PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM
MỤC BẢY: TÓM THU VỀ NHƯ LAI TẠNG
I. TÓM THU
(tt)
G. THU MƯỜI HAI XỨ
Kinh: “Lại
nữa, Anan, như sao là mười hai Xứ vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh?
Thông rằng:
Mới đầu, ở trong năm Ấm thì dùng phép tỷ dụ để phá tình chấp, vì ngũ Ấm
vốn không, nếu không so sánh thì khó hiển bày. Tiếp đến, ở trong sáu Nhập
chỉ ra cái sự việc giả để hiển bày cái vọng tướng của chúng. Sáu Nhập vốn
vọng, nên dùng vọng để dẫn đến vọng, có thể suy ra mà thông hiểu. Đoạn này
nói đến Mười Hai Xứ cho đến đoạn sau là Bảy Đại thì lấy ngay cái cảnh
thấy, nghe trước mắt mà chỉ bày cái Như Lai Tạng Tánh của chúng. Thật là
mỗi cõi Phật độ, mỗi hạt trần rành rành không hở sót vậy.
Đức Tam Tổ
Tăng Xán nói: “Chẳng ghét sáu trần. Liền đồng Chánh Giác”, là đã thấy sâu
xa chỗ này vậy.
Thiền sư Kim
Sơn Thiện Minh thượng đường nói với đại chúng rằng: “Người xưa nói: Ở mắt
là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi hương, ở lưỡi là bàn luận, ở thân là
cảm xúc, ở ý là bám níu. Tuy nhiên như thế là chỉ thấy đầu dùi nhọn, chẳng
thấy đầu đục vuông!
“Nếu là Kim
Sơn tôi ắt chẳng phải thế: Có mắt mà nhìn chẳng thấy, có tai mà lắng chẳng
nghe, có mũi mà chẳng biết mùi, có lưỡi mà chẳng hề đàm luận, có thân mà
chẳng biết cảm xúc, có ý mà chẳng bám níu. Một niệm tương ưng, sáu căn
liền giải thoát. Dám hỏi các vị thiền đức: Thử nói xem là đối với lời
trước là đồng hay khác? Nếu có bậc cụ nhãn thì xin bước ra làm cho rõ
thông tin tức. Còn nếu không có, xin vì các ông mà giải nghĩa trùng trùng.
Buông mở ra thì riêng thông xe, ngựa. Nắm tóm lại thì mảy lông cũng chẳng
còn. Nếu là bậc thiền gia cự phách thì kham hết mọi trái phải, phân chia”.
Một đoạn chỉ
bày này quả là cùng đoạn kinh trên trùng trùng giải thích.
Kinh : “Anan,
ông hãy xem rừng cây Kỳ Đà và các suối ao đó. Ý ông thế nào? Như thế là
sắc trần sanh ra cái Thấy hay là cái Thấy sanh ra sắc tướng?
“Anan, nếu
Nhãn Căn sanh ra sắc tướng, thì khi thấy hư không không có sắc tướng lẽ ra
cái tánh của sắc đã tiêu mất rồi. Mà đã tiêu mất thì tỏ rõ hết thảy đều
không. Sắc tướng đã không thì lấy gì rõ được tướng hư không? Đối với hư
không thì cũng như vậy.
“Lại nếu sắc
trần sanh ra cái Thấy, thì khi thấy hư không bèn không có sắc, cái Thấy
hẳn tiêu mất. Tiêu mất thì tất cả đều không, lấy gì mà rõ được hư không và
sắc tướng?
“Thế nên, phải
biết cái Thấy cùng với sắc, không đều không có xứ sở. Tức Sắc Trần và cái
Thấy, cả hai Xứ đó đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải
tánh Tự Nhiên.
Thông rằng: Ở
đoạn trước dựa trên sáu Nhập để phá sáu căn thì tuy dùng sáu trần để đối
biện mà ý chánh vẫn ở tại căn. Hiện đây là nói về Mười Hai Xứ, thì tuy là
phá cả căn lẫn trần, mà chánh là phá cái trần. Sau này, nói về Mười Tám
Giới, thì chỉ chuyên phá cái Thức. Đoạn trước về sáu Nhập thì luôn luôn có
câu “Đều là tướng phát mỏi do chăm chú của Bồ Đề”, đó là từ trên Căn mà
nói. Đoạn này nói “Hãy xem rừng Kỳ Đà và các suối ao” là từ trên Sắc mà
khởi nói.
Nếu nói là sắc
sanh ra cái Thấy, thì chắc hư không chẳng sanh ra cái Thấy. Vậy lấy cái gì
giúp thấy sắc, lại rõ thấy hư không? Nếu nói là con mắt sanh ra sắc tướng,
thì chắc là nó không thể sanh ra tướng hư không, thì cái gì giúp hiển bày
sắc, lại hiển bày hư không? Do đây mà nói: Con mắt không thể sanh ra sắc,
con mắt vốn tự tịch diệt, nào cùng với sắc ư? Sắc không thể sanh ra con
mắt, sắc vốn tự tịch diệt, đâu cùng với mắt ư? Chỉ lấy hư không mà hình
dung ra sắc thì sắc trần tự phá. Cái Thấy cùng với sắc, không đều không có
xứ sở. Sắc là Không mà cái Thấy cũng Không đó vậy. Sắc và cái Thấy đều
Không, lấy gì làm Nhân Duyên, lấy gì làm Tự Nhiên, thì chẳng gọi đó là
Tánh Chân Như sao?
Xưa, Tổ Ngưỡng
Sơn chỉ con sư tử ở ngoài tuyết nói: “Có vượt qua được cái sắc này không,
nhỉ?”
Tổ Vân Môn
nói: “Hiện giờ nên cùng nhau đẩy ngã cho xong”.
Ngài Tuyết Đậu
nói: “Chỉ biết đẩy ngã, chẳng biết đỡ dậy”.
Ngài Phật Giác
tụng rằng :
“Một sắc không qua chỉ bày người
Trong cõi bạc trắng luống than van
Vượt ngoài “xô ngã” và “đỡ dậy”
Cũng tựa gió Đông đón sáng Xuân”.
(Nhất Sắc vô quá chỉ thị nhân
Bạch ngân thế giới lý tần thân
Siêu nhiên thôi đảo hoàn phù khởi
Tranh tợ Đông phong hú nhật tân).
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng: “Một ngã một dậy, sư tử sân tuyết. Khéo không phạm đến
nhưng chứa lòng nhân. Mạnh mẽ ở chỗ làm mà thấy nghĩa. Ánh sáng trong suốt
soi mắt mà tựa người mê. Rõ ràng đổi thân sa vào địa vị. Là kẻ thầy tu, rõ
không nương gởi, cùng tử cùng sanh, nào đây, nào đó? Tin ấm nứt cây mai,
hề, Xuân đến lạnh cành. Gió mưa lay rụng lá, hề, Thu lặng mưa đầy”.
Tổ Vạn Tùng
nói: “Đã kêu là Sắc ắt cùng với con mắt mà đối nhau. Cái Sắc vượt qua màu
trắng, chỉ là một Vô Sắc, nên không có với mắt đối nghịch”.
Tổ Vân Môn
nói: “Sở dĩ nói “Hiện nên cùng đẩy ngã”, vì nếu hướng về chỗ trắng, chỗ
không trắng mà nhận lấy thì thật đã rơi vào trong cõi Vô Sắc. Ngài Tuyết
Đậu sở dĩ riêng chỉ ra một con đường để sống lại, ấy là hướng về chỗ xô
ngã mà dạy đỡ dậy”.
Tổ Phật Nhãn
nói: “Nếu ở trong ấy mà giúp đỡ nâng cho đứng dậy thì liền sanh có thứ
lớp”.
Như các vị tôn
túc đối với một sắc tướng nhỏ nhặt mà còn cần phá sạch hết ráo, huống gì
là trước mắt thấy có đủ thứ sao?
Kinh: “Anan,
ông lại nghe trong vườn Kỳ Đà này, khi thức ăn dọn rồi thì đánh trống, khi
chúng nhóm lại thì đánh chuông. Tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối
tiếp nhau. Ý ông thế nào? Như vậy là cái Tiếng đến bên cái Nghe hay cái
Nghe đến chỗ cái Tiếng?
“Anan, nếu như
cái tiếng đó đến bên cái Nghe, thì cũng như ta khất thực trong thành Thất
La Phiệt, ở rừng Kỳ Đà không có ta nữa. Cái tiếng đó đã riêng đến bên cái
Nghe của Ông Anan, thì lẽ ra Ông Mục Liên, Ông Ca Diếp không cùng nghe
được một lần. Huống gì trong này có một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn,
một khi nghe tiếng chuông thì đồng đến chỗ ăn cơm cả.
“Lại như cái
Nghe của ông đến chỗ cái tiếng, thì cũng như ta đã về rừng Kỳ Đà rồi,
trong thành Thất La Phiệt không còn ta nữa. Vậy, khi ông nghe tiếng trống,
cái Nghe của ông đã đến nơi tiếng trống rồi, thì khi có lúc tiếng chuông
phát ra, đáng lý ông không thể cùng nghe, huống nữa, ông còn nghe được cả
tiếng voi, ngựa, bò, dê và nhiều tiếng khác. Còn nếu chúng không đi đến
với nhau thì lại là không có nghe gì cả.
“Thế nên, phải
biết rằng cái Nghe và cái Tiếng đều không có xứ sở. Tức cái Nghe và Thanh
Trần, hai Xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh
Tự Nhiên.
