PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG I: CHỈ BÀY CHÂN TÂM
MỤC BẢY: TÓM THU VỀ NHƯ LAI TẠNG
II. THU BẢY ĐẠI
Kinh: Ông Anan
bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, Như Lai thường nói về Nhân Duyên Hòa Hợp rằng:
Tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều do bởi bốn Đại hòa hợp mà phát
hiện ra. Thế sao Như Lai đều bài bác cả hai nghĩa Nhân Duyên và Tự Nhiên?
Nay tôi không biết nghĩa ấy thế nào, xin Phật rủ lòng thương xót khai thị
cho chúng sanh nghĩa rốt ráo của Trung Đạo, không còn các pháp hý luận”.
Lúc bấy giờ,
Thế Tôn bảo Ông Anan rằng: “Trước ông đã chán lìa các pháp Tiểu Thừa Thanh
Văn, Duyên Giác mà phát tâm quyết cầu Bồ Đề Vô Thượng, nên ta nay vì ông
mà khai thị cái Đệ Nhất Nghĩa Đế, sao ông lại còn đem những thứ vọng tưởng
Nhân Duyên, hý luận của thế gian mà tự trói buộc? Ông tuy là nghe nhiều mà
như người nói tên vị thuốc, đến khi thuốc thật ở trước mắt lại chẳng hề
phân biệt được. Như Lai bảo thế thật là đáng thương xót! Nay ông hãy nghe
kỹ, ta sẽ vì ông phân biệt khai thị. Cũng để cho những người tu Đại Thừa
mai sau thông đạt cái Thật Tướng”.
Ông Anan lặng
yên, kính vâng Thánh Chỉ của Phật.
Thông rằng:
Ông Anan mong Thế Tôn khai thị Trung Đạo. Nếu cho thật tại là Nhân Duyên
Hòa Hợp của thế gian, thì mắc vào Có (Hữu). Nếu bài bác cả hai thứ Nhân
Duyên và Tự Nhiên thì lại chìm đắm vào Không. Cái chẳng phải Có, chẳng
phải Không mới là Trung Đạo. Ông không biết cái Bồ Đề Vô Thượng là cái
Trung Đạo không chỗ bám nắm, mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế vậy. Cái Đệ Nhất
Nghĩa Đế này siêu khỏi mọi Ấm, Nhập, Xứ, Giới chẳng phải phải tánh Nhân
Duyên, chẳng phải tánh Tự Nhiên. Thấy các Tướng chẳng phải Tướng, tức đó
là Đại Thừa Thật Tướng.
Ông Anan muốn
rời bỏ Tiểàu Thừa mà cầu cái Bồ Đề Vô Thượng. Nay chỉ cho đó là Tánh Diệu
Chân Như, thì hoang mang ngơ ngác, chẳng hiểu ra sao, như người nói ra tên
thuốc, mà cái chơn dược ở ngay trước mắt lại chẳng có hay. Thật đáng
thương xót! Than ôi, thuốc nào có dễ biết!
Bồ Tát Văn Thù
một ngày nọ bảo đồng tử Thiện Tài đi hái thuốc.
Ngài nói :
“Cái gì là thuốc hãy hái mang về”.
Thiện Tài xem
khắp đại địa không có gì chẳng phải là thuốc, trở về bạch rằng : “Không có
cái gì mà chẳng phải là thuốc”.
Ngài Văn Thù
nói : “Cái gì là thuốc hái mang về đây”.
Thiện Tài bèn
ngay trên mặt đất ngắt lên một cọng cỏ, đưa cho Ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù
cầm lấy, đưa lên cho đại chúng xem, rồi nói: “Thuốc này cũng hay giết
người, cũng hay cứu người”.
Tổ Vân Môn
nói: “Thuốc và bệnh hiện hữu vì nhau, khắp cõi đất là thuốc, cái gì là tự
kỷ?”
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng :
“Khắp cõi đất là thuốc
Xưa nay sao quá lầm
Đóng cửa chẳng làm xe (để dùng)
Đường thông tự trống rộng
Lầm, lầm !
Lỗ
mũi xa trời cũng xuyên suốt!”.
Theo ý bài
tụng ngày thì chân dược hiện tiền ấy cũng cần mửa ra hết, huống là cái
chuyện chẳng thể phân biệt của Anan!
Kinh: “Anan,
như chỗ ông nói: Tứ Đại hòa hợp phát hiện ra các thứ biến hóa trong thế
gian. Anan, nếu các Đại ấy tánh chẳng phải hòa hợp thì không thể trộn lẫn
với các Đại khác, cũng như hư không không thể hòa hợp được với các sắc.
Nếu tánh của các Đại là Hòa Hợp, thì cũng đồng như các thứ biến hoá, trước
sau hóa thành lẫn nhau, sanh diệt nối nhau, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh,
sanh sanh diệt diệt như vòng lửa quay tròn, chưa hề ngừng nghỉ. Anan, như
nước thành băng, băng trở lại thành nước.
Thông rằng:
Nếu nói tứ Đại chẳng phải hòa hợp, thì chẳng phải nghĩa Chân Như tùy
duyên, đồng như ngoan không mà thôi. Nếu nói tứ Đại nhất định phải hòa
hợp, thì chẳng phải là nghĩa Chân Như bất biến, giống như biến hóa mà
thôi. Như nước thành băng, băng trở lại thành nước, tứ Đại vốn là Như Lai
Tạng Tánh, chẳng phải ngoài nước mà có băng. Nước hòa với cái gì mà thành
băng? Băng hòa với cái gì mà thành nước?
Vốn chỉ là một
vật, không có cái gì khác hòa lẫn vào. Tìm cầu tướng hòa hợp rõ là chẳng
thể có, do đó, thật chẳng phải hòa hợp mà cũng chẳng phải không hòa hợp.
Chỉ vì mê thì Chân Như là bốn Đại: như nuớc thấy thành băng. Ngộ, thì tứ
Đại là Chân Như: như băng vốn là nước. Nước vốn là một mà thôi vậy.
Có vị tăng hỏi
Tổ Lâm Tế : “Thế nào là bốn cảnh vô tướng?”
Tổ Lâm Tế nói
: “Ông khởi một niệm tâm Nghi, bèn bị Đất ngăn ngại. Ông khởi một niệm tâm
Ái, bèn bị Nước nhận chìm. Ông khởi một niệm tâm Sân, liền bị Lửa cháy
thiêu. Ông có một niệm tâm Hỷ, liền bị Gió thổi bay. Nếu hay rõ ràng được
như thế, Cảnh nào trói buộc nổi? Chốn chốn đều dùng được Cảnh: Đông mọc
Tây lặn, Nam mọc Tây chìm, giữa nổi bên chìm, bên nổi giữa chìm. Đi trên
nước như trên đất, vào đất như nước. Do sao mà vậy? Vì thấu suốt bốn Đại
như mộng như huyễn vậy. Này các đạo lưu! Nay đây cái nghe pháp là ông,
chẳng phải là tứ Đại của ông, mà hay dùng tứ Đại của ông. Thấy được như
thế, thì bèn đi hay ở đều tự do”.
