui tới, kết hợp mà chỉ rõ.
“Anan, như cái Vọng Kiến Biệt Nghiệp của chúng sanh kia, thấy nơi ngọn đèn
hiện ra bóng tròn, tuy giống như tiền cảnh mà thật ra là do bệnh nhặm của
người ấy tạo thành. Nhặm thì mắt lòa, chẳng phải sắc tạo ra. Nhưng cái
Thấy Được Bệnh Lòa vẫn không có lỗi lầm gì về sự thấy cả.
“So sánh với hiện giờ, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các
chúng sanh, đều là do cái Bệnh Thấy từ vô thủy tạo thành. Cái Thấy và Cái
Được Thấy hình như hiện ra tiền cảnh, thật ra vốn chỉ là cái Bệnh Lòa,
thấy có năng kiến và sở kiến ở trong cái Giác Minh mà thôi.
“Những sự Thấy, Biết đều là bệnh nhặm, còn cái Bổn Giác Minh Tâm thấu suốt
các duyên vốn không có bệnh nhặm. Cái Biết và Cái Được Biết đều là bệnh
nhặm, còn cái Bổn Giác thì không ở trong bệnh nhặm. Đó là cái Tánh Thấy
Hằng Thấy, làm sao gọi được là sự Thấy, Nghe, Hay, Biết?
“Vậy nên, nay ông nhìn thấy Ta, nhìn thấy ông, cùng mười loại chúng sanh
trong thế gian đều là cái Thấy Nhặm, mà chẳng phải là cái Thấy Chân Thật
thấy được bệnh nhặm. Cái Tánh Thấy Chân Thật kia vốn chẳng hề nhặm, cho
nên không gọi là Thấy nữa.
Thông rằng: Lấy cái bóng tròn mà so với Tiền Cảnh, lấy mắt nhặm mà so với
cái Bệnh Thấy, lấy cái Thấy Lòa mà so với cái Giác Minh [A Lại Da Thức còn
có nhiễm ô], lấy cái Thấy Được Bệnh Nhặm so với Tánh Bản Giác [A Lại Da
Thức không còn nhiễm ô, gọi là Bạch Tịnh Thức.]thì không gì mà chẳng rõ.
Dù văn nghĩa khúc mắc, nhưng không có chỗ nào không phát minh cái Thấy là
bệnh nhặm, mà cái Tánh Thấy Hằng Thấy vốn chẳng hề nhặm. Cái Thấy và Cái
Được Thấy, đó là Căn và Cảnh hòa hợp, mà hiện ra có núi sông, cõi nước và
chúng sanh, cũng giống như sự hiện ra của Cảnh vật trước mắt, thật cũng
chỉ như cái bóng tròn thấy nơi ngọn đèn. Bóng tròn chẳng do sắc tạo ra,
thì các thứ trên cũng không phải do Cảnh tạo ra. Nguyên là cái Giác Minh
của ta vọng thấy có chỗ duyên, như con mắt nhặm thì thành ra có bóng tròn.
Cái Giác Minh này vọng thấy, nhân ở Minh mà lập ra Cái Sở, rồi lại duyên
bám theo ngoại cảnh, đó là bệnh nhặm. Còn cái Bổn Giác Minh Tâm nào rơi
vào nơi chốn, thường giác các tướng sanh khởi của các duyên, chẳng đuổi
theo các duyên mà trôi lăn, thì vốn chẳng hề nhặm. Vậy, nên biết do cái
Giác Minh của ta duyên nơi tiền cảnh mà thành cái Sở Giác (Cái Được Biết).
Cái Sở Giác là bệnh nhặm, mà cái Tánh Bổn Giác thật là cái Thường Biết.
Cái Bổn Giác Minh Tâm đã thường tỏ biết cái nhặm, biết cái nhặm là bệnh,
vốn tự tại, nào có sa vào chuyện nhặm ? Nói là “Cái Biết và Cái Được Biết
đều là bệnh nhặm”, nghĩa là cái Giác Minh của ta thấy có chỗ duyên bèn là
bệnh nhặm, lấy cái Biết và Được Biết ấy làm duyên mà có. Nói là “Cái Bổn
Giác không ở trong bệnh nhặm”, là tương ưng với Cái Bổn Giác Minh Tâm
thường rõ các Duyên, mà không có bệnh nhặm; ở nơi phù trần chưa khởi,
chẳng sa vào cái nhặm của Thức Giới. Đây chẳng phải là cảnh giới của Thấy,
Nghe, Hay, Biết cho nên nói “Đây thật là Tánh Thấy Hằng Thấy, sao gọi được
là sự thấy, nghe, hay, biết?”