Thông rằng:
Câu “Cũng như Ta khất thực trong thành Thất La Phiệt, tại rừng Kỳ Đà không
có Ta nữa” để thí dụ cho cái Tiếng đến bên cái Nghe, thì các chỗ khác
không còn có cái tiếng, vậy sao một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa môn lại
còn cùng nghe? Câu “Cũng như ta đã về rừng Kỳ Đà rồi, trong thành Thất La
Phiệt không còn có ta nữa” để thí dụ cho cái Nghe đến chỗ cái tiếng thì
các chỗ khác phải không còn cái Nghe, vậy thì tại sao lại nghe tiếng voi,
ngựa, bò, dê và nhiều tiếng khác nữa? Câu “Nếu không đi đến với nhau” tức
là rơi vào ngoan không. Nghĩa Nghe không thành lập được, thì cái Tiếng và
cái Nghe đều không có dấu tích. Uyển chuyển mà cùng khắp, gặp chỗ đều
thông suốt, có xứ sở nào đâu? Cho là Nhân Duyên, thì không có chỗ Duyên.
Cho là Tự Nhiên, thì cũng chẳng có chỗ nào mà Tự. Ngay ấy là hư vọng, bèn
là không có gì chẳng phải là Chân Thể, nên gọi đó là Tánh Chân Như Nhiệm
Mầu vậy.
Tổ Huyền Sa
nhân có người đang tham học, nghe thấy tiếng chim én, bèn nói : “Bàn sâu
Thật Tướng, khéo thuyết Pháp Yếu!”
Liền xuống tòa
giảng.
Khi ấy, có một
vị sư hỏi thêm : “Thưa, tôi chẳng hiểu”.
Tổ Sa nói :
“Đi đi, ai tin được ông!”
Lại có Tổ Báo
Từ lên tòa giảng, nghe chim tu hú kêu, bèn hỏi nhà sư: “Tiếng gì thế?”
Sư đáp :
“Tiếng chim tu hú”.
Tổ Từ nói :
“Nếu muốn không chiêu vô gián nghiệp, chớ báng Như Lai Chánh Pháp Luân”.
Rồi xuống tòa.
Tất cả âm
thanh là Phật Thanh. Thế còn hiểu được.
Còn, Tổ Huyền
Sa nói: “Trong chuông không có tiếng trống, trong trống không có tiếng
chuông, chuông trống chẳng có xen lẫn nhau, mỗi mỗi không sau trước”.
Hiểu thế nào?
Đây là ý chỉ Vô Sanh Duyên Khởi. Ngộ đó thì cái chỗ nói là Thật Tướng, là
Pháp Yếu, có thể thấy rồi.
Kinh: “Anan,
ông hãy ngửi mùi hương chiên đàn trong lư này. Hương ấy, nếu đốt đến một
thù thì cả thành Thất La Phiệt, trong bốn mươi dặm đều đồng thời ngửi được
mùi thơm. Ý ông thế nào? Mùi thơm ấy sanh ra do cây chiên đàn, do nơi mũi
ông, hay sanh từ hư không?
“Anan, nếu mùi
thơm ấy sanh ra do mũi ông, đã nói là từ mũi sanh ra, tất phải từ lỗ mũi
mà ra, lỗ mũi không phải chiên đàn, làm sao trong lỗ mũi lại có được mùi
thơm chiên đàn? Lại đã gọi rằng ông ngửi mùi thơm, thì mùi thơm phải vào
trong lỗ mũi; còn nói là trong lỗ mũi phát ra mùi thơm, nói thế là không
đúng nghĩa. Nếu sanh ra do nơi hư không, thì tánh hư không là thường còn,
mùi thơm lẽ ra cũng phải thường có, cần gì phải đốt cây chiên đàn khô
trong lư rồi mới có? Nếu mùi thơm sanh ra từ cây chiên đàn, thì cái chất
thơm ấy nhân đốt mà thành khói, nếu mũi ngửi được là do khói xông đến mũi.
Tại sao khói đó xông lên khoảng không chưa được bao xa mà trong vòng bốn
mươi dặm đều đã ngửi thấy?
“Thế nên, phải
biết Hương Trần và cái Ngửi đều không xứ sở. Tức cái Ngửi và Hương Thơm,
cả hai Xứ ấy đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh
Tự Nhiên.
Thông rằng:
Cái Ngửi này cùng với Hương Thơm, chẳng phải mũi, chẳng phải hư không,
chẳng phải gỗ chiên đàn, tức là cái Hương Xứ không có thật vậy. Thế nào mà
trong vòng bốn mươi dặm đồng thời ngửi thấy, thì cái sức đặc biệt của mùi
thơm cũng là không thể nghĩ bàn.
Táo Bách Luận:
“Cây chiên đàn Ô Lạc Ca: Ô Lạc Ca là tên con rắn. Chiên đàn là cây thơm.
Rắn này rất độc, nó hay sợ nóng độc, thường quấn quanh cây thơm này thì
độc khí hết. Ý nói rằng nếu có chúng sanh nghe nói cái Hương mà Tâm Cảnh
đều không, vốn không thể tướng, không xứ sở, không một pháp khá được, tin
mà ngộ nhập thì tất cả phiền não, độc khí tự nhiên đều thanh tịnh”.
Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn [Đời Đường, tại Đăng Châu, núi Hương
Nghiêm, tại Ngụy Sơn học Tổ Linh Hựu được tỏ ngộ. Sắc tặng hiệu tự là Tập
Đăng Đại Sư.] có bài kệ:
“Có một lời, toàn quy củ
Định suy lường, theo bọn xấu
Đạp lên mà chẳng lầm, bèn tỉnh ngay xứ sở
Một đời tham học, sự không thành
Ân
cần ôm được gốc chiên đàn”.
Bài kệ này từ đây mà ra vậy.
Tổ Chí Công
[Tổ sư đời vua Lương Võ Đế. Vua thường hỏi việc an nguy đất nước về sau.
Tổ không nói, lấy tay chỉ yết hầu để chỉ bày, ý nói Hầu Cảnh. Vua không
hiểu. Sau quả bị nghịch thần là Hầu Cảnh bức bách. Vua mới tỉnh ngộ thì
nghiệp xưa đã tiêu] nói: “Trọn ngày lấy hương chọn lửa. Không hay thân tức
Đạo Tràng”.
Ngài Thiên
Đồng nêu ra: “Kẻ giỡn tinh hồn nào có giới hạn?”
Ngài Huyền Sa
nói: “Suốt ngày lấy hương chọn lửa. Chẳng hay Chơn Thật Đạo Tràng”.
Ngài Thiên
Đồng nêu ra: “Thật kỳ quái: tám mươi ông vào trường ốc, chẳng phải là trẻ
nhỏ giỡn chơi? Thử nói cái lợi cái hại ở chỗ nào? Có Trí hay chẳng có Trí,
so ra trong ba mươi dặm đều đồng một tác dụng Vô Sanh, mới là có chút hào
ly biện biệt ở đây”.
Người có trí
hãy biện biệt.
Kinh: “Anan,
ông thường hai thời ở trong chúng cầm bình bát khất thực. Trong đó, hoặc
gặp những món tô lạc đề hồ, gọi là vị quý. Ý ông thế nào? Vị ấy sanh ra ở
trong hư không, do nơi cái lưỡi hay do nơi đồ ăn?
“Anan, nếu cái
Vị ấy sanh ra do nơi cái lưỡi của ông, thì ở trong miệng ông chỉ có một
cái lưỡi. Cái lưỡi lúc ấy đã thành vị tô rồi, nếu gặp cục đường phèn, lẽ
ra cái Vị không thay đổi. Nếu chẳng thay đổi thì không gọi được là biết
Vị. Còn nếu thay đổi thì cái lưỡi không có nhiều tự thể, thì làm sao một
cái lưỡi lại biết được nhiều Vị Thể thế?
“Nếu Vị ấy
sanh ra do nơi đồ ăn, thì đồ ăn không có sự Biết, làm sao tự nó biết Vị?
Lại như đồ ăn tự biết, thì cũng giống như người khác ăn, nào có dính dáng
gì đến ông, mà nói là ông biết Vị?
“Nếu Vị ấy
sanh ra từ hư không, thì ông hãy nếm hư không xem là Vị gì. Nếu hư không
đó mà có Vị mặên, làm mặn lưỡi ông, chắc cũng làm mặn cái mặt ông và mọi
người trong cõi này: cũng giống như cá biển, đã thường thọ nhận cái mặn
thì không còn biết cái vị nhạt là gì nữa. Nhưng nếu không biết nhạt thì
lại cũng không biết mặn. Tức là không có chỗ Biết, sao gọi là biết Vị?
“Thế nên, phải
biết: các Vị và Lưỡi Biết Nếm đều không xứ sở. Tức cái Biết Nếm và các Vị,
cả hai Xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự
Nhiên.
Thông rằng:
Đoạn này chứng minh cái tánh của Vị, chẳng sanh ra do nơi hư không, chẳng
sanh ra do nơi Lưỡi, thì còn dễ biết. Nhưng sao lại nói chẳng do món ăn
sanh ra? Vì, món ăn chẳng có Thức, nó chẳng tự nói: Vị của tôi ngon, Vị
tôi dở. Phân biệt ngon, dở là thuôïc về căn lưỡi. Mà căn lưỡi thì không có
định thể, theo Vị mà dời đổi. Đủ biết rằng: Vị tự là vị, lưỡi tự là lưỡi.
Cả hai đều lặng nhiên. Biết lưỡi cùng vị đều vắng lặng, thì thật tin là
chúng chẳng phải là Nhân Duyên, chẳng phải là Tự Nhiên mà chính là Như Lai
Tạng Diệu Chân Như Tánh.