Xem như lời Tổ
Lâm Tế thì đi đâu cũng là nước, làm gì có băng đâu?
Tổ Dược Sơn
nhân có thí chủ cúng dường bộ thường phục. Đưa ra trước chúng, nói rằng:
“Pháp Thân có đủ bốn Đại hay không? Nói được, thì cho một áo lá”.
Ngài Đạo Ngô
nói: “Tánh đất chẳng phải là Không. Không chẳng phải là tánh đất. Đó là
Đại Địa. Ba Đại kia cũng thế”.
Tổ Sơn nói:
“Cho ông một cái áo lá”.
Chỗ thấy của
Ngài Đạo Ngô sao lại trái ngược với kinh này? Thử tham xem!
Kinh: “Ông hãy
xét cái tánh của Địa Đại: thô lớn thì làm đất liền, nhỏ nhặt thì làm vi
trần, cho đến lân hư trần, do chia chẻ cái sắc cực vi nhỏ nhất làm bảy
phần mà thành. Nếu chẻ lân hư trần nữa, thì thật là tánh hư không.
“Anan, nếu cái
lân hư trần đó chẻ ra thì thành hư không, vậy thì biết hư không sanh ra
sắc tướng. Nay ông hỏi rằng: Do hòa hợp mà sanh ra các tướng biến hóa
trong thế gian, thì ông hãy xét một cái lân hư trần dùng bao nhiêu hư
không hòa hợp lại mà có? Không lẽ lân hư trần hợp lại thành lân hư trần?
Mà lân hư trần đã chẻ ra được thành hư không, thì dùng bao nhiêu sắc tướng
để hợp thành hư không? Nếu sắc hợp lại thì hợp sắc không thể thành hư
không. Nếu hư không hợp lại, thì hợp hư không làm sao ra thành sắc? Sắc có
thể chẻ ra được, chứ hư không làm sao mà hợp lại được?
“Ông vốn chẳng
biết, trong Như Lai Tạng: Tánh Sắc là Chân Không, Tánh Không là Chân Sắc,
bản nhiên thanh tịnh, tròn khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh ứng ra chỗ
hay biết, theo nghiệp mà hiện bày. Thế gian không biết, lầm cho là Nhân
Duyên hay Tự Nhiên. Đó đều là thức tâm phân biệt, đo lường: chỉ có lời
nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.
Thông rằng:
Bài tụng Pháp Giới rằng:
“Có ai muốn biết lý Chân Không
Chân Như trong tánh hiện khắp ngoài
Tình với vô tình chung một thể
Chốn chốn đều đồng Pháp Giới Chơn!”.
Đây là yếu chỉ
của bảy Đại.
Chân Không là
cái Thể Nhất Như vậy. Bảy Đại là cái Dụng duyên theo nghiệp vậy. Thể, Dụng
không hai, nương nhau mà hiển, chẳng lìa Diệu Tánh, nên mỗi mỗi đều là
Tánh. Duy chỉ một Tánh. Không là Tánh Không, Sắc là Tánh Sắc, bèn Tức
Không, Tức Sắc, đó là Diệu Hữu, đó là Diệu Chân Như Tánh vậy. Không sa vào
Hữu, Vô nên nói là thanh tịnh, mà chưa từng chẳng Hữu, Vô nên gọi là Bản
Nhiên. Là trong sạch, tức nhân duyên chẳng thể ô nhiễm. Là Bản Nhiên, tức
chẳng phải hòa hợp mà thành. Cái gì mà từ nhân duyên hay hòa hợp sanh, đó
chỉ là hình tướng, có nơi chốn làm sao mà đầy khắp pháp giới? Duy chỉ
chẳng từ nhân duyên hay hòa hợp mà sanh thì không hình tướng, không xứ sở
nên toàn khắp pháp giới. Toàn khắp pháp giới là Tánh, thì có gì chẳng phải
là Thất Đại? Toàn khắp pháp giới là Thất Đại thì có gì chẳng phải là Tánh?
Tâm Như Lai
chỉ một vị Thanh Tịnh, chỉ một vị Bản Nhiên, chỉ một vị Toàn Khắp nên
không thể biết, không thể lường. Tâm của chúng sanh thì ở nơi cái Thanh
Tịnh ấy lại có thời gian mà ô nhiễm. Ở trong cái Bản Nhiên ấy lại có thời
gian mà chẳng như nhiên. Ở trong cái Toàn Khắp ấy, lại có thời gian mà hạn
hẹp. Tùy cái tâm năng tri, xứng vừa với cái lượng sở tri. Biết cho lắm thì
tích tụ thành nghiệp, nghiệp tích tụ thành quả, có thiện, có ác mà biến
tạo ra cái Y Báo, Chánh Báo mười cõi. Tâm của chúng sanh tán loạn không bờ
nên nghiệp của chúng sanh cũng đầy dẫy không bờ. Tâm ấy nếu không có cái
Tánh Toàn Khắp pháp giới làm Thể thì làm sao tùy nghiệp mà phát hiện, để
càng phát ra thì càng vô cùng ư?
Nghiệp lực của
chúng sanh mỗi mỗi chẳng đồng. Nhưng đồng ở trong cái Thanh Tịnh Bổn
Nhiên, một mảy lông cũng chẳng hề thêm bớt, nên nói rằng xuẩn động hàm
linh đều có Phật Tánh. Thế gian mê lầm chẳng ngộ Tam Giới Duy Tâm, Vạn
Pháp Duy Thức. Thế nên, ở nơi những sự việc phát hiện ra theo nghiệp, thấy
ra là có nhân duyên sanh, mà làm cho là tánh nhân duyên; còn thấy ra là
không có nhân duyên sanh thì lầm cho là tánh Tự Nhiên. Chẳng rõ cái Thanh
Tịnh Bổn Nhiên thì sự Có Không đều lìa, cả Nhân Duyên hay Tự Nhiên đều
không có ở nơi nào để bám níu.
Nói là Nhân
Duyên sanh ư ? Thế thì lân hư duyên với cái gì để sanh ra hư không, hư
không duyên với gì mà sanh ra lân hư ? Chỉ có hư không duyên với hư không,
chỉ có sắc mới duyên với sắc. Dù cho lân hư chẻ ra thành hư không, thì
phải bao nhiêu hư không để hiện thành lân hư. Lân hư chẳng phải do hư
không mà có, thì hư không cũng chẳng phải nhân lân hư chẻ thành. Sắc,
Không đã chẳng thể sanh lẫn nhau, thì sự sanh ra của Đại Địa là vô tự
tánh.
Thế nên, nói
Nhân Duyên hòa hợp sanh là sai lầm vậy.