Nếu lấy cái sự thấy, nghe, hay, biết mà cho đó là Tánh, thì chẳng khác nào
lấy con mắt nhặm mà cho là con mắt trong sạch, sao mà thông cho nổi?
Ngài Tam Bình có bài kệ :
“Chỉ Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe
Tuyệt không thanh, sắc để trình ông
Trong đây nếu rõ, toàn vô sự
Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”.
(Chỉ thử kiến văn phi kiến văn
Vô dư Thanh, Sắc khả trình quân
Cá trung nhược liễu toàn vô sự
Thể, Dụng hà phòng phân, bất phân).
Tổ
Vân Môn nêu ra: “Ngay “Chỉ Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe”: gọi cái
gì là Thấy, Nghe? “Tuyệt không thanh, sắc để trình ông”: có thanh, sắc nào
ở nơi miệng? “Trong đây nếu rõ, toàn vô sự”: có chuyện gì đâu? “Thể, Dụng
nào cần phân, chẳng phân”: lời nói là Thể, hay Thể là lời nói?”
Ngài lại đưa cây trụ trượng lên mà nói: “Trụ trượng là Thể, đèn lồng là
Dụng, thế là phân hay chẳng phân? Chẳng thấy nói “Nhất Thiết Trí Thanh
Tịnh” ư?”
Sau, Ngài Bạch Vân Đoan nêu ra rằng: “Vân Môn chỉ hiểu y theo khuôn sáo mà
vẽ chân mày, viên thông thì chẳng thế!”
“Ngay “Thấy, Nghe này chẳng phải Thấy, Nghe. Tuyệt không thanh, sắc để
trình ông”: mắt là mắt, tai là tai!
““Trong đây nếu rõ, toàn vô sự. Thể, Dụng nào cần phân, chẳng phân”: Bốn,
năm trăm cành hoa liễu (trong) ngõ. Hai ba ngàn chỗ xướng ca lầu”.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng:
“Thật gặp nhau, chẳng giao thiệp
Sáu cửa mở toang, bốn đường tuyệt dấu
Khắp cõi là quang minh, suốt thân không sau trước
Sợi tơ chẳng bận chuyện con thoi
Hoa mỹ tung hoành riêng ý khác”.
Ngài Tam Bình riêng có một bài tụng:
“Thấy, Nghe, Hay, Biết vốn chẳng (nguyên)nhân
Đương Thể rỗng mầu, tuyệt vọng, chân
Thấy Tướng, chẳng sanh si ái nghiệp
Rỗng nhiên, toàn hết : Thích Ca Thân”.
Lại nữa, Tổ Huệ Siêu thượng đường dạy rằng: “Này các Thượng Tọa, Thấy,
Nghe, Hay, Biết thì chẳng phải là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Thể hội chăng?
Cùng với các vị Thượng Tọa nói rõ lắm rồi đó, nhưng phải chờ chư vị ngôï
mới được!”
Hợp các đoạn trên để chú giải đoạn kinh này.
Kinh: “Anan, cái Vọng Kiến Đồng Phận của chúng sanh kia so với cái Vọng
Kiến Biệt Nghiệp của một người thì một người đau mắt cũng đồng như một
nước kia.
“Người đau mắt thấy bóng tròn là do mắt nhặm hư vọng sanh ra; còn trong
một nước kia hiện ra các điềm xấu là do ác duyên đồng phận của chúng sanh
tạo nên. Cả hai đều là do cái Thấy hư vọng từ vô thủy sanh ra.
“Suy ra, ba ngàn Châu trong cõi Diêm Phù Đề, cùng bốn biển lớn, Ta Bà thế
giới, cho đến các cõi Hữu Lậu mười phương cùng các chúng sanh đồng ở trong
Diệu Tâm Vô Lậu, nhưng do cái bệnh duyên hư vọng tạo thành Thấy, Nghe,
Hay, Biết hòa hợp mà giả dối sanh ra, hòa hợp mà giả dối diệt mất. Nếu xa
lìa các bệnh duyên hòa hợp và chẳng hòa hợp này, tức thì diệt trở lại được
các nguyên nhân sanh tử, tròn đủ Thể Bồ Đề không sanh không diệt, đó là
cái Bản Tâm Xưa Nay Trong Sạch, cái Vốn Giác Ngộ Thường Trụ Xưa Nay vậy.