Thiền sư Thần
Đảnh Nhân có lần cùng với chúng Tăng đến miền Tương Miện. Có một vị sư
khởi bàn về Thiền rất trôi chảy. Trong quán Dã Phạn Sơn đã bày xong thức
ăn, mà nhà sư luận nói vẫn chưa xong.
Tổ Đảnh nói:
“Ba cõi duy chỉ một Tâm, muôn pháp duy chỉ là Thức. Duy Thức, duy Tâm, mắt
thanh, tai sắc là lời của ai thế?”
Nhà sư nói:
“Lời của Tổ Pháp Nhãn”.
Tổ Đảnh hỏi:
“Nghĩa ấy như thế nào?”
Sư đáp: “Duy
Tâm nên Căn và Cảnh không đến nhau. Duy Thức nên Thanh, Sắc khua đánh”.
Tổ Đảnh nói:
“Cái Lưỡi, cái Vị có phải là Căn và Cảnh không?”
Nhà sư đáp:
“Phải”.
Tổ Đảnh lấy
đũa gắp rau bỏ vào miệng, giỡn cợt nói rằng: “Nào gọi là tương nhập sao?”
Người ngồi
chung quanh đều kinh hãi. Nhà sư chẳng thể đáp lại.
Tổ Đảnh nói:
“Cái vui dọc đường rốt cuộc chưa đến nhà. Kiến giải dầu vi diệu cũng chẳng
gọi là thấy đạo. Tham, cần thật tham. Ngộ, cần thật ngộ. Diêm Vương chẳng
sợ chuyện nói nhiều”.
Vị sư làm lễ
mà cáo từ.
Tổ Huyền Sa có
lần ăn trái vải, hỏi đại chúng: “Trái vải này cho là màu hồng ư? Cho là
màu đỏ ư? Các ông làm sao đây? Nếu nói là một màu lại là mông lung; nói là
nhiều màu thì chỉ thành cái đoạn-thường [Tức Đoạn Thường Nhị Kiến. Cái thứ
hai trong năm Ác Kiến, gọi là Biên Kiến. Biên Kiến có hai thứ: một là Đoạn
Kiến; hai là Thường Kiến] Các ông làm sao đây?”
Sư Ngạn Thao
nói: “Đó chỉ vì Hòa Thượng phân biệt”.
Tổ Sa nói:
“Ngu si mơ hồ như thế có giao thiệp gì đâu?”
Sư Xung Cơ
nói: “Hết thảy xưa nay chỉ là một màu”.
Tổ Sa nói:
“Đều là mơ hồ hết, có khi nào mà hiểu được?”
Bèn quay qua
hỏi sư Kiểu Nhiên: “Ông nói thế nào?”
Sư Kiểu Nhiên
nói: “Không thể không biết đó là trái vải”.
Tổ Sa nói:
“Thật chỉ là trái vải”.
Lại nói: “Các
ông như lâu nay ở trong Giá Lý (Tâm Pháp) của tôi, cùng nói gì mà chẳng
biện nổi trắng đen, không biết lành dữ. Tôi luôn nói với các ông là : Dụng
xứ chẳng hoán [Thay đổi] cơ. Nhân sao chỉ lo đối đáp, có giao thiệp gì
đâu!”
Người xưa nơi
một miếng ăn, một thức uống đều cốt phát minh chuyện hướng thượng. Mỗi mỗi
đều như thế, há phải ở chỗ đối đáp lưu loát. Cần phải thực ngộ mới cùng
người sáng mắt tương kiến vậy.
Kinh: “Anan,
buổi sớm mai ông thường lấy tay xoa đầu, ý ông thế nào? Trong việc biết
xoa đó, lấy cái gì làm cái Biết Cảm Xúc? Cái Biết ấy ở nơi tay hay ở nơi
đầu?
“Nếu nó ở nơi
tay, mà cái đầu không biết, làm sao thành ra Cảm Xúc? Nếu nói ở nơi đầu,
mà cái tay lại vô dụng thì làm sao gọi là Cảm Xúc? Nếu đầu lẫn tay mỗi cái
đều có cái Biết, thì một mình Anan lại có hai cái thân hay sao? Nếu đầu và
tay đều do một Cảm Xúc sanh ra thì tay và đầu phải là một tự thể. Mà nếu
chỉ có một tự thể thì Cảm Xúc không thành được. Còn nếu là hai thể thì Cảm
Xúc ở phía nào? Ở bên Năng thì không ở bên Sở, ở bên Sở thì không có ở bên
Năng. Chẳng có lẽ là hư không tạo thành Cảm Xúc cho ông?
“Thế nên, phải
biết: Cảm Xúc và Thân Căn đều không xứ sở. Tức cái Thân biết Cảm Xúc và
cái Cảm Xúc, cả hai đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, chẳng
phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng: Ở
đây, chỉ rõ tánh Xúc là hư vọng, ở năng thì chẳng ở sở, ở sở thì chẳng ở
năng. Năng sở đều chẳng phải, thì Xúc tức là Tánh Chân Như.
Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Như thế, tự tánh như huyễn, như mộng, như bóng dáng rốt chẳng
thành tựu. Trong Tánh Chân Như các pháp tùy duyên. Tuy là tùy duyên, các
pháp quy tánh. Khi tùy duyên thì hình như có hiện ra. Như xem làm huyễn
thuật: không có mà có. Như nhìn cảnh mộng: không thấy mà thấy. Như xem ảnh
trong nước: chẳng phải sanh ra, chẳng phải nhập vào. Như nhìn bóng trong
gương: chẳng trong, chẳng ngoài. Vì Vô Tánh mà tùy duyên, nên Lý chẳng
thành tựu. Vì tùy duyên mà vô tánh, nên Sự chẳng thành tựu. Lý Sự không
thành tựu thì tất cả các pháp đều không thành. Cũng như trong chiêm bao
mộng thấy đánh võ với người: cũng có cảm nhận xúc chạm, nhưng rốt ráo ai
là người đánh, ai cảm thấy bị đánh? Thế nên, tất cả các pháp đều như thế
cả”.
Tổ Bửu Phước
thấy có vị tăng đi lại, lấy cây gậy đánh vào cây cột lộ trụ, rồi đánh vào
đầu ông tăng.
Vị này buông
tiếng kêu đau.
Tổ Phước nói:
“Cái ấy vì sao chẳng đau?”
Vị tăng không
đáp được.
Tổ Huyền Giác
nói thay rằng: “Ham đi thì chống gậy”.
Lại còn Tổ Bửu
Giác có lần hỏi Ông Chuyển Vận Phán Quan là Hạ Ỷ rằng: “Ông nói Hữu Tình
với Vô Tình đều cùng một thể phải không?”
Khi ấy, có con
chó nằm dưới bàn hương án, bèn lấy cây thước đập xuống bàn hương án rồi
lại đập con chó, nói: “Con chó Hữu Tình thì chạy đi, bàn hương án Vô Tình
thì vẫn còn đó. Như thế nào là một thể được?”
Ông Hạ Ỷ không
thể đáp.
Tổ Bửu Giác
nói: “Vừa mới tư duy liền thành dư pháp!”
Cái hiểu biết
của chư vị Thánh đời trước trao truyền cho nhau đều là ý chỉ này.
Kinh: “Anan,
ông thường trong Ý duyên với ba tánh thiện, ác và vô ký sanh ra có các
pháp trần. Những pháp trần đó tức nơi tâm mà sanh ra, hay là rời ngoài tâm
mà có riêng nơi chốn?
“Anan, nếu tức
nơi tâm thì các pháp không phải là trần cảnh, như thế thì chúng không phải
là cái sở duyên của tâm, làm sao thành một Xứ được?
“Nếu rời ngoài
cái tâm có riêng nơi chốn, thì bản tánh của pháp trần là có biết hay không
có biết? Nếu có biết thì gọi là tâm, nhưng nếu nó khác với ông và không
phải là trần cảnh, thì cũng như là cái tâm của người khác. Còn nếu nó tức
là ông và cũng tức là tâm, thì làm sao mà cái tâm ông lại trở thành hai ở
nơi ông?
“Nếu không có
biết thì cái pháp trần đó đã không phải là sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp,
lạnh, nóng và tướng hư không, thì nó hiện ở chỗ nào? Hiện nay, ở nơi Sắc
Không, không thể chỉ ra nó được, chẳng lẽ trong nhân gian lại có cái ngoài
hư không? Không có cảnh sở duyên thì ý căn do đâu mà lập thành một Xứ
được?
“Thế nên, phải
biết : Pháp trần cùng ý căn đều không xứ sở. Tức ý căn và pháp trần cả hai
xứ đều hư vọng, vốn chẳng phải tánh Nhân Duyên, cũng phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng: Ba
sự thiện, ác, vô ký ngay khi đối đãi với căn thì các sự ấy đều thật, nên
gọi là Thật Cảnh. Còn khi không đối đãi với cảnh, chỉ có một mình ý thức
duyên mà thôi, bèn là bóng dáng của Thật Cảnh, nên gọi là Nội Trần. Nội
trần không ra ngoài ba tánh thiện, ác, vô ký duyên ra Sắc Không, hết thảy
pháp, nên cũng gọi là Pháp Trần. Từ vô thủy đến nay, trong và ngoài huân
tập lẫn nhau, nên nói là “Sanh thành”.
Nếu nói “Pháp
tức nơi tâm”, thì tâm là năng duyên, pháp là sở duyên làm sao mà tức được.
Điều này dễ biện rõ. Nếu nói “Pháp lìa ngoài tâm”, thì cái pháp này thật ở
đâu? Cho pháp là có biết, thì đồng với tâm, mà đã đồng với tâm bèn chẳng
phải là trần cảnh vậy. Chẳng phải trần mà lại khác với ông, mà vẫn phải
gọi là tâm, tức là cũng như tâm của người khác. Chẳng phải trần mà không
khác với ông, thì sao tâm ông lại thành hai ở nơi ông, mà gọi đó là pháp
trần vậy sao? Do đó, lấy sự Có Biết mà làm nơi chốn thì không thể được.