Nói là Tự
Nhiên sanh ư? Hư không nào có vô cớ mà có hư không, sắc nào có vô cớ mà có
sắc. Chẳng có nhân chẻ lân hư, thì nào có thấy được hư không? Chẳng nhân
gom tụ lân hư, làm sao thành Đại Địa? Thế thì sự sanh ra của Đại Địa nào
phải không có nguyên nhân mà tự nhiên bỗng có đâu?
Do đó, nói Tự
Nhiên sanh là sai lầm.
Cả hai thuyết
đều là do Thức Tâm phân biệt suy lường, không phải Nhân Duyên mà gượng nói
Nhân Duyên; không phải Tự Nhiên mà gượng cho là Tự Nhiên, chỉ là lời nói,
toàn là hý luận không có căn cứ. Nào có biết rằng Như Lai Tạng Tánh chẳng
có khởi lên đối với cái thấy, chẳng bám vào cái tướng. Không khởi nơi cái
thấy, cho nên suy tính không thể tới nổi. Không bám nơi cái tướng nên lời
nói không thể thấu đến. Đó là cái chỗ mà tâm hành xứ diệt [Mất dấu], ngôn
ngữ hết đường”, ấy mới là Thật Tướng, mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế vậy.
Thiền sư Tần
Bạt Đà hỏi pháp sư Sanh : “Thầy giảng kinh luận gì?”
Thầy Sanh đáp
: “Kinh Đại Bát Nhã”.
Sư Đà nói :
“Làm thế nào nói nghĩa Sắc Không?”
Thầy Sanh đáp
: “Các vi trần tụ lại là Sắc, các vi trần vô tự tánh là Không”.
Sư Đà nói :
“Vi trần chưa tụ, gọi là gì ?”
Thầy Sanh
không giãi bày được.
Thiền sư Đà
lại hỏi : “Còn giảng kinh nào khác nữa ?”
Thầy Sanh đáp
: “Kinh Đại Niết Bàn”.
Sư Đà nói :
“Nói nghĩa Niết Bàn như thế nào?”
Thầy Sanh đáp
: “Niết mà chẳng sanh, Bàn mà chẳng diệt, nên gọi đó là Niết Bàn”.
Sư Đà nói :
“Cái ấy là Niết Bàn của Như Lai, cái gì là Niết Bàn của pháp sư ?”
Thầy Sanh đáp
: “Nghĩa của Niết Bàn há có hai sao? Tôi chỉ như thế này, chưa hiểu thiền
sư nói Niết Bàn như thế nào?”
Sư Đà đưa cây
hốt như ý lên, rồi nói : “Thấy chăng?”
Đáp : “Thấy”.
Sư Đà nói :
“Thấy cái gì?”
Đáp : “Thấy
cái hốt như ý trong tay thiền sư”.
Sư Đà ném cái
hốt như ý xuống đất, rồi hỏi : “Thấy không?”
Đáp : “Thấy”.
Sư Đà nói :
“Thấy cái gì?”
Đáp : “Thấy
cái hốt trong tay thiền sư rớt xuống đất”.
Thiền sư chê
rằng: “Xem qua chỗ thấy hiểu của ông, chưa ra khỏi đám thường tình, sao
gọi được là làm ồn náo vũ trụ” [Giảng kinh].
Rồi phất tay
áo bỏ đi.
Các đệ tử của
pháp sư nghi ngờ chưa dứt, bèn chạy theo níu thiền sư Đà lại, hỏi : “Thầy
tôi nói Sắc Không, Niết Bàn chẳng khế hợp, chưa rõ thiền sư nói nghĩa Sắc
Không như thế nào?”
Thiền sư Đà
nói: “Ta chẳng nói thầy các con thuyết không được đúng, nhưng thầy các con
chỉ nói Sắc Không trên quả vị, mà chẳng biết nói cái Sắc Không ngay chỗ
nguyên nhân”.
Đệ tử thưa:
“Như thế nào là Sắc Không ngay chỗ nguyên nhân?”
Thiền sư Đà
nói: “Một vi trần Không nên chúng vi trần Không, chúng vi trần Không nên
một vi trần Không. Trong chúng vi trần Không, không có một vi trần”.
Đây không phải
là lời thiền sư Đà đặt ra, vì kinh nói : Một căn thanh tịnh nên các căn
thanh tịnh. Các căn thanh tịnh nên một căn thanh tịnh. Trong một căn thanh
tịnh không có các căn. Trong các căn thanh tịnh không có một căn.
Lấy chỗ này
phát minh thì chẳng phải khó hiểu. Bèn cùng với “Tánh Sắc Chân Không, Tánh
Không Chân Sắc” chỉ ngay đường vào.
Kinh : “Anan,
tánh Lửa vô ngã, nhờ ở các duyên mà hiệân. Ông hãy xem các nhà chưa nấu ăn
ở trong thành, khi muốn nấu bếp thì tay cầm kính dương toại đưa ra ngoài
mặt trời mà cầu lửa.
“Anan, phàm
gọi là Hòa Hợp thì như Ta, ông và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo
nay hợp thành một chúng. Chúng tuy là một, nhưng gạn xét về căn bản, thì
mỗi người đều có tánh, đều có chỗ sanh, tên hiệu, họ hàng của mình. Như
Ông Xá Lợi Phất thuộc dòng Bà La Môn, Ông Ưu Lâu Tần Loa thì thuôïc dòng
Ca Diếp Ba, cho đến Ông Anan thì thuộc dòng Cù Đàm.
“Anan, nếu
tánh Lửa nhân Hòa Hợp mà có ra, thì khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh
sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do từ bùi nhùi mà có hay là từ
mặt trời mà đến?
“Anan, nếu từ
mặt trời mà đến, lửa ấy đã đốt được bùi nhùi trong tay ông, thì những rừng
cây mà ánh sáng mặt trời đi qua phải bị đốt cháy cả. Nếu từ trong kính mà
ra, thì lửa ấy đã có thể từ nơi kính ra mà đốt cháy bùi nhùi, làm sao kính
lại không bị chảy. Cho đến cả tay cầm kính cũng không thấy nóng, thì làm
sao kính chảy ra được. Nếu do bùi nhùi sanh ra, thì cần gì ánh sáng mặt
trời và kính tiếp xúc với nhau, rồi lửa mới sinh. Ông hãy xét cho kỹ: kính
thì do tay cầm, ánh sáng mặt trời thì từ trên xuống, còn bùi nhùi thì từ
đất sanh, vậy lửa từ phương nào đến đây? Mặt trời và kính xa nhau, chẳng
có hòa, chẳng có hợp không lẽ lửa kia không do đâu mà tự có?
“Ông còn không
biết rằng: Trong Như Lai Tạng, tánh Hỏa là Chân Không, tánh Không là Chơn
Hỏa, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà
ứng vừa với chỗ hay biết.