Thông rằng: Lấy con mắt nhặm để hiển bày cái Vọng thì dễ, lấy cái điềm xấu
mà hiển bày cái Vọng thì khó, cho nên lấy Biệt Nghiệp mà so với Đồng Phận
vậy. Hơn nữa, cái Vọng là các điềm xấu trong Đồng Phận còn dễ biết, chứ
cái Bệnh Duyên hư vọng là các cõi nước Hữu Lậu thì quả là khó tin. Cho nên
lấy dễ mà suy ra khó vậy.
Chỗ thấy có núi sông, cõi nước cùng mười loại chúng sanh trong thế gian
tuy thuộc hư vọng, nhưng đồng là cái Diệu Tâm Vô Lậu. Nói Diệu, tức là vật
mà chẳng phải vật, tức là Cảnh mà chẳng phải Cảnh. Chỉ vì quay lưng lại
với Giác mà hợp với Trần thì thành Hữu Lậu. Hữu Lậu thì bị vật chuyển,
cùng với bệnh nhặm bèn đồng. Còn nếu trái với Trần, hợp với Giác thì vốn
tự Vô Lậu. Vô Lậu thì chuyển được vật, tức đồng với không nhặm. Đồng một
Giác Minh, mà Vô Lậu tức là Bổn Tâm Thanh Tịnh, Bổn Giác Thường Trụ; còn
Hữu Lậu thì chẳng biết Chơn mà chạy theo Vọng, trôi lăn sanh tử, hòa hợp
mà vọng sanh ra, hòa hợp mà vọng diệt mất. Tương ưng với đoạn trước: “Ngay
trong đó mà lại phát sanh, do Nghiệp bèn chịu xoay vần”. Chơn, Vọng vốn
hòa hiệp, mà nói riêng về Vọng bởi vì Chân Như đang ở trong phiền não vậy.
Các tướng hòa hợp, tức là tại trong ba cõi mà lưu chuyển. Các tướng bất
hòa hợp là cái kiến chấp chẳng sanh diệt, Tự Nhiên của ngoại đạo. Cả hai
thứ duyên hòa hiệp và chẳng hòa hiệp này chính là gốc rễ, nguyên nhân của
sanh tử, đều là cái vọng kiến điên đảo. Nếu cái Vọng Thấy mà tiêu tan, chỉ
còn một Bổn Giác. Cũng như bệnh nhặm tiêu tan, thì chỉ còn một con mắt
thuần túy sáng sạch. Há đó chẳng phải là Tánh Bồ Đề tròn đủ, bất sanh bất
diệt sao ? Đến trong cái Bồ Đề tròn đầy ấy rồi mới tin được “Thấy do lìa
Thấy, Thấy ấy siêu việt” vậy.
Tổ
Huyền Sa thượng đường dạy rằng: “Tôi nay hỏi các ông, các ông đang đảm
đương chuyện gì vậy? Ở thế giới nào mà an thân lập mạng đây? Có thấy ra
được không? Nếu chẳng nhìn ra được thì khác nào dụi mắt sanh ra hoa đốm,
thấy toàn chuyện hư vọng. Có biết thế không? Như nay trước mắt thấy đủ núi
sông, đất đai, sắc, không, sáng, tối, vô vàn sự vật đều là hoa đốm điên
cuồng nhọc mệt. Phải gọi tất cả những thứ đó là tri kiến điên đảo.
“Phàm là người xuất gia, phải rõ Tâm, thấu đạt Cội Nguồn mới được gọi là
Sa Môn. Nay các ông đã cạo đầu, khoác y làm nên hình tướng Sa Môn, tức là
đã có phần tự lợi, lợi người mà nay chỉ thấy toàn là tối đen như mực, thì
tự cứu còn chẳng xong huống là giải thoát cho người?
“Này các nhân giả, nhân duyên với Phật Pháp là sự lớn lao, chớ có dễ
ngươi, xúm nhau mà nói tầm phào cho qua ngày qua buổi. Tháng ngày khó
được, tiếc thay cho bậc đại trượng phu! Sao chẳng tự tỉnh sát, nhìn xem đó
là vật gì? Chỉ như đây là Tông Thừa từ xưa, là dòng giống Phật Đảnh. Bởi
vì các ông chẳng kham nhận lãnh, nên tôi mới phương tiện khuyên răn: Cần
theo cửa Ca Diếp mà nối gót đốn siêu.