Còn cho là Không Biết thì pháp trần ấy lấy cái gì mà bày tỏ ra được?
Pháp trần đã
chẳng phải là các tướng Sắc Không, lại chẳng phải rời ngoài Sắc Không mà
có riêng chỗ chứa lập. Ngoài sắc có hư không, hư không thì chẳng có gì ở
ngoài. Nếu pháp trần có cái Xứ để cho tâm duyên được thì chắc là hư không
đã có cái ở ngoài nó. Nhưng hư không làm gì có cái ở ngoài nó, thì tâm
duyên vào đâu?
Sở dĩ tâm mà
duyên với pháp, nghĩa là Sắc Không thì vô tri, do tri mà hiển bày. Tri thì
có phân biệt, bèn gọi đó là pháp. Nay pháp đã vô tri, lại không nơi chốn,
thì tâm tuy là có biết, mà biết cái gì? Do đó, lấy vô tri làm nơi chốn cho
pháp trần thì cũng không được. Chẳng phải có biết, chẳng phải không có
biết, thì Xứ do đâu mà lập được? Tức nơi tâm chẳng có pháp, lìa ngoài tâm
cũng chẳng có pháp, nên pháp trần không có tự tánh vậy. Thế thì chẳng phải
hư vọng sao? Pháp không xứ sở thì ý căn là không. Nên gọi đó là Diệu Chân
Như Tánh vậy.
Thiền sư Thanh
Châu Pháp Bổn thượng đường, nói: “Khởi lên âm thanh mà muốn bặt tiếng
vang, đâu biết âm thanh là gốc của tiếng vang. Giỡn bóng mà muốn trốn
hình, đâu biết hình là gốc của bóng. Lấy pháp hỏi pháp, chẳng hay pháp vốn
chẳng phải pháp. Lấy tâm truyền tâm, nào hay tâm vốn vô tâm. Tâm vốn vô
tâm, biết tâm như huyễn. Ngộ pháp chẳng phải pháp, biết pháp toàn như
mộng. Tâm, pháp không thực, chớ giả dối truy cầu. Mộng huyễn, Không hoa
nhọc gì nắm bắt! Đến vào trong ấy thì ba đời Chư Phật, một Đại Tạng Giáo,
lời lẽ Tổ Sư, Tôn Túc trong thiên hạ đều lộ bày là đám dây leo, chùm gởi,
trọn chẳng còn bám chấp. Tại sao thế? “Thái bình vốn chỗ tướng quân mong.
Không để tướng quân thấy thái bình””.
Bài kệ trong
kinh Tạp Hoa nói :
“Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân
Tâm, Ý các Tình Căn
Bởi đó thường lưu chuyển
Mà
thật không người chuyển
Pháp Tánh vốn không sanh
Thị hiệân mà có sanh
Trong ấy không Năng hiện
Cũng không vật Sở hiện
Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân
Tâm, Ý các Tình Căn
Cả
thảy: Không, Vô Tánh
Vọng tâm phân biệt: Có
Như thế mà quan sát
Tất cả đều Vô Tánh”.
Đại ý đoạn này
thật cùng với kinh mà hiển phát.
H. THU MƯỜI TÁM GIỚI
Kinh: “Lại
nữa, Anan, như sao là Mười Tám Giới vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như
Tánh?
Thông rằng:
Đối với Trần thì gọi là Căn, Căn ở trong vậy. Đối với Căn thì gọi là Trần,
Trần ở ngoài vậy. Ở khoảng giữa, mỗi mỗi phân biệt là cái Thức. Ba cái
Căn, Trần, Thức nương nhau mà thành lập, như cây lau gác lên nhau, nên có
tên là Mười Tám Giới. Ba cái ấy, có thì cùng có, không thì cùng không, vốn
không tự tánh. Đã không tự tánh, bèn vốn là Như Lai Tạng Diệu Chân Như
Tánh vậy.
Thiền sư Thùy
Lộc Bổn Tiên thượng đường, nói: “Chỗ các Pháp sanh ra là chỗ hiện bày của
tâm”. Lời nói ấy thật là cửa nẻo để vào. Thử hỏi các ông: mắt thấy hết
thảy sắc; tai nghe hết thảy thanh; mũi ngửi hết thảy mùi; lưỡi nếm hết
thảy vị; thân chạm hết thảy các thứ mềm, trơn; ý phân biệt hết thảy các
pháp. Vậy thì cái vật đối với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chỉ duy là tâm
các ông hay chẳng phải là tâm các ông? Nếu nói là duy chỉ tâm các ông, sao
chẳng cùng thân các ông làm thành một khối cho rồi? Vì sao các vật đối đãi
ấy lại ở ngoài các Căn của các ông? Các ông nếu nói vật đối với mắt, tai,
mũi, lưỡi... chẳng phải là tâm các ông thì tại sao có câu “Chỗ các pháp
sanh ra là chỗ hiện bày của tâm” lưu truyền tại thế gian, ai cũng nêu bày?
Các ông nghe lời yếu lý ấy, có hiểu không? Nếu không hiểu, hãy dụng tâm
thương lượng để được dạy cho mà hiểu, ở trong ấy chớ có lười biếng học
hỏi. Vô sự, hãy lui”.
Có vị tăng hỏi
Tổ Vân Cư : “Khi sáu cửa chẳng rõ thì như thế nào?”
Tổ Cư nói :
“Chẳng giao thiệp với duyên”.
Vị tăng hỏi :
“Thế nào là chuyện hướng thượng?”.
Tổ Cư nói :
“Người cẩn thận thì không giữ gìn”.
Ngài Đầu Tử
tụng rằng :
“Xuân đến, người đá nhìn núi xa
Oanh kêu, hoa gỗ sóng xanh nhàn
Nên biết, ngoài mây, tùng, núi đẹp
Nghìn xưa đón gió mặc năm hàn”.
Hai câu đầu
tụng về Chẳng giao thiệp với duyên. Hai câu sau tụng về Chuyện hướng
thượng. Cần rõ được sự hướng thượng mới tin Mười Tám Giới vốn là Tánh Chân
Như vậy.
Kinh: “Anan,
như chỗ ông bày tỏ: Nhãn căn và sắc trần làm duyên, sanh ra Nhãn Thức. Cái
Thức này là nhân nhãn căn sanh ra, lấy nhãn căn làm Giới; hay nhân sắc
trần sanh ra, lấy sắc trần làm Giới?
“Anan, nếu
nhân nhãn căn sanh ra, mà không có Sắc, có Không, thì không thể phân biệt,
dầu cho có cái Thức của ông cũng chẳng làm gì. Cái Thấy của ông mà không
có xanh, vàng, trắng, đỏ thì không thể biểu hiện ra được, vậy do đâu mà
lập ra Giới?
“Nếu nhân sắc
trần sanh ra, thì khi ở hư không, chẳng có sắc, lẽ ra cái Thức của ông
phải diệt mất, làm sao mà biết đó là hư không? Nếu khi sắc trần biến đổi,
ông cũng biết sắc tướng biến đổi, mà cái Thức của ông chẳng biến đổi, thế
thì do đâu mà lập sắc trần làm Giới? Nếu theo sắc mà biến đổi thì cái Giới
không thành. Nếu không biến đổi, tức là thường hằng, cái Thức đã từ sắc
sanh ra, lẽ ra không biết hư không ở chỗ nào.
“Nếu do cả hai
thứ nhãn căn và sắc trần chung nhau sanh ra, thì hợp lại ắt ở giữa phải có
chỗ lìa; còn như lìa, ắt hai cái có thể hợp lại. Như thế, thể tánh xen
lộn, làm sao thành được Giới?
“Thế nên, phải
biết: Nhãn căn, sắc trần làm duyên sanh ra Nhãn Thức Giới, cả ba chỗ đều
không. Tức là cả ba thứ Nhãn Giới, Sắc Giới và Nhãn Thức Giới vốn chẳng
phải tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng:
Cái Mười Tám Giới này, chỉ phá sáu Thức. Nói cái Thức này chẳng phải từ
mắt sanh ra mà lấy mắt làm Giới, vì Thức thì phân biệt, nhưng nếu không có
Sắc, Không thì phân biệt dùng vào đâu?
Cái Thức này
chẳng phải từ sắc sanh ra mà lấy sắc làm Giới, vì sắc thì có biến diệt,
Thức thì không đổi thay, nếu chỉ từ sắc mà ra thì làm sao biện không?
Thức ấy cũng
không nhân nhãn và sắc hợp lại mà làm ra Giới. Vì một bên có Biết (nhãn
căn) hợp với một bên không Biết (sắc trần) ắt chống nhau, làm sao mà tương
nhập? Nên nói “Ở giữa phải có chỗ lìa”.
Bảo rằng lìa
ngoài nhãn và sắc mà sanh ư? Lìa căn tức là hợp với cảnh, lìa cảnh tức
phải hợp với căn, vậy Thức thuộc bên nào? Thế nên mới nói “Xen lộn”.
Ba chỗ đồng
chẳng phải, thì Giới ở đâu mà có?
Tổ Pháp Nhãn
chỉ cây tre, hỏi vị tăng : “Thấy không?”
Vị tăng đáp :
“Dạ, thấy”.
Tổ Nhãn nói :
“Tre đến trong mắt hay mắt đến bên tre?”
Vị tăng nói :
“Đều chẳng phải như thế”.
Sau này, Tổ
Pháp Đăng riêng nói: “Khi ấy, chỉ nên bửa mắt ra mà ngó thầy”.