“Anan, ông
phải biết: Người đời cầm kính ở một chỗ thì một chỗ lửa sanh, khắp pháp
giới cầm kính thì khắp pháp giới có lửa. Lửa khắp thế gian mà nào có nơi
chốn, chỉ theo Nghiệp phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân
Duyên và tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là sự phân biệt, đo lường của thức
tâm: chỉ có lời nói, danh tự, toàn không có thật nghĩa.
Thông rằng:
Ngài Long Thắng nói: “Nếu các pháp là thật có, thì chẳng cần dùng tâm thức
mới biết là có tướng. Nếu dùng tâm thức mới biết là có, ấy là chẳng phải
có. Như tướng cứng của Đất, phải dùng thân căn, thân thức mới biết là có.
Còn nếu không có thân căn, thân thức thì không thấy có tướng cứng”.
Hỏi rằng:
“Thân căn, thân thức thì có khi cảm biết, có khi không cảm biết, còn đất
thì vẫn luôn luôn có tướng cứng chứ?”
Đáp rằng:
“Hoặc trước đã tự nhiễm biết cái tướng cứng, hoặc nghe người nói mới biết
là có tướng cứng. Nếu trước chẳng nhiễm biết, chẳng nghe nói thì làm gì có
cái tướng cứng? Lại nữa, nếu đất luôn luôn thật là tướng cứng, thì không
thể bỏ tướng cứng ấy. Nhưng như tô lạc, mật ong, nhựa cây khi nấu thì phải
bỏ cái tướng cứng mà biến thành thể lỏng. Vàng, bạc, đồng, sắt hết thảy
đều như thế. Còn nước đang ở thể lỏng, lạnh thì chuyển thành tướng cứng là
băng. Như vậy, tất cả mọi thứ mọi loại đều có thể biến đổi tướng trạng”.
Ngài lại nói:
“Nếu lửa thật có tánh nóng, thì sao có người vào lửa chẳng cháy. Trong
thân cũng có lửa nóng, sao chẳng thiêu thân? Lửa ở trong mây mà nước không
diệt được. Bởi thế, lửa không có tánh nóng nhất định. Vì thần thông lực,
lửa không thể cháy thân. Vì nghiệp nhân duyên, ngũ tạng không nóng. Vì lực
điện trong mây, nước không diệt được. Nếu tánh nóng và lửa khác nhau, thì
lửa chắc chẳng nóng. Nếu tánh nóng và lửa là một, thì sao còn gọi là nóng?
Tánh lửa như thế, các Đại khác cũng vậy”.
Như thế, tánh
chung và tánh riêng đều Không, nên gọi là Tánh Không. Lấy theo Lý ấy mà
suy ra tánh của Đất, Nước, Lửa thì cũng như theo dòng mà thấu được nguồn:
tất cả đều Không.
Chỗ chỉ bày
của Đức Thế Tôn là: Từ cái Tánh mà phát ra Tướng, gọi là theo Nghiệp mà
phát hiện, ứng với cái lượng của Sở Tri. Còn chỗ luận của Ngài Long Thắng
là: Từ nơi Tướng mà thấu cùng đến cái Tánh, đặc biệt hiển bày cái Sắc Tâm
chẳng hai vậy.
Cái kính Dương
Toại cũng gọi là Ngũ Phương Chư. Sách Luận Hành chép: “Tháng Năm, ngày
Bính Ngọ, giờ Ngọ làm đá Ngũ Phương tròn như cái gương, ở giữa trũng. Soi
vật thì ảnh ngược, hướng về mặt trời thì có lửa”.
Thế gian chỉ
biết bùi nhùi, kính với mặt trời: ba cái nhân duyên hòa hợp lại thì lửa
sanh. Chẳng biết rằng kính, bùi nhùi cùng với mặt trời đều ở xa nhau,
chẳng phải Hòa hợp nên chẳng phải là Nhân Duyên. Nếu nói bỗng nhiên tự có
ra, thì đáng lẽ chẳng cần kính hướng vào mặt trời, thế nên cũng chẳng phải
Tự Nhiên. Nếu nói cả ba cái, mỗi cái đều có tánh lửa, thì lẽ ra bùi nhùi
phải tự cháy, kính phải tự chảy và chỗ ánh sáng mặt trời đi đến, như rừng
cây phải bị cháy thiêu! Cả ba cái đều không có tánh lửa, đủ biết là Hỏa
Tánh vốn Không. Nhưng vì cái sức nghiệp của ba cái mà lửa tùy theo nghiệp
hiện ra. Thế mới biết, lửa có khắp thế gian là Tánh Không, nào có nơi
chốn. Nên cọ xát cây thì có lửa, đập đá là có lửa. Tất cả đều theo nghiệp
mà phát hiện, chẳng riêng ở một cái kính Dương Toại, đều từ trong cái Tánh
Thanh Tịnh phát khởi ra. Ngay Tánh tức là lửa, nào mượn Nhân Duyên? Ngay
lửa là Tánh, sao nói là Tự Nhiên? Thế nên, Hỏa Đại vốn chẳng phải Nhân
Duyên, chẳng phải Tự Nhiên. Tánh lửa ấy bèn chính là Thật Tướng vậy.
Tổ Tuyết Phong
nhóm lửa xong, bèn chỉ ngay ngọn lửa mà khai thị cho đại chúng: “Ba đời
Chư Phật đang ở trong ngọn lửa chuyển Đại Pháp Luân”.
Tổ Vân Môn nói
rằng: “Ngọn lửa là ba đời Chư Phật thuyết pháp. Ba đời Chư Phật lập tức
nghe”.
Tổ Huyền Sa
nói: “Gần đây lệnh vua khá nghiêm ngặt!”
Tổ Tuyết Phong
nói: “Là làm sao?”
Tổ Sa nói:
“Chẳng để cho trà trộn cướp đồ ngoài chợ!”
Tổ Tuyết Phong
bèn le lưỡi.
Ngày nọ, Tổ
Tào Sơn vào tăng đường hơ lửa.
Có vị sư nói:
“Hôm nay lạnh thật”.
Tổ Sơn nói :
“Nên biết có cái chẳng lạnh!”
Vị sư hỏi :
“Ai là kẻ chẳng lạnh?”
Tổ Sơn gắp lửa
mà chỉ đó.
Nhà sư nói :
“Chớ nói là không có người”.
Tổ Sơn ném bỏ
lửa xuống.
Nhà sư nói :
“Con ở trong chỗ ấy chẳng hiểu được”.
Tổ Sơn nói :
“Mặt trời soi đầm lạnh, sáng ngời lại sáng ngời”.
Cổ nhân gặp
cảnh thì phát minh Một đường hướng thượng. Đó là Tánh lửa Chân Không, Tánh
Không thật lửa, nơi ấy là chỗ thấu thoát chân thật.