“Một cái cửa này vượt hẳn phàm Thánh, nhân quả, siêu việt thế giới Hải
Diệu Trang Nghiêm của Phật Tỳ Lô, siêu việt các pháp môn phương tiện của
Phật Thích Ca. Ngay đây là vĩnh kiếp: chẳng dạy cho các ông có được một
vật gì để khởi lên nhãn kiến, sao chẳng tự mình gấp gấp nghiệm lấy? Để
khỏi cần nói “Ta phải chờ hai, ba kiếp góp chứa nghiệp lành”.
“Này các nhân giả, Tông Thừa là cái việc gì mà chẳng thể do sự dụng công
trang nghiêm của ông mới đắc, mà dù có tha tâm thông, túc mạng thông cũng
không thể đắc? Hội chăng?
“Như Đức Thích Ca ra đời làm ra biết bao nhiêu trò biến hóa giỡn đùa,
thuyết Mười Hai Thời Giáo như xối nước, làm nên một trường Phật Sự. Thế mà
đối với pháp môn này thì một điểm dùng cũng chẳng được, dùng một chút nghề
như mảy lông cũng chẳng được! Biết chăng? Như đồng trong việc mộng, thì có
nói cũng là nói mớ thôi. Bậc Sa Môn chẳng có ra đời, không cùng việc mộng,
bởi vì rõ biết. Các ông có biết không? Rõ được tức là người Đại Giải
Thoát, Đại Triệt Ngộ. Bởi thế mà siêu phàm vượt Thánh, ra khỏi sanh, lìa
khỏi tử, rời xa nhân quả, siêu Tỳ Lô, vượt Thích Ca, chẳng bị phàm Thánh,
nhân quả dối lừa, chốn chốn nơi nơi không người biết được ông. Hiểu thế
chăng?
“Đừng tham luyến hoài cái lưới ân ái sanh tử, bị nghiệp thiện, ác móc kéo
lôi đi, chẳng có phần nào tự do. Dầu ông có luyện được cái thân, tâm giống
như hư không chăng nữa, dù cho ông có đến được cái chỗ chẳng lay động của
Tinh Minh trong trẻo đi nữa, thì cũng chẳng ra khỏi Thức Ấm. Cổ nhân gọi
cái ấy như dòng nước chảy xiết, chảy xiết mà chẳng hay, nên lầm cho là yên
tĩnh. Tu hành như đó mà đòi ra khỏi bờ cõi luân hồi thì không thể được,
vẫn như trước mà bị luân hồi. Bởi thế, mới nói “Các Hành là vô thường”,
ngay cả công quả của Tam Thừa, thấy thế cũng nên sợ hãi. Nếu không có Đạo
Nhãn thì chẳng có gì là rốt ráo. Đâu bằng như nay kẻ bạc địa phàm phu,
chẳng dùng một tơ hào công phu, liền đốn siêu tức khắc. Biết rõ chỗ đặt
hết tâm lực chăng? Trở lại cầu muốn cái gì? Xin khuyên các ông! Ngay đây
đang chờ các ông đó! Không dạy các ông gia công tu luyện! Như nay mà chẳng
như vậy còn chờ đến khi nào? Được không?”
Rồi bèn xuống tòa.
Tổ
Huyền Sa nhân đọc kinh Lăng Nghiêm mà phát minh Tâm Địa. Thốt lời, nhả khí
mỗi mỗi đều hợp với kinh này. Ở nơi đấy mà tin nhập, liền ngay tròn đủ Bồ
Đề Bổn Giác thường trụ, còn có vọng kiến nào là bệnh ư?
Kinh: “Anan, ông tuy đã ngộ cái Bản Giác Diệu Minh vốn chẳng phải Nhân
Duyên, chẳng phải Tự Nhiên nhưng còn chưa rõ cái Bản Giác như thế không
phải Hòa Hợp mà sanh, cũng không phải Không Hòa Hợp.