Tổ Quy Tông
Nhu riêng nói rằng: “Hòa Thượng chỉ là chẳng tin hai chuyển ngữ của tôi
lại có hơi thở của thiền tăng”.
Lại có vị tăng
hỏi Tổ Thiên Đồng Khải: “Như thế nào là con mắt ứng dụng không thiếu hụt?”
Tổ Đồng nói :
“Vẹn giống như mù một thứ!”
Ngài Đơn Hà
tụng rằng:
“Mù, ngọng, điếc, câm xa Thiên Chân
Mắt tợ lông mày: Đạo mới gần
Đông Quân đêm trước ngầm ban lệnh
Chốn hoàng oanh hót liễu xanh xuân”.
Ở chỗ này mà
tin được thấu đáo thì mặc tình ứng dụng không thiếu hụt.
Kinh: “Anan,
lại như chỗ ông bày tỏ: Nhĩ căn và thanh trần làm duyên, sanh ra Nhĩ Thức.
Thức ấy nhân nhĩ căn sanh ra, lấy nhĩ căn làm Giới, hay nhân thanh trần mà
sanh ra, lấy thanh trần làm Giới?
“Anan, nếu
nhân nhĩ căn sanh ra mà không có mặt hai tướng động, tĩnh thì cái biết của
căn chẳng thành. Mà đã không biết gì thì cái Biết còn không thành huống là
cái Thức phân biệt còn có hình dạng gì?
“Nếu nhân lỗ
tai nghe, mà không có động, tĩnh cái Nghe cũng không thành, làm sao lấy
hình tướng lỗ tai trộn lẫn sắc trần, mà gọi được là Nhĩ Thức Giới. Cái Nhĩ
Thức Giới ấy do đâu mà thành lập?
“Nếu nhân
thanh trần mà sanh ra, thì cái Nhĩ Thức nhân thanh trần mà có, bèn chẳng
liên quan gì đến cái Nghe, mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng
thanh trần ở đâu. Nhĩ Thức mà do thanh trần sanh ra, dầu cho rằng thanh
trần do cái Nghe mà có tướng, thì cái Nghe lẽ ra phải nghe được Nhĩ Thức.
Nếu không nghe được Nhĩ Thức thì thanh trần chẳng phải là Giới của Nhĩ
Thức. Còn nếu nghe được, thì Nhĩ Thức cũng đồng với thanh trần. Nhĩ Thức
đã bị nghe, thì cái gì biết sự nghe được cái Nhĩ Thức đó? Còn nếu không ai
biết thì rốt cuộc giống như cỏ cây.
“Chẳng lẽ
thanh trần và cái Nghe trộn lẫn thành ra cái Giới ở giữa? Giới không có ở
giữa thì các tướng nội căn, ngoại trần do đâu mà thành?
“Thế nên, phải
biết: Nhĩ căn, thanh trần làm duyên sanh ra Nhĩ Thức Giới, cả ba chỗ ấy
đều không. Tức là ba thứ Nhĩ Giới, Thanh Giới và Nhĩ Thức Giới vốn chẳng
phải là tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng:
Tiểu thừa cho rằng “Nhân Duyên sanh ra pháp”, lấy đó làm thật có, chẳng
hiểu được “Tức Không” nên Phật căn cứ vào chỗ Nghe, Thấy thường ngày ấy mà
phá bỏ.
Nếu nhân nhĩ
căn mà sanh ra, thì nhĩ căn có Thắng Nghĩa Căn và Phù Trần Căn. Thắng
Nghĩa Căn biết phân biệt, nhưng nếu không có thanh trần tiếp xúc thì cái
Biết còn không có, huống là có hình tượng gì ? Phù trần căn thì dù có xen
tạp với sắc trần, mà nếu không có hai tướng động, tĩnh thì cái Nghe còn
không có, huống là có Thức Giới! Cho nên, nếu nói “Nhĩ Thức nhân Nhĩ Căn
sanh ra”, là sai lầm.
Nếu nhân thanh
trần mà sanh ra, thế thì thanh trần đã tự có Nhĩ Thức, cần gì đến tai
nghe? Đã không có người nghe, thì ai phân biệt được các thanh trần? Nếu
nói nương nhau mà sanh, cho là thanh trần nhân cái Nghe mà có tướng, thì
cũng phải cho rằng cái Nghe nhân thanh trần mà nghe được Nhĩ Thức. Nhĩ
Thức đã bị nghe, thì cũng chỉ là thanh trần, thì còn cái gì làm năng tri
để biết rằng đã nghe Nhĩ Thức? Nếu cùng cái Biết, thì thành ra có hai cái
Thức! Còn nếu không có cái Biết, thì đồng với cỏ cây. Nên nói “Thức sanh
ra nơi Thanh Trần” là sai lầm vậy.
Nếu nói rằng
“Thanh Trần và cái Nghe hòa hợp mà sanh ra Nhĩ Thức”, thì một bên là có
Biết, một bên là không có Biết, giữa khoảng Biết và Không Biết đó, làm sao
mà trộn lẫn để thành ra cái Giới? Cái Giới ở giữa đã không có, thì Thức
không chỗ nương, thế thì nội căn, ngoại trần do đâu mà thành lập? Nên nói
“Thanh Trần và cái Nghe hòa hợp mà sanh” là sai lầm vậy.
Ba chỗ đều
không, thì Nhĩ Thức chẳng sanh, nên biết cái Nhĩ Thức vô sanh ấy tức là
Tánh Chân Như vậy.
Có lần, Đức
Thế Tôn đang ngồi dưới cây Ni Câu Luật, có người đi buôn hỏi : “Ngài có
thấy xe đi qua không?”
Ngài nói :
“Chẳng thấy”.
Lại hỏi : “Lại
có nghe chăng?”
Đáp : “Chẳng
nghe”.
Hai người đi
buôn hỏi : “Không thiền định sao?”
Đáp : “Không
thiền định”.
Hỏi : “Không
phải ngủ sao?”
Đáp : “Không
ngủ”.
Người đi buôn
tán thán : “Lành thay! Lành thay! Thế Tôn thường biết mà chẳng thấy!” Bèn
cúng dường lên hai cây vải trắng.
Có vị sư hỏi
thiền sư Hà Trạch Thần Hội: “Khi cái thấy, nghe chiếu thanh, sắc thì đồng
thời hay có trước sau?”
Tổ Hội nói:
“Đồng thời hay trước sau hãy để đó. Rốt ráo, ông lấy cái gì làm thanh,
sắc?”
Vị sư nói:
“Như chỗ chỉ bày của thầy, thì không có thanh, sắc nào khá được”.
Rồi quỳ lạy mà
đi ngay hôm đó. Sau sư ở ẩn tại núi Mông.
Có vị Tam Tạng
xứ Thiên Trúc tên là Thanh Minh đến xứ Mân. Vua xứ Mân mời Ngài Huyền Sa
đến để nghiệm luận.
Tổ Sa lấy
chiếc đũa sắt gắp lửa gõ vào cái lư đồng, rồi hỏi: “Đó là tiếng gì?”
Vị Tam Tạng
đáp: “Tiếng đồng-sắt”.
Tổ Sa nói:
“Đại Vương chớ để người ngoại quốc lừa dối!”
Vị Tam Tạng
không đáp được.
Ngài Thiên
Đồng nêu ra rằng: “Hợp với Lý thì đó là Thần: gã nghèo được viên ngọc
trong tay áo. Bị Tình gói kín thì đó là Vật: người lực sĩ mất viên ngọc
trên trán! Vị Tam Tạng chỉ biết nhìn tới trước. Ngài Huyền Sa lại chẳng
thể ngó lui. Hiểu được chăng? Đặt bày điều tội cho người thì tội càng
lớn”.
Cái tắc công
án này, các vị tôn túc nói rất nhiều.
Vị Tam Tạng
nói “Tiếng đồng-sắt” thì rõ ràng đuổi theo thanh trần rồi vậy.
Tổ Pháp Nhãn
riêng nói : “Thỉnh Đại Sư làm Đại Vương”.
Tổ Pháp Đăng
riêng nói : “Hãy nghe Hòa Thượng hỏi!”
Tổ Tuyết Đậu
nói : “Chớ lừa dối người ngoại quốc thì tốt”.
Ở chỗ vị Tam
Tạng không trả lời được, Ngài Pháp Nhãn thay thế mà nói rằng: “Đại Sư đã
hưởng thọ lâu rồi sự cúng dường của Đại Vương”.
Tổ Pháp Đăng
nói thay: “Ấy là Hòa Thượng lừa dối Đại Vương!” Câu nói này rất có ý vị,
đó là chỗ Ngài Thiên Đồng nói “Đặt bày điều tội cho người thì tội lại càng
lớn” đó vậy.
Cứ theo ý Tổ
Huyền Sa thì gọi cái gì là tiếng đồng-sắt? Còn theo ý vị Tam Tạng thì gọi
cái gì chẳng phải là tiếng đồng-sắt? Hai lời này rất dễ lừa người. Phải
mỗi mỗi đều nhìn thấu mới chẳng bị người lừa.
Kinh: “Anan,
lại như chỗ ông bày tỏ: Tỷ căn và hương trần làm duyên, sanh ra Tỷ Thức.
Thức ấy nhân tỷ căn sanh ra, lấy tỷ căn làm Giới, hay nhân hương trần sanh
ra, lấy hương trần làm Giới?
“Anan, nếu
nhân tỷ căn sanh ra, thì trong tâm ông, lấy cái gì làm tỷ căn? Lấy cái
hình tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy sự ngửi biết lay động làm tỷ
căn?