Kinh: “Anan,
tánh Nước chẳng định : khi chảy, khi ngừng không có chừng. Như trong thành
Thất La Phiệt, các ông Tiên Ca Tỳ La, Chước Ca La và các nhà đại huyễn
thuật Bát Đầu Ma, Ha Tát Đa... muốn cầu tinh Thái Âm để hòa với các thuốc
huyễn thuật, thì các ông ấy trong lúc mặt trăng tròn sáng, tay cầm hạt
châu Phương Chư, hứng nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt
châu mà ra hay ở trong hư không tự có hay từ mặt trăng đến?
“Anan, nếu từ
mặt trăng đến, thì ở phương xa còn có thể làm hạt châu có ra nước, thì ánh
sáng qua những rừng cây lẽ ra đều phải có chảy nước. Có chảy nước thì cần
gì phải đợi hạt châu Phương Chư? Còn nếu không chảy nước thì biết là nước
chẳng phải từ mặt trăng xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu
thường phải chảy nước, sao lại phải đợi nửa đêm có mặt trăng sáng? Nếu do
hư không mà sanh, thì hư không vô bờ bến, thì nước cũng không có giới hạn,
vậy thì cõi người đến cõi trời đều phải chìm ngập, làm sao còn các loài?
Ông hãy xét kỹ: mặt trăng từ trời chiếu xuống, hạt châu do tay cầm, còn
cái mâm hứng nước thì do người xếp đặt, vậy nước kia từ phương nào mà chảy
đến đây? Mặt trăng và hạt châu thì cách xa nhau, không phải hòa, không
phải hợp, chẳng lẽ nước kia không từ đâu mà tự có?
“Ông còn không
biết rằng trong Như Lai Tạng, Tánh Thủy là Chân Không, Tánh Không là Chân
Thủy, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà
ứng vừa với chỗ hay biết.
“Một chốn cầm
châu thì một chốn có nước chảy ra. Khắp pháp giới cầm hạt châu thì khắp
pháp giới nước sanh ra. Nước có khắp thế gian mà nào có nơi chốn, chỉ theo
nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là tánh Nhân Duyên hay
tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là sự phân biệt, đo lường của thức tâm, chỉ là
lời nói, danh tự toàn không có thật nghĩa.
Thông rằng:
Châu Phương Chư còn gọi là Âm Toại, hình giống con sò. Chà cho nóng, để
dưới ánh trăng sẽ sinh ra nước. Phương là đá,
Chư
là ngọc. Luyện nấu đá mà thành, làm vào tháng Một (Mười Một), ngày Nhâm
Tý, giờ Tý.
Nước sinh ra ở
hạt Phương Chư vốn chẳng phải do Hòa Hợp, chẳng phải là Tự Nhiên thì cũng
giống như kính Dương Toại. Nhưng chỗ nói “Nếu do hư không mà sanh, thì hư
không vô biên, nước cũng không giới hạn... làm sao còn các loài?” Chẳng
phải là mâu thuẫn với chỗ Tánh Không Chân Thủy sao? Bởi vì, lấy Tướng mà
luận thì có hình, nên nước đầy hư không mà làm đắm chìm cả. Nhưng lấy Tánh
mà luận thì vô hình, nên hư không vô tận thì nước hiện ra cũng vô tận. Câu
“Tánh Thủy Chân Không” này là chỉ về tánh của tứ Đại thanh tịnh mà nói.
Tánh vốn là Không, Không Không tương dung, Không Không bất nhị làm gì thấy
có lấn đoạt lẫn nhau?
Đoạn sau, chỗ
nghi của Ông Phú Lâu Na là ở nơi Tánh mà nghi có sự lấn đoạt, chứ chẳng
phải nghi ở nơi Tướng. Tướng thì chẳng tương dung, Thế Tôn đã nói trước
rồi còn nghi gì nữa!
Tổ Dược Sơn
hỏi vị sư : “Từ đâu tới?”
Đáp : “Ở Hồ
Nam lại”.
Tổ Sơn hỏi :
“Nước hồ Động Đình đầy chưa?”
Đáp : “Dạ,
chưa”.
Tổ Sơn nói :
“Mưa đã lâu, sao chưa đầy ?”
Vị sư không
đáp được.
Tổ Đạo Ngô nói
thay rằng : “Đầy rồi mà!”
Tổ Vân Nham
nói : “Chỗ sâu xa!”
Tổ Động Sơn
nói : “Trong kiếp nào mà từng có tăng, giảm?”
Tổ Vân Môn nói
: “Chỉ ở trong ấy!”
Tổ Tuyết Phong
nói : “Ngồi bên rá cơm mà đói chết vô số người. Ngồi bên biển nước, khát
chết vô số người!”
Tổ Huyền Sa
rằng : “Ngồi trong rá cơm, đói chết vô số người. Ngập đầu trong biển nước,
khát chết vô số người!”
Tổ Vân Môn :
“Suốt thân là cơm, suốt thân là nước”.
Tổ Thiên Đồng
nêu ra: “Ta thì chẳng vậy, ngồi trong rá cơm, cái no làm chết vô số người.
Ngập đầu trong biển nước, cái nê làm chết vô số người!”
Trước là cái
họa vì chẳng nuốt vào. Sau là cái họa vì chẳng mửa ra. Chỉ như Ngài Vân
Môn nói: Suốt thân là cơm, suốt thân là nước. Ở trong ấy thì không còn chỗ
nuốt vào, mửa ra. Cổ nhân cử xướng cái tánh biển thật như sóng nước trùng
trùng vô tận, đến Tổ Vân Môn : “Suốt thân là nước”, lời nói mới trọn
thành. Cùng với “Tánh nước Chân Không, Tánh Không thật nước, bản nhiên
thanh tịnh, toàn khắp pháp giới”, thật là khế hợp. Do đó mà biết rằng lấy
Ý Thức mà đo lường Tánh Không, Tánh Thủy thì biết kêu gào mấy cho vừa.
Kinh: “Anan,
tánh Gió không có tự thể, khi động khi tĩnh bất thường. Ông thường sửa áo,
vào trong đại chúng, gấu áo Tăng Già Lê động đến người gần bên thì có chút
gió phất qua mặt người kia. Gió đó là do gấu áo cà sa mà ra, từ hư không
mà phát khởi hay do mặt người kia mà sanh?
“Anan, nếu gió
ấy phát ra do gấu áo cà sa, thì ông đã mặc cả gió, cái áo phải bay tung
rời khỏi thân ông. Nay ta thuyết pháp, rủ áo ở trong hội này, ông hãy xem
cái áo của Ta, gió ở nơi đâu? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió?
“Nếu gió đó do
hư không sanh ra, thì khi áo ông không động sao gió chẳng bay phất. Tánh
của hư không thì thường còn, gió phải thường sanh ra. Còn khi không có
gió, hư không phải diệt mất! Gió diệt có thể thấy được, hư không diệt thì
có nghĩa gì? Bởi vì có sanh diệt, thì đâu có gọi là hư không? Còn đã gọi
là hư không, thì gió ở đâu mà ra được?