“Anan, nay tôi lại lấy tiền trần hỏi ông, bởi vì ông còn lấy hết thảy
những tính Nhân Duyên Hòa Hợp của vọng tưởng thế gian mà tự nghi ngờ rằng
chứng Tâm Bồ Đề cũng do Hòa Hợp mà phát khởi. Vậy thì hiện nay cái Thấy
Mầu Sạch của ông là hòa với cái sáng? Là hòa với cái tối? Hòa với thông
suốt Hay hòa với cái ngăn bít? Nếu hòa với cái sáng, mà nay ông đang thấy
sáng, thì cái sáng hiện đó, ở chỗ nào xen lẫn với cái Thấy? Cái Thấy, cái
sáng có thể nhận rõ, còn hình tượng xen lộn thì như thế nào? Nếu cái sáng
chẳng phải là cái Thấy thì làm sao thấy được cái sáng? Nếu cái sáng tức là
cái Thấy thì làm sao thấy được cái Thấy? Nếu cái Thấy cùng khắp thì còn
chỗ nào để hòa được với cái sáng? Nếu cái sáng cùng khắp thì lẽ ra không
Hòa được với cái Thấy. Cái Thấy đã khác với cái sáng thì khi xen lẫn tất
phải làm mất tính cách của cái sáng. Cái Thấy xen vào làm mất tính chất
của cái sáng, mà nói hòa với cái sáng thì không đúng nghĩa. Đối với cái
tối, cái thông suốt và cái ngăn bít thì cũng như vậy.
“Lại nữa, Anan, hiện nay cái Thấy Mầu Sạch của ông hợp cùng cái sáng, hợp
với cái tối, hợp với cái thông suốt hay hợp với cái ngăn bít? Nếu hợp với
cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái Thấy đó không hợp với
cái tối thì làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tối mà không hợp với
cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng! Mà đã
không thấy được sáng thì làm sao hợp với cái sáng và rõ biết cái sáng
không phải là tối. Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít thì cũng
như vậy.
Thông rằng: Cái Bổn Giác Diệu Minh chẳng phải Nhân Duyên, chẳng phải Tự
Nhiên, Ông Anan trước đã tỏ ngộ sơ qua là nó hình như chẳng phải là Nhân
Duyên hay Tự Nhiên, nhưng lại chấp rằng ba duyên ánh sáng của thế gian họp
lại thì thành ra cái Thấy. Ông còn nghi rằng chứng Bồ Đề Tâm hẳn do Hòa
Hợp mà phát khởi.
Cái Thấy của thế gian kia không những thấy cái sáng, mà còn thấy cả cái
tối, thì rõ ràng là không phải nhờ các duyên vậy. Huống là cái Bồ Đề Bổn
Giác vốn thường trụ, lìa ngoài mọi cái Thấy, há có thể gọi là Hòa Hợp sao?
Nói là Hòa, thì như nước hòa với đất, trộn lẫn không phân biệt được. Nay
cái Thấy và cái sáng, cái tối, cái thông suốt và cái ngăn bít làm sao hòa
được? Cái Thấy thuộc về Hữu Tình, cái Cảnh thuộc về Vô Tình, rõ ràng có
thể biện biệt. Như hai cái đó hòa trộn lẫn nhau thì làm nên hình trạng gì?
Cái Thấy thì thấy được cái sáng, nên hình như là trộn lẫn được. Nhưng cái
sáng thì không thể tự thấy, mà chỉ có cái Thấy mới có thể thấy, thì hai
cái hẳn không thể trộn lẫn. Nếu có thể trộn lẫn, ắt là phải có chỗ chẳng
cùng khắp, mà nay cái Thấy là Kiến Phần và cái Bị Thấy là Tướng Phần, mỗi
cái đều tròn vẹn, đầy khắp pháp giới, còn chỗ nào để mà hòa đây? Giả sử có
thể trộn lẫn, thì cái Thấy đã trộn lẫn với cái Cảnh, vậy còn đâu là cái
Thấy nữa? Và cái Cảnh Tướng đã trộn lẫn với cái Thấy, thì không thể gọi là
Cảnh Tướng. Cái Thấy cùng với Tướng Bị Thấy phải khác nhau, chẳng thể hòa
vậy.
Nói là Hợp, thì như cái nắp và cái hộp hợp với nhau, nương nhau mà chẳng
lìa. Nay thì cái Thấy cùng với tiền cảnh là sáng, tối, thông, bít làm sao
hợp được? Vì nếu cùng cái sáng hợp thì không thể thấy cái tối. Đã không
hợp với cái tối, mà có thể thấy được cái tối thì cũng phải không hợp với
cái sáng mới có thể thấy được cái sáng. Còn nếu hợp với cái sáng thì không
thấy được cái sáng vậy! Đã không thể thấy sáng thì không thể gọi là hợp
nhau, làm sao lại cùng với cái sáng hợp được! Biết rằng Sáng chẳng phải
tối, thì cả hai cái thấy sáng và cái thấy tối đều không hợp nhau được. Cái
thấy hẳn là khác với tiền cảnh, không thể hợp được.