“Nếu lấy cái
hình tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân và cái biết của thân là cái cảm
xúc. Đã gọi là thân thì không phải là lỗ mũi, gọi là cảm xúc thì thuộc về
trần. Vậy còn không có gì để gọi là tỷ căn, làm sao mà Giới được thành
lập?
“Nếu lấy cái
Ngửi Biết làm tỷ căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái biết? Nếu lấy
lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc trần, chứ không phải là tỷ
căn. Nếu lấy hư không làm cái Biết, thì hư không ắt tự biết, còn xác thịt
lẽ ra chẳng biết. Như thế, lẽ ra hư không phải là ông! Thân ông mà chẳng
biết, thì Ông Anan hiện giờ chẳng còn ở đâu nữa.
“Nếu lấy cái
hương làm cái biết, thì cái biết thuộc về hương trần, nào dính dáng gì đến
ông?
“Nếu mùi thơm,
mùi thối sanh ra do tỷ căn của ông, thì hai mùi thơm, thối kia không sanh
ra do cây y lan và cây chiên đàn, hai vật đó không đến, thì ông tự ngửi lỗ
mũi là thơm hay thối! Thối thì chẳng phải thơm; thơm thì không phải thối.
Nếu cả hai mùi thơm, thối đồng ngửi được cả, thì một người ông phải có hai
tỷ căn, đứng trước Ta hỏi đạo lại có hai Anan, thế thì ai mới là cái thể
của ông? Nếu tỷ căn là một, thì thơm, thối không hai. Thối đã thành thơm,
thơm đã thành thối, hai tánh đó đã không có, thì Giới do đâu mà thành lập?
“Lại nếu nhân
hương trần mà sanh, thì Tỷ Thức đã nhân hương trần mà có, cũng như như
nhân con mắt mà có Thấy, thì không thể thấy con mắt: Tỷ Thức nhân hương mà
có, lẽ ra không biết được hương trần. Nếu biết được hương trần thì không
phải do hương trần sanh ra, còn nếu không biết được hương trần thì không
phải là Tỷ Thức. Hương trần mà không biết là có, thì cái Giới của hương
không thành. Tỷ Thức mà không biết hương trần, thì cái Giới của nó không
phải do hương trần mà lập. Đã không có cái Thức ở khoảng giữa thì nội căn,
ngoại trần cũng không thành, thì các thứ Ngửi Biết kia rốt ráo là hư vọng.
“Thế nên, phải
biết tỷ căn và hương trần làm duyên, sanh ra Tỷ Thức Giới, cả ba chỗ đều
không. Tức là ba thứ Tỷ Giới, Hương Giới và Tỷ Thức Giới vốn chẳng phải
tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng:
Cái Mũi là Căn. Hương là Cảnh. Ở giữa hai cái ấy là Thức. Phàm nói Giới là
chuyên để chỉ Thức. Cái Thức này không ở nơi Căn mà sanh, không ở nơi
Hương mà sanh, đại ý tương tợ, nhưng văn nghĩa có hơi phức tạp.
Mượn cảnh để
phá căn, thì Thức chẳng phải do hư không sanh, mà là ở giữa. Ngay nơi cảnh
mà phá căn, thì Thức chẳng do hòa hợp mà sanh ra, cũng là dễ thấy. Ban đầu
phá phù trần căn, cái mũi thịt chẳng phải là cái Biết. Rồi phá thắng nghĩa
căn, lại không phải hư không là cái Biết. Nếu cái Biết ở hương, thì can dự
gì đến lỗ mũi? Mà đã sanh ở lỗ mũi thì cần gì đến vật ? Nếu đồng ngửi được
cả thơm thối, thì phải có hai mũi, vậy thì cái căn đâu có đủ để căn cứ. Đã
chỉ một cái mũi, sao lại có hai mũi, vậy cái cảnh cũng không đủ làm bằng
cớ. Do đó, nói “Tỷ Thức do nơi Căn sanh”, là sai vậy.
Nếu nói “Tỷ
Thức do hương trần sanh ra”, thì đáng lẽ không biết được hương, cũng như
cái thấy do con mắt mà có ra thì không thể trở lại thấy con mắt. Nếu nói
là Biết, thì hương trần tự có Thức, nào cần phải nói là sanh ra? Nếu nói
là không Biết, thì không thể gọi là Thức, thì Giới do đâu mà lập? Do đó,
nói rằng “Thức do Hương Trần sanh”, là sai lầm vậy.
Hương trần đã
không thể tự biết mùi của nó, thì căn với trần lìa nhau, chứ không thể hợp
được. Mà Thức nếu từ hương trần sanh ra, thì chẳng thể biết hương trần.
Còn biết được hương trần, thì hẳn là chẳng phải từ hương sanh ra. Đó là
căn, cảnh lìa nhau, vốn chẳng nương nhau vậy. Nên nói rằng “Tỷ Thức do Căn
và Cảnh hợp nhau mà sanh”, là sai lầm vậy.
Cái Giới của
hương không thành, thì không thể ở giữa. Đã không có cái giữa, lấy đâu có
trong, có ngoài ! Rõ là Tỷ Thức hư vọng, vốn không xứ sở, bèn hiểu tánh
Ngửi Biết là Không, chẳng có tánh Nhân Duyên hay Tự Nhiên nào khá được.
Phẩm Pháp Giới
của kinh Hoa Nghiêm : Trưởng giả Chúc Hương Ưu Bát La Hoa khéo phân biệt
mà biết tất cả mùi hương, cũng biết điều hòa tất cả Hương Pháp, cho đến
nơi chốn bay ra của Hương Vương. Lại khéo biết trị các bệnh của hương,
đoạn trừ các hương xấu, mà sanh ra Hoan Hỷ Hương, tăng Trí Huệ Hương, diệt
Phiền Não Hương. Khiến ở Vô Vi mà sanh Ưa Luyến Hương, ở nơi Hữu Vi mà
sanh Chán Lìa Hương, xả bỏ các Kiêu Dật Hương, phát tâm Niệm Phật Hương,
chứng Giải Thoát Pháp Môn Hương, Thánh Sở Thọ Dụng Hương, Nhất Thiết Bồ
Tát Sai Biệt Hương, Nhất Thiết Bồ Tát Địa Vị Hương.
Ngài dạy : “Ta
chỉ biết môn Điều Hòa Hương Pháp này, cũng như các Bồ Tát lìa xa hết thảy
các ác tập khí, chẳng nhiễm thế dục, cầu cắt lìa lưới phiền não của bọn
ma, vượt khỏi các nẻo luân hồi. Lấy Trí Huệ Hương mà tự trang nghiêm, nơi
mọi thế gian đều không nhiễm trước, thành tựu đầy đủ Giới “Không Chỗ Bám”,
làm trong sạch Trí “Không Bám”, Hành cái “Không Bám Cảnh”, nơi hết thảy
chốn đều không chỗ bám níu, tâm đều bình đẳng, không bám, không nương”.
Xưa, có một
tôn giả đi qua hồ sen. Vị Thần sen trách rằng: “Không được trộm hương thơm
của tôi”.
Vị tôn giả bèn
hỏi: “Người đời qua lại, ai chẳng ngửi mùi thơm, đâu chỉ một mình ta ngửi
trộm sao?”
Vị Thần nói:
“Người đời tán loạn tâm, nên chẳng gọi là trộm. Tôn giả đây tâm trong
sạch, nên có chút bám dính thì chẳng được!”
Tỷ Thức chưa
dễ hàng phục vậy! Thế nên, hộ trì cái Tâm Vô Trước mà ngao du cõi đời, đó
là “Khéo phân biệt mà biết tất cả mùi hương”, thì không gì mà chẳng có
thể.
Kinh: “Anan,
lại như chỗ ông bày tỏ: Thiệt căn và vị trần làm duyên, sanh ra Thiệt
Thức. Thức ấy nhân thiệt căn sanh ra, lấy thiệt căn làm Giới, hay nhân vị
trần sanh ra, lấy vị trần làm Giới?
“Anan, nếu
nhân thiệt căn sanh ra, thì trong thế gian mía ngọt; mơ chua; hoàng liên
đắng; muối mặn; tế tân, gừng, quế hết thảy đều không có Vị. Ông tự nếm cái
lưỡi, là ngọt hay đắng? Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì để nếm cái
lưỡi? Lưỡi chẳng thể tự nếm, thì lấy gì mà có hay biết? Nếu lưỡi không
đắng, vị tự chẳng sanh ra, làm sao lập thành Giới?
“Nếu nhân vị
trần mà sanh ra, thì Thiệt Thức đã là vị rồi, đồng như thiệt căn, không
thể tự nếm, làm sao mà biết là vị hay chẳng phải vị? Lại tất cả các vị
chẳng phải do một vật sanh ra. Các vị đã do nhiều vật sanh ra, thì cái
Thiệt Thức nếu do vị trần sanh, cũng phải có nhiều tự thể. Nếu Thiệt Thức
là một thể và thể đó do vị sanh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay, các
tướng khác nhau này phải chỉ là một vị, không thể phân biệt. Không có phân
biệt, thì không có Thức, làm sao còn gọi là Thiệt Thức Giới? Chẳng lẽ hư
không sanh ra cái Thức Phân Biệt của ông?
“Thế thì cái
Thức ở giữa do thiệt căn và vị trần hòa hợp mà sanh, vốn không tự tánh,
làm sao mà cái Giới có được?