“Nếu gió ấy
sanh ra do cái mặt người bị phất, thì đã do mặt người ấy sanh ra, lẽ ra
phải phất vào ông, sao tự ông sửa áo mà lại phất ngược vào người kia?
“Ông hãy xét
kỹ: sửa áo là do nơi ông, mặt thuộc về người kia, hư không lặng yên chẳng
hề lay động, thì gió từ phương nào phát động đến đây? Tánh của gió và của
hư không cách biệt, chẳng có hòa, chẳng có hợp, không lẽ gió kia không do
đâu mà tự có?
“Ông thật
không rõ rằng: Trong Như Lai Tạng, Tánh Gió là Chân Không, Tánh Không là
Thật Gió, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo chúng sanh mà
ứng vừa với chỗ hay biết.
“Anan, như một
mình ông hơi động cái áo thì có chút gió bay ra. Khắp pháp giới đều phất,
thì khắp các quốc độ đều có gió. Phong Đại có ở cùng khắp thế gian mà
không có nơi chốn, chỉ theo Nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm
cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là những phân biệt,
đo lường của thức tâm, chỉ có lời nói, danh tự toàn không có thật nghĩa.
Thông rằng:
“Ông tự sửa áo mà áo không bay mất. Cái mặt thuộc người kia mà gió chẳng
phất ngược lại. Hư không lặng yên, chẳng theo gió mà có sanh có diệt”. Ba
cái ấy chẳng can dự gì tánh lưu động của gió, thì cái gì mà cho là hòa
hợp? Chẳng lẽ gió không đâu mà có ra, sao gọi là Tự Nhiên? Bởi vì Gió tức
là Tánh, Tánh tức là Gió vậy. Chỉ theo nghiệp mà phát hiện ra, như áo động
thì có gió sinh. Tánh cùng khắp pháp giới, thì gió cũng cùng khắp pháp
giới, nên cùng gọi là Đại (lớn).
Nho gia nói
Khôn là Đất, Khảm là Nước, Ly là Lửa. Tốn là Gió. Tất cả không ra ngoài Âm
Dương. Âm Dương từ đâu sanh ra? Từ trong Động Tĩnh của Thái Cực sanh ra
vậy. Mỗi vật đều đầy đủ một Thái Cực. Vạn vật đều suốt một thể Thái Cực.
Chưa từng chẳng phải tức Lý là Sự, tức Sự là Lý. Nhưng mà ngộ Tâm là Thái
Cực thì ít có thay! Đã ngộ Tâm là Thái Cực, dưới trời đâu có cái vật ở
ngoài Tâm ư?
Tổ Ma Cốc đang
quạt, có nhà sư hỏi: “Tánh của gió thường trụ, không nơi nào chẳng khắp,
Hòa Thượng còn động quạt làm gì?”
Tổ Cốc nói:
“Ông chỉ biết “Tánh gió thường trụ”, mà không biết chuyện không đâu chẳng
khắp”.
Nhà sư nói:
“Sao là không đâu chẳng khắp?”
Tổ Cốc lại
phẩy quạt.
Nhà sư làm lễ.
Tổ Cốc nói:
“Cái ông sư không có chỗ dùng, dẫu có ngàn ông thì có ích gì!”
Lại Tổ Nam
Tuyền hỏi nhà sư : “Đêm qua gió mạnh, nhỉ?”
Nhà sư đáp:
“Đêm qua gió mạnh”.
Tổ Tuyền nói:
“Thổi gãy một cành tùng trước cửa!”
Sư nói: “Thổi
gãy một cành tùng trước cửa”.
Tổ Nam Tuyền
lại hỏi một nhà sư khác: “Đêm qua gió mạnh, nhỉ?”
Nhà sư nói :
“Là ngọn gió nào?”
Tổ Tuyền nói :
“Thổi gãy một cành tùng trước cửa!”
Nhà sư nói :
“Là cây tùng nào?”
Tổ Tuyền nói :
“Một được, một mất”.
Căn cứ vào chỗ
đáp của hai vị tăng thì đều có hơi thở thiền tăng. Sao Ngài Nam Tuyền lại
nói một được, một mất? Nếu định ngay ra được, mới cho là tự mình thấy Nam
Tuyền.
Kinh: “Anan,
hư không không có hình, nhân sắc mà hiển ra. Như trong thành Thất La Phiệt
là chỗ xa sông, những người dòng Sát Lỵ, dòng Bà La Môn, dòng Tỳ Xá, dòng
Thủ Đà hay dòng Phả La Đọa, dòng Chiên Đà La... Khi dựng nhà mới thì đào
giếng để lấy nước. Đào lên một thước đất, thì trong đó có một thước hư
không, như vậy cho đến đào lên được một trượng, thì trong đó lại được một
trượng hư không. Hư không sâu hay cạn tùy theo đào lên nhiều hay ít. Hư
không đó, do đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sanh?
“Anan, hư
không đó không do gì mà tự sanh, thì trước khi chưa đào đất, sao chỗ ấy
lại không trống rỗng, mà chỉ thấy là đất, chẳng có gì thông suốt. Nếu nhân
đất mà ra, thì khi đất được moi ra phải thấy có hư không vào. Nếu đất ra
trước mà không thấy hư không vào, làm sao nói là hư không nhân đất mà ra?
Còn nếu không ra, không vào thì hư không với đất vốn không khác nguyên
nhân. Không khác tức là đồng, thì khi đất ra, hư không sao chẳng có ra?
Nếu nhân đào mà ra, thì đào phải có ra hư không chớ chẳng phải ra đất. Nếu
chẳng nhân đào mà có ra, khi tự đào thì ra đất, sao lại thấy hư không?
“Ông hãy xét
xem, xét kỹ, xem kỹ: sự đào do từ tay người chuyển vận theo phương hướng,
đất thì từ nơi mặt đất mà dời đi, như thế hư không nhân đâu mà có ra? Sự
đào và hư không: một cái thật, một cái hư, không tác dụng gì với nhau,
chẳng phải hòa, chẳng phải hợp, chẳng lẽ hư không không do đâu mà tự có
ra?
“Nếu hư không
đó bản tánh tròn đầy toàn khắp, vốn chẳng hề lay động thì phải biết rằng
hiện giờ ngay trước mặt đây: Hư Không và Địa, Thủy, Hỏa, Phong đều gọi là
năm Đại, bản tánh vốn chân thật, viên dung, đều là Như Lai Tạng, vốn không
sanh diệt.
“Anan, tâm ông
mê muội, chẳng ngộ bốn Đại vốn là Như Lai Tạng. Phải nhìn ngay hư không là
ra, là vào hay chẳng phải ra, vào. Ông hoàn toàn không biết trong Như Lai
Tạng: Tánh Giác là Chân Không, Tánh Không là Chân Giác, thanh tịnh bản
nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo tâm chúng sanh mà ứng với lượng hay
biết.