Đã
là cái Kiến Tinh này thì sáng, tối, thông, bít đều chẳng phải là cái Thấy,
nên mới nói là Trong Sạch (Tịnh). Nhưng sáng, tối, thông, bít chẳng có cái
nào không phải là cái Thấy, nên gọi là Diệu. Nói Kiến Tinh là Diệu Tịnh vì
nó là cái Tịnh Sắc Căn, chẳng dính dáng với vọng trần, chẳng phải do Hòa
Hợp mà sanh ra, huống là cái Tánh Thấy vốn là Giác Ngộ, trong sạch cực
cùng, mầu nhiệm cực cùng, há lại do căn trần hòa hợp mà hiện hữu ư?
Tổ
Chương Kính thượng đường, nói: “Tột Lý quên lời, người đời chẳng hiểu.
Gượng ép tu tập việc ngoài, cho là công phu. Chẳng biết rằng Tự Tánh vốn
không dính dáng đến trần cảnh, đó là cái pháp môn Vi Diệu Đại Giải Thoát.
Vốn có cái gương hằng giác, không nhiễm ô, không ngăn ngại. Cái Quang Minh
đó chưa từng mai một, vô thủy đến nay không hề đổi khác. Cũng như mặt
trời, xa gần đều soi chiếu. Tuy đến các sắc tượng mà chẳng hòa hợp với tất
cả, Linh Diệu Độc Sáng, chẳng nhờ rèn luyện. Chỉ vì chẳng biết nên đeo giữ
hình tướng. Chẳng khác nào dụi mắt thấy Không-hoa, uổng tự nhọc nhằn, qua
nhiều đời kiếp. Nếu liền phản chiếu thì không có được người thứ hai! Làm
lụng bày biện này kia, nào chẳng kém hao Thật Tướng!”
Ngài Không Thất Đạo Nhân Trí Thông nhân xem cuốn Pháp Giới Quán liền tỏ
ngộ, làm hai bài kệ:
Bài Một :
Mênh mông trần thế một Tánh Như
Dọc ngang xen lẫn ấn Tỳ Lô
Toàn sóng là nước, sóng chẳng là nước
Toàn nước thành sóng, nước tự mình!
(Hạo hạo trần trung thể Nhất Như
Tung hoành giao hỗ ấn Tỳ Lô
Toàn ba thị thủy, ba phi thủy
Toàn thủy thành ba, thủy tự thù).
Đây là nghĩa Chẳng Hòa Hợp.
Bài Hai :
Ta, Vật vốn không khác
Trùng trùng gương, bóng đồng
Sáng trong, siêu chủ bạn
Tỏ tỏ, triệt Chân Không
Một Thể trùm muôn pháp
Trong lưới báu nhập nhau
Trùng trùng, không cùng tận
Động, tĩnh vốn viên thông
(Vật ngã nguyên vô dị
Sum la cảnh tượng đồng
Minh minh siêu chủ bạn
Liễu liễu triệt Chơn Không
Nhất Thể hàm đa pháp
Giao tham đế võng trung
Trùng trùng vô tận xứ
Động tĩnh tất viên thông).
Đây lại là nghĩa Chẳng phải Không Hòa Hợp.
Kinh: Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như chỗ tôi suy nghĩ: cái
Tâm Tánh này đối với các trần cảnh và các tâm niệm không Hòa Hợp chăng?”
Phật dạy : “Nay ông lại nói Tánh Giác không Hòa Hợp, thì ta lại hỏi ông:
Cái Thấy Mầu Nhiệm này mà gọi là chẳng Hòa Hợp đó, là không hòa với cái
sáng, là không hòa với cái tối, là không hòa với sự thông suốt, hay là
không hòa với sự ngăn bít? Nếu không hòa với cái sáng, thì giữa cái Thấy
và cái sáng phải có ranh giới. Ông nay hãy xét kỹ: chỗ nào là cái sáng?