“Vậy nên phải
biết: Thiệt căn, vị trần làm duyên, sanh ra Thiệt Thức, cả ba Xứ đều
Không. Tức là Thiệt Giới, Vị Giới và Thiệt Thức Giới vốn chẳng phải Tánh
Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng:
Ban đầu, bác bỏ “Nhân thiệt căn sanh”, là phá cái lý Tự Sanh. Thứ hai là
bác bỏ “Nhân vị trần sanh”, là phá cái lý Cái khác sanh. Thứ ba là bác bỏ
“Hư không sanh”, là phá cái lý Không nguyên nhân mà sanh. Thứ Tư bác bỏ
“Lưỡi và vị hòa hợp mà sanh”, là phá cái lý Chung nhau sanh. Tức ở trong
đó, vốn không tự tánh, thiệt căn chẳng thể tự nếm mùi, mùi vị cũng chẳng
tự nếm biết, thì Thức do đâu mà sanh? Chính là hiển bày ý chỉ Vô Sanh.
Biết Thiệt Thức vốn Vô Sanh, thiệt căn vốn tự trong sạch, tức là Diệu Chân
Như Tánh vậy.
Xưa, có vị
thiền sư ăn uống hỗn tạp, không chọn lựa, nhiều đệ tử bắt chước theo. Một
bữa nọ, bày một bữa cúng ở chỗ thiêu xác người chết, rồi lấy thịt thiêu
còn sót, gồm chung vào rồi ăn. Đệ tử đều ói mửa, chạy mất.
Sư bèn nói:
“Ta nhiều đời thanh tịnh, nên mới không chọn lựa. Các ông có thể cùng với
ta ăn món này, mới nên duy trì việc ăn uống”.
Từ đó, cả
chúng sợ hãi mà lo vâng giữ Giới Luật.
Tổ Tào Sơn
cũng ưa rượu.
Có vị tăng
hỏi: “Áo linh không khoác thì như thế nào?”
Đáp: “Tào Sơn
này trọn hiếu! [Đây nghĩa là xứng Tánh]”
Hỏi : “Trọn
hiếu rồi thì như thế nào?”
Tổ đáp : “Tào
Sơn khoái rượu từ Tôn Đảnh”.
Có đệ tử tên
là Thuế Thanh, bạch hỏi: “Đệ tử cô bần, xin thầy cứu giúp”.
Tổ Sơn gọi
lớn: “Thuế Xà Lê!”
Sư Thuế ứng
tiếng: “Dạ!”
Tổ Sơn nói:
“Rượu Thanh Nguyên [Phái Tào Động xuất phát từ Ngài Thanh Nguyên Hành Tư]
trắng trong, uống rồi ba chén sao còn bảo chưa thấm môi!”
Tổ Huyền Giác
nói : “Ở chỗ nào mà cho là có uống!”
Ba tắc này là:
Tánh của Vị vốn Không, Thiệt Thức cũng vốn Không. Liễu đạt mới gọi rằng
“Biết mùi vị”.
Kinh : “Anan,
lại như chỗ ông bày tỏ: Thân căn và xúc trần làm duyên sanh ra Thân Thức.
Thân Thức này do thân căn sanh ra, lấy thân căn làm Giới, hay nhân xúc
trần sanh ra, lấy xúc trần làm Giới?
“Anan, nếu
nhân thân căn sanh ra, mà không có hai cảm xúc hợp và lìa, thì thân căn
còn biết gì? Nếu nhân xúc trần sanh ra, mà không có thân căn của ông, thì
có ai chẳng có thân mà lại biết chuyện hợp, lìa được?
“Anan, vật thì
không biết cảm xúc, thân căn có biết mới có cảm xúc. Tức nơi cảm xúc, biết
có thân. Tức nơi thân căn, mà biết cảm xúc. Nhưng nơi Xúc, thì không phải
là thân, nơi thân thì không phải là Xúc. Hai tướng thân và xúc, vốn không
xứ sở. Nếu Xúc hợp với thân, thì làm thể tánh của thân. Lìa thân thì chẳng
có thể tánh nào, bèn như tướng hư không. Nội căn, ngoại trần đã không
thành, cái Thức ở giữa làm sao mà lập? Giữa chẳng lập được, trong ngoài
đều là Tánh Không, thì cái Thân Thức của ông do đâu mà lập thành Giới?
“Thế nên, phải
biết: Thân căn và xúc trần làm duyên, sanh ra Thân Thức, cả ba chỗ đều
Không. Tức là cả ba thứ Thân Giới, Xúc Giới và Thân Thức Giới vốn chẳng
phải Tánh Nhân Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng:
Câu “Vật thì không biết cảm xúc”, nghĩa là vật có thể chạm biết. Vật thì
thật, cái Biết thì hư. Cái thật với cái hư chẳng có tiếp xúc với nhau. Cho
nên, vật thì chỉ tiếp xúc với vật, không thể tiếp xúc với cái Biết. Một
chữ Biết này bày rõ ràng ra cái Pháp Thân trong sạch, chẳng phải là chỗ mà
sự chạm xúc có thể tới được.
Cái Thân biết
có cảm xúc là do sắc thân phân biệt mà Biết, lấy hai chỗ hợp, lìa làm
duyên. Cảm xúc không lìa thân căn, thân căn cũng không lìa cảm xúc. Nhưng
nói cảm xúc thì chẳng phải là thân căn, nói thân căn thì chẳng phải là cảm
xúc, hai cái ấy thật là không thể xác định. Do đó, nếu hợp lại thì chỉ có
một thân thể, mà cái Cảm Xúc ở tại đâu? Nếu lìa nhau, thì Xúc không còn,
đồng như hư không vậy. Cả hai đều không có ở đâu, trong ngoài đều không
thành tựu. Thân và Xúc đều không nơi chốn, thì Thân Thức do đâu mà thành
lập? Đã không có cái Thức ở giữa, thì căn và cảnh rốt ráo là không. Thế
nên biết cái Thân Thức Giới chỉ là hư vọng.
Thiền sư Nam
Nhạc Huệ Tư đã đắc túc mạng thông, bỗng nhiên lại bị nghiệp chướng khởi
lên, tay chân rũ liệt, không thể đi đứng. Ngài tự nghĩ rằng: “Bệnh từ
nghiệp sanh, nghiệp từ tâm khởi. Nguồn tâm vốn chẳng khởi, ngoại cảnh đâu
có hình trạng gì? Bệnh, nghiệp và thân đều như bóng mây!” Quán như thế,
tướng điên đảo diệt, nhẹ nhàng yên ổn như xưa. Như Ngài mới có thể nói là
rõ thấu Thân Thức là hư vọng vậy.
Thiền sư Hưng
Dương Phẩu nằm bệnh.
Ngài Đại Dương
đến thăm, hỏi: “Thân này như bọt huyễn, mà có ở trong bọt huyễn mới thành
biện xét. Nếu không có cái bọt huyễn này, thì chuyện đại sự chẳng do đâu
mà nghiệm xét. Nếu muốn xét chuyện đại sự, thì Thức lại giữ lấy cái bọt
huyễn này, làm sao đây?”
Tổ Phẩu nói:
“Vẫn còn là chuyện bên này”.
Đại Dương hỏi
: “Thế chuyện bên kia thì làm sao?”
Tổ Phẩu nói :
“Quanh đất vừng hồng đẹp, đáy biển chẳng trồng bông” [“Táp địa hồng luân
tú, hải để bất tài hoa”].
Đại Dương cười
nói : “Ông còn tỉnh táo không?”
Tổ Phẩu quát :
“Sắp nói ta quên mất à!”
Rồi liền tịch.
Như Tổ Hưng
Dương Phẩu có thể nói là thấu rõ cái Pháp Thân Hướng Thượng Sự vậy.
Có vị sư hỏi
Ngài Đại Long: “Sắc thân thì hư hoại, như thế nào là cái Pháp Thân kiên
cố?”
Tổ Long nói:
“Hoa núi nở dường gấm. Nước khe trong như lam”.
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng:
“Hỏi, từng chẳng biết
Đáp, lại chẳng hiểu
Trăng lạnh gió cao, đỉnh xưa thông lạnh
Cười vui thay
Giữa đường gặp được người đắc đạo
Chẳng lấy nói, im đối đãi cùng
Tay cầm roi bạch ngọc đánh vụn ngọc Ly Châu
Đánh chẳng nát, thêm dấu vết!
Nước có hiến chương, thêm ba ngàn điều tội!”.
Theo bài tụng
này thì cái Kiên Cố Pháp Thân còn phải đập cho nát, huống là cái Sắc Thân
đó ư?
Kinh: “Lại như
chỗ ông bày tỏ: Ý căn và pháp trần làm duyên, sanh ra Ý Thức. Thức đó là
nhân ý căn sanh ra, lấy ý căn làm Giới, hay nhân pháp trần sanh ra, lấy
pháp trần làm Giới?
“Anan, nếu
nhân ý căn sanh ra, thì trong ý ông chắc phải có chỗ suy nghĩ mà phát rõ
ra cái ý của ông; nếu không có các pháp trần thì ý không có chỗ sanh ra.
Lìa các duyên trần, ý căn còn không có hình tướng, thì cái Thức đem dùng
vào chỗ nào?
“Lại cái Thức
Tâm của ông cùng các sự nghĩ suy, các sự rõ biết là đồng nhau hay khác
nhau. Nếu đồng với ý căn, tức là ý căn rồi, làm sao lại do ý căn sanh ra?
Nếu khác mà không đồng với ý căn, thì lẽ ra không có biết gì. Nếu không có
chỗ Biết, thì làm sao lại do ý căn sanh ra? Còn nếu có chỗ Biết, làm sao
biết được ý căn? Khi hai tánh đồng nhau và khác nhau đều không thành, Giới
do đâu mà lập?