“Anan, như một
cái giếng trống không thì hư không có trong một cái giếng, mười phương hư
không thì cũng như vậy. Không Đại tròn đầy khắp mười phương, thật không
nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho đó là
tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên. Hết thảy đều là những phân biệt, đo
lường của tâm thức, chỉ có lời nói, danh từ toàn không có thật nghĩa.
Thông rằng: Hư
không chẳng có hình, sao có ra, vào? Chỉ bởi sắc hiện bày mà biết có hư
không: có sắc thì chẳng phải là hư không, không có sắc tức là hư không.
Sắc có đến, đi; hư không chẳng hề khởi, diệt. Khi tứ Đại diệt, hư không
chẳng phải lúc ấy mới có. Bốn Đại có đến-đi, hư không vốn chẳng hề ra-vào.
Tánh hư không tròn khắp cũng dễ hiểu, bốn Đại Chân Không cũng giống như
vậy. Khi chưa tùy theo nghiệp thì thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp
giới, vốn chưa hề không có. Khi đã theo nghiệp phát hiện rồi, tùy cảm tùy
ứng mà đầy khắp thế gian thì cũng không phải lúc ấy mới có. Tướng có sanh
diệt, Tánh không sanh diệt. Có sanh diệt, thì chẳng có Toàn Khắp. Còn cái
Toàn Khắp thì tự nó không có sanh diệt, gọi đó là Như Lai Tạng, không từ
đâu đến, không đi về đâu, há lại có sanh tử ở trong ấy ư?
Nói về cái
ngoan không [Cái Không phi lý luận của Tiểu Thừa và ngoại đạo]thì tuy
không có ra vào, nhưng cũng là sanh diệt. Như sau này có nói “Hư Không
sanh trong cái Đại Giác như một cái bọt sinh ra trong biển cả... Mười
phương hư không cũng đều tiêu mất, chỉ duy cái Chân Không là Chân Giác vốn
không sanh diệt”.
Ở bốn Đại
trước thì nói Chân Sắc, Chân Hỏa, Chân Thủy, Chân Phong đều dùng chữ Chân.
Sau thì nói “Bốn Đại thanh tịnh” là đều nói trong Tánh. Không giữ lấy
Tướng, bèn là “Tánh Chân Thật, viên dung đều là Như Lai Tạng, vốn không
sanh diệt”. Thật rành rành tự tánh Chân Thật mà nói. Nếu các tướng hữu
tình, làm sao mà viên dung vô ngại ? Nói là Dung, thì “tức Sắc tức Không,
tức Không tức Sắc”, chẳng hề thấy có dấu vết của ngũ Đại, duy chỉ thuần
nhất một cái Không. Nói là Viên, thì “Không chẳng ngại Sắc, Sắc chẳng ngại
Không”, ngũ Đại đắp đổi lẫn nhau, hiển xuất vô cùng mà chẳng rời Nhất Chân
vậy.
Trước thì lấy
tứ Đại mà dung hội Chân Không. Đây thì lấy Chân Không tan về Chân Giác. Rõ
ràng cái gọi là Chân Không tức là Chân Giác, cái ngoan không làm sao so
sánh được.
Thiền sư Hoàng
Long Tổ Tâm thượng đường rằng : “Tâm đồng Hư Không giới, bình đẳng với
Tánh Không. Chứng đắc Tánh Không bèn không có pháp nào phải, trái. Cứ như
thế mà ngơi nghỉ. Dừng chèo, thả neo về bến đậu thuyền. Cứ theo như môn đệ
của lão tăng thì trời đất cách riêng không dính. Nói thử môn đệ của lão
tăng có chỗ nào kỳ đặc :
“Vác ngang ngọn lược chẳng đoái người
Thẳng vào ngàn muôn đỉnh núi đi”.
Lại có Ông Hồ
Đinh Giao tham lễ Tổ Bửu Thọ.
Tổ hỏi :
“Chẳng phải là Hồ Đinh Giao [Đinh Giao có nghĩa là đóng đinh. ] ư?”
Ông Hồ trả lời
: “Không dám”.
Tổ Tho nói :
“Có đóng được hư không chăng?”
Ông Hồ nói :
“Xin Hòa Thượng đả phá cho!”
Tổ Thọ bèn
đánh.
Ông Hồ chẳng
kham được ý chỉ ấy.
Tổ Thọ nói :
“Về sau sẽ có ông thầy lắm lời vì ông mà chỉ cho chỗ này”.
Sau, Ông Hồ
đến tham Ngài Triệu Châu.
Tổ hỏi :
“Chẳng phải là Hồ Đinh Giao ư?”
Ông Hồ nói :
“Không dám”.
Tổ Châu hỏi :
“Có đóng được hư không chăng?”
Ông Hồ đáp :
“Xin Hòa Thượng đả phá cho!”
Tổ Châu nói :
“Hãy đóng vào một đường giáp nối ấy!”
Ông Hồ bèn kể
chuyện bị gậy của Tổ Bửu Thọ.
Rồi hỏi :
“Không rõ lỗi ở chỗ nào?”
Tổ Châu nói :
“Chỉ một đường giáp nối ấy còn chẳng biết làm sao, lại còn bảo người đả
phá hư không!”
Nhân đó, Tổ
nói thay : “Hãy đóng vào một đường giáp nối ấy!”
Tổ Châu lại
nói : “Ta nói như thế thì đối cùng với Ông Bửu Thọ kia thật là ngàn dặm
muôn dặm”.
Ông Hồ bèn có
chỗ thức tỉnh.
Hợp hai tắc mà
xét, thì chứng đắc hư không cũng chẳng đúng, mà đả phá hư không cũng chẳng
đúng. Vậy, thế nào mà thoát thân? Tham đi!
Kinh : “Anan,
cái biết của Kiến Đại nhân Sắc Không mà có, ngoài ra là chẳng biết. Như
hiện nay ông ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng, chiều thì thấy tối. Đến
lúc nửa đêm có trăng thì sáng, không trăng thì tối. Những tướng sáng, tối
ấy do cái Thấy phân tích ra. Cái Thấy ấy với cái tướng sáng, tối và cả hư
không là đồng một thể hay chẳng đồng một thể? Hay vừa đồng vừa chẳng đồng,
vừa khác vừa chẳng khác?
“Anan, nếu cái
Thấy đó cùng với sáng, tối và hư không vốn là một thể, thì sáng và tối
tiêu diệt lẫn nhau. Khi tối thì không sáng, khi sáng thì không tối. Nếu
cái Thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng cái Thấy phải tiêu mất.