Chỗ nào là cái Thấy? Nơi cái Thấy, nơi cái sáng thì lấy từ đâu làm ranh
giới? Anan, nếu ở trong ranh giới của cái sáng chắc không có cái Thấy, hai
cái không đến với nhau, cái Thấy tự chẳng biết được cái sáng ở đâu, thì
ranh giới làm sao thành lập? Đối với cái tối, cái thông suốt, cái ngăn bít
thì cũng như thế.
“Lại cái Thấy mà gọi là chẳng có hòa hợp đó, là không hợp với cái sáng,
không hợp với cái tối, không hợp với cái thông suốt, hay không hợp với cái
ngăn bít? Nếu không hợp với cái sáng, tức là cái Thấy và cái sáng tánh
trái ngược nhau, cũng như lỗ tai với cái sáng hoàn toàn không liên quan gì
nhau. Nếu vậy thì cái Thấy không biết được cái sáng ở đâu, làm sao mà phân
biệt ra được cái lẽ Hợp hay Chẳng Hợp? Đối với cái tối, cái thông suốt và
cái ngăn bít thì cũng như thế.
Thông rằng: Chỗ Không Hòa Hợp mà Ông Anan nghi ấy là hai pháp Chơn và
Vọng, hình như chẳng có tương nhập, vì ông chưa có thể dung thông Chơn,
Vọng làm một.
Tạm nói là Không Hòa, thì cái Thấy và cái sáng phải có ranh giới. Tạm nói
là Không Hợp, thì cái Thấy và cái sáng, tánh tướng trái ngược nhau. Nay
đều chẳng phải vậy, nên biết rằng chẳng phải Không Hòa Hợp.
Ở
đoạn trước, Ông Anan nói “Không thể ở nơi hình tướng của muôn vật trước
mặt mà phân tách ra được cái Thấy có riêng tự tánh, lìa ngoài mọi vật”,
thì cũng tương tự chỗ này. Đã nói Không Hòa Hợp là từ nơi sự diệu tịnh của
cái Thấy mà nói, tịnh cho nên chẳng dung chứa sự xen tạp. Lại nói Chẳng
phải Không Hòa Hợp, là từ riêng sự Diệu của cái Thấy mà nói, Diệu thì
không chỗ nào mà không có.
Cuốn Bách Môn Nghĩa Hải nói “Thấu đạt Vô Sanh là hiểu rằng Trần Cảnh là
Duyên của Tâm, và Tâm là Nhân của Trần Cảnh. Nhân Duyên hòa hiệp thì các
huyễn tướng mới sanh ra. Do từ Duyên sanh, nên Vô Tự Tánh. Tại sao thế ?
Vì nay Trần chẳng thể tự duyên mà phải chờ có tâm. Tâm chẳng thể tự mình
làm tâm, tất phải chờ có duyên Trần. Do nương nhau mà có, nên không thể
định. Do đó, Duyên Sanh tức là Vô Sanh, chứ chẳng phải bỏ Duyên Sanh mà
nói Vô Sanh”.
Tổ
Thiệu Tiên thượng đường, nói : “Vo chẳng dính, đập chẳng tan, phơi nắng
không khô, ngâm nước không thối. Một mực treo giữa Thái Hư, mặc người mắt
lạnh cạnh bên nhìn”.
Hòa Thượng Bì Thọ đang hơ lửa.
Ngài Đạo Ngô hỏi: “Làm gì thế?”
Tổ
Thọ nói: “Hòa hiệp”.
Đạo Ngô: “Như thế tức là ngay đó mà thoát ư?”
Tổ
Thọ rằng: “Cách xa bao nhiêu thời gian rồi vậy?”
Ngài Đạo Ngô phất tay áo, bỏ đi.
Một hôm, Ngài Đạo Ngô ở ngoài về, Tổ Bì Thọ hỏi: “Từ đâu về đó?”
Ngài Đạo Ngô đáp: “Gần đây thôi”.
Tổ
Thọ rằng: “Dùng sàng sảy hai miếng da đó làm gì?”
Ngài Ngô: “Mượn”.
Tổ
Thọ rằng: “Kia có thì cho ông mượn, còn không thì làm sao?”
Đạo Ngô: “Chỉ vì có nên mới mượn”.
Xem chỗ cử xướng của chư tôn túc như thế, thì cái Diệu Giác Nguyên đó cùng
các duyên trần và các tâm niệm là Hòa Hợp hay chẳng Hòa Hợp? Cần có mắt
mới được! |