“Nếu Ý Thức do
pháp trần sanh ra, thì các pháp trong thế gian không ngoài năm Trần. Ông
hãy xem các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc đối với năm căn đều có hình
tướng rõ ràng, chẳng phải chỗ thu nhiếp của ý căn. Nếu Ý Thức của ông
quyết định nương nơi pháp trần mà sanh ra, thì ông hãy xem xét kỹ, mỗi
pháp có hình trạng gì? Nếu lìa ngoài sắc không, động tĩnh, thông bít, lìa
hợp, sanh diệt, vượt ngoài các tướng này, rốt ráo là không chỗ đắc. Sanh
thì các pháp Sắc Không đều sanh ra, diệt thì các pháp Sắc Không đều diệt.
Các nguyên nhân đã không, thì cái thức có là do chúng sanh ra, nào có hình
tướng gì đâu? Tướng trạng không thể có, Giới do đâu mà sanh?
“Thế nên, phải
biết: Ý căn, pháp trần làm duyên, sanh ra Ý Thức, ba chỗ này đều không.
Tức là ba thứ Ý Giới, Pháp Giới và Ý Thức Giới vốn chẳng phải tánh Nhân
Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên.
Thông rằng:
Cái Ý Thức Giới này là Tánh Hiểu Biết, Phân Biệt của Thức Thứ Sáu. Đã lấy
sự Biết do Phân Biệt làm tánh, thì lìa ngoài pháp hẳn không có duyên, ý
bèn chẳng sanh. Lìa Duyên thì vô hình, vậy Ý Thức dùng vào đâu? Thế thì
cái Thức duyên theo pháp này, rõ ràng không sanh ra nơi ý căn. Nếu nói ý
căn hay phân biệt mà sanh ra Ý Thức, vậy thì Thức Thứ Bảy làm chỗ nương
cho sự nhiễm, tịnh và Thức Thứ Tám là Thức Tâm làm chỗ nương dựa căn bản
của mọi Thức, đối cùng Thức Thứ Sáu có tánh hiểu biết do phân biệt là đồng
hay là khác?
Kinh Lăng Già
nói: Tâm (Thức Thứ Tám) hay tích nhóm Nghiệp Ý (Thức Thứ Bảy), hay mở rộng
sự tích nhóm, hiểu biết do phân biệt gọi là Thức, đối đãi với hiện cảnh
thì có năm Thức.
Luận Duy Thức
nói: Tập Khởi gọi là Tâm, suy lường gọi là Ý, hiểu biết cảnh gọi là Thức.
Chỉ là một pháp mà khác tên.
Đã duy chỉ một
pháp, đều có thể gọi là Tâm, đều có thể gọi là Ý, đều có thể gọi đó là
Thức. Nhưng sự tinh vi ấy có thể biện biệt, có nhiều thứ ấy mà đặt tên
vậy.
Ở trong Thức
Thứ Tám, Ý và Thức đều không còn, nên chỉ có thể gọi là Tâm.
Ở Thức Thứ
Bảy, chẳng phải Tâm, chẳng phải Thức, chỉ có thể gọi là Ý.
Ở Thức Thứ
Sáu, thì Tâm và Ý đều đối đãi với Cảnh, nên gọi là Thức Phân Biệt sự vật.
Kỳ thật chỉ là
một. Như biển khởi sóng: không khác cũng không không khác. Thức Thứ Sáu
đuổi theo Trần sanh ra Gió Cảnh Giới, liền khởi động các sóng Suy Lường
của Thức Thứ Bảy, mà thật chẳng rời cái biển lặng chứa của Thức Thứ Tám.
Ba Thức này chẳng phải đồng, chẳng phải khác, cứ hãy tạm để đó.
Bây giờ, nói
về chuyện Ý sanh ra Thức. Nếu nói Thức đồng với Ý thì Thức là Ý, làm sao
gọi Ý là cái Năng Sanh và Thức là cái Được Sanh ? Nói là đồng thì không
được vậy. Nếu nói Thức khác với Ý, hoàn toàn chẳng đồng thì một cái thuộc
hữu tình, một cái thuộc vô tình, lẽ ra không có chỗ Biết, vậy bảo khác
nhau thì không thể được. Nếu không có chỗ Biết, thì chắc chẳng phải do Ý
sanh. Ý phân biệt được cái chỗ Sở Sanh thì phải có cái Thức ở trong ấy.
Nếu có chỗ để biết, thì khi Ý sanh mà không có pháp nào để duyên, thì chỉ
có cái Ý làm sao mà tự biết cái Ý ? Nếu cho là Biết cái Ý, thì cái Ý trở
lại thành cảnh, không còn là căn được. Nếu không biết cái Ý, lại giống như
không có Thức, thì sao nói là Ý sanh Thức?
Rời ngoài pháp
mà tìm cái Thức, rất khó hình dung: nếu nói là đồng, thì không còn có thể
gọi là Sanh ra; nếu gọi là khác thì không thể gọi được là Thức. Thế là hai
tánh đồng nhau, khác nhau đều không thành tựu. Thức không có chỗ định,
Giới làm sao lập thành? Do đó mà nói Thức do căn sanh là hư vọng vậy.
Nếu nói Thức
duyên với pháp trần mà hiện, nhân pháp mà có sanh ra, thế thì phải có pháp
khá hình dung ra được rồi mới có thể làm Nhân. Nay các pháp của thế gian
chẳng thể ngoài năm trần, đối đãi năm căn, và làm cái sở nhân của năm
Thức. Ý có thể lìa ngoài năm Trần này mà riêng có tướng trạng của các pháp
để làm sở nhân không? Cái nội cảnh mà Ý tự duyên, tuy không nhờ năm căn
bên ngoài nhưng rốt cuộc không thể ra khỏi bóng dáng của Sắc Không, sanh
diệt... các pháp. Dầu có duyên các pháp xuất thế gian là Phi Sắc, Phi
Không, Bất Sanh Bất Diệt nhưng cái phi sắc phi không cũng do Sắc Không mà
hiển, cái bất sanh bất diệt cũng do sanh diệt mà bày. Rốt là chẳng có thể
rời ngoài Sắc Không, sanh diệt mà có riêng được cái pháp trần để làm nhân
sanh Thức. Ở nơi năm Trần mà tìm pháp thì Trần là nhân của ngũ căn, chẳng
phải là nhân của Ý. Mà rời năm Trần để cầu pháp, thì không có pháp nào để
được. Đã không thể đắc, thì không có Nhân vậy. Nhân mà không có, lấy gì
sanh ra ? Nếu không có Nhân mà nói là có Thức sanh ra, thì Thức này chẳng
thể nào phân biệt các pháp. Còn nếu phân biệt được các pháp thì tạo ra
được tướng trạng gì ? Tướng trạng không có, Thức thật chẳng sanh. Nên nói
là nhân pháp mà Thức sanh là sai lầm vậy. Đã chẳng phải Ý sanh, lại chẳng
phải Pháp sanh, thì Ý Thức ở tại chốn nào? Không có nơi chốn, tức là chốn
Chân Thật vậy.
Xưa, Thượng
Tọa Quốc Thanh Tịnh hỏi Tổ Trường Sa: “Như trong kinh dạy : không thể lấy
cái tâm có chỗ biết mà đo lường nổi cái Tri Kiến Vô Thượng của Như Lai,
thế thì làm sao?”
Tổ Sa nói:
“Ông hãy nói xem: cứu xét cho cùng cái tâm có chỗ biết này, lại có đo
lường nào được nổi chăng? Theo đó mà tin nhập”.
Sau này, có vị
tăng hỏi: “Đệ tử mỗi đêm ngồi thiền, tâm niệm tán loạn, chưa biết cách nào
nhiếp phục. Xin thầy chỉ bảo”.
Ngài Quốc
Thanh Tịnh trả lời: “Nếu ban đêm ngồi tịnh mà niệm niệm lăng xăng, thì lấy
cái tâm lăng xăng đó cứu xét cái chỗ lăng xăng. Thấy là nó không có xứ sở,
thì cái tâm niệm lăng xăng đó đâu còn! Cứ xét ngược lại cái tâm, thì cái
tâm cứu xét đó đâu có tại chỗ nào. Trí chiếu soi vốn không, cái cảnh để
duyên cũng tĩnh lặng vậy. Chiếu mà chẳng chiếu, tuyệt không có cảnh để
chiếu soi vậy. Cảnh, Trí đều tịch diệt, tâm lượng an nhiên. Ngoài chẳng
tìm cầu lấy sự tán loạn, trong chẳng trụ nơi định tĩnh. Hai đường dứt bặt,
một Tánh suốt nhiên. Đây là yếu đạo về nguồn vậy”.
Tổ Dược Sơn
đang ngồi, có vị tăng hỏi : “Ở cái chỗ bằng phẳng, suy nghĩ cái gì?”
Tổ Sơn nói :
“Suy nghĩ cái thật chẳng có suy nghĩ”.
Hỏi : “Cái
chẳng suy nghĩ đó, làm thế nào suy nghĩ ?”
Tổ Dược Sơn
nói : “Tuyệt chẳng suy nghĩ !”
Có vị tăng hỏi
thiền sư Thục Châu Tây : “Thế nào là chỗ Phi Tư Lượng?”
Ngài đáp : “Ai
thấy một chấm trong đêm tối giữa hư không?”
Ngài Đơn Hà
tụng rằng :
“Một điểm linh minh, sáu chẳng thâu
Rõ
thay, nào phải sững mắt vào
Tin tức trong kia, người khó rõ
Chỉ có hư không một điểm mù”.
(Nhất điểm linh minh lục bất thâu
Chiêu nhiên hà dụng cánh ngưng mâu
Cái trung tiên tức nhân nan ủy
Độc hữu hư không ám điểm đầu).
Cho nên, rõ
được chỗ Tâm Thức chẳng thể đến được, bèn thấu suốt nguồn cội của Thức
vậy. |