Nếu cùng một thể với cái sáng, thì đến khi tối cái Thấy phải diệt. Làm sao
còn thấy được sáng, thấy được tối. Còn như sáng và tối khác nhau, cái Thấy
thì không sanh diệt, thì làm sao đồng một thể được?
“Nếu cái Thấy
đó không đồng một thể với cái sáng và cái tối thì lìa ngoài cái sáng, cái
tối và hư không ông hãy phân tích cái Thấy có hình tướng gì? Lìa ngoài cái
sáng, tối và hư không, cái Thấy đó cũng đồng là lông rùa, sừng thỏ. Nếu cả
ba cái sáng, tối và hư không hoàn toàn khác nhau, thì đo đâu mà lập thành
cái Thấy?
“Sáng và tối
trái ngược lẫn nhau làm sao đồng được! Lìa ngoài ba cái sáng, tối và hư
không, cái Thấy vốn chẳng có gì, thì làm sao khác được? Cái phần của hư
không hay cái phần của cái Thấy vốn không bờ mé, sao lại chẳng đồng! Thấy
cái tối, thấy cái sáng, tánh không dời đổi làm sao lại chẳng khác!
“Ông hãy xét
kỹ, suy xét tinh vi, xem cho kỹ, thấy cho cùng: Sáng do mặt trời, tối từ
đêm đen, thông thuộc về hư không, bít thuộc về đại địa, thì cái Thấy như
thế nhân đâu mà có? Cái Thấy thì có biết, hư không thì vô tri, không phải
hòa không phải hợp, chẳng lẽ cái Thấy không do đâu mà có?
“Như sự Thấy,
Nghe, Hay, Biết tánh nó đầy đủ toàn khắp, vốn chẳng động lay. Nên phải
biết: Kiến Đại cùng với hư không vô biên, bất động cùng vốn bốn Đại Địa,
Thủy, Hỏa, Phong có lay động đều gọi là sáu Đại, bản Tánh Chân Thật Viên
Dung, đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.
“Anan, tánh
ông trôi chìm, không ngộ cái Thấy, Nghe, Hay, Biết của ông vốn là Như Lai
Tạng. Ông hãy nhìn xem cái Thấy, Nghe, Hay, Biết này là sanh là diệt, là
đồng là khác, là chẳng sanh diệt, là chẳng đồng, khác?
“Ông nào có
biết, trong Như Lai Tạng cái Thấy là Tánh Minh Giác, Tánh Minh Giác hiển
lộ ra thành cái Thấy, thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp giới tùy theo
tâm chúng sanh mà ứng với lượng hay biết.
“Như một cái
Căn Thấy thấy khắp Pháp Giới, thì cái Biết Nghe, Biết Ngửi, Biết Nếm, Biết
Cảm Xúc, Biết các pháp đều là cái Diệu Đức sáng rỡ toàn khắp pháp giới,
tròn đầy cả mười phương hư không, nào có riêng nơi chốn. Chỉ tùy nghiệp
hiện bày, thế gian lại không biết lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự
Nhiên. Hết thảy đều chỉ là sự phân biệt, đo lường của thức tâm : chỉ có
danh tự, lời nói, toàn không có thật nghĩa.
Thông rằng :
Năm Đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không ở trước thì đủ cả sáu trần : Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp, gọi là Tướng Phần. Nay là sáu căn Thấy,
Nghe, Hay và Biết cũng đều do bốn Đại trong sạch hợp thành. Phàm nhân có
Sắc Không trước mắt, đối cảnh tức biết, chưa nhập vào sự phân biệt của năm
Thức trước, đó gọi là Kiến Phần. Do đó, lấy Kiến Đại mà gồm chung.
Như một cái
Căn Thấy thấy khắp pháp giới, thì cái Biết Nghe, Biết Ngửi, Biết Nếm, Biết
Xúc, Biết Pháp cũng toàn khắp pháp giới, Diệu Đức rỡ ràng vậy. Sao đều gọi
là Diệu ? Có Hình bèn là Thấy, có Tiếng là Nghe, chẳng gấp mà lẹ, chẳng đi
mà đến, không do nghĩ toan, chẳng bởi xếp đặt nên gọi là Diệu.
Cái Kiến Đại
này không có tự thể, chỉ nhân cảnh mà có. Cảnh trước mặt nếu không có, cái
Thấy cũng chẳng sanh. Há có một thể hay nhiều thể để cùng cảnh mà lìa mà
hợp, để có thể luận là đồng, là khác theo tứ cú ư ? Sự lập luận của tứ cú
[Có, Không, vừa Có vừa Không, không Có không Không] đều là hý luận vậy.
Thế nên, sáng,
tối, thông, bít thay nhau ở trước mắt cũng như Địa, Thủy, Hỏa, Phong thay
nhau giữa hư không. Cảnh có sanh diệt, cái Thấy không sanh diệt. Cảnh có
động lay, cái Thấy không hề lay động. Nó toàn khắp pháp giới, cùng hư
không chẳng hai. Nhưng cái Thấy thì có hay biết, ngoan không thì vô tri
chẳng thể hòa hợp. Cái Giác tức là Không, gọi là Chân Không. Cái ngoan
không thì sanh diệt, Chân Không nào có sanh diệt. Cái ngoan không sanh
diệt ở trong Tánh Chân Giác cũng như bốn Đại sanh diệt trong hư không. Hư
không cùng bốn Đại không thể lấy sự sanh diệt, đồng khác mà luận. Thế thì
Kiến Đại đối với Sắc Không sao có thể lấy sự sanh diệt, đồng khác mà xem
thấy được ư?
Phàm nói là
sanh diệt, đồng khác đều là thuộc về Vọng Trần. Phàm nói chẳng phải sanh,
chẳng phải diệt, chẳng phải đồng, chẳng phải khác đều thuộc về Vọng Kế.
Chỉ ở nơi Cảnh mà phân biện, chẳng ở nơi Tánh mà phân minh : đó là hý
luận. Nếu ở nơi Tánh mà phân biện, thì cái Thấy này duyên với Tánh Cảnh,
như mặt trăng thứ hai, không lìa mặt trăng thật.
Tánh phát ra
mà thành cái Thấy, tức là cái Chân Giác phát ra mà làm cái Sáng. Giác là
cái Thể hằng sáng của cái Thấy. Cái Sáng là Dụng của cái Thấy. Như đèn có
ánh sáng : đèn là cái Thể của sự chiếu sáng, ánh sáng là cái Dụng của sự
chiếu sáng. Tức Thấy là Giác, tức Giác là Không. Vốn không nhiễm ô, nên
nói là Thanh Tịnh. Vốn không tạo tác, nên nói là Bổn Nhiên. Vốn không nơi
chốn, nên nói là Toàn Khắp.
Theo Tam Thân
mà luận, thì Thanh Tịnh là Pháp Thân. Bổn Nhiên là Báo Thân, Toàn Khắp là
Hóa Thân. Theo Ba Đức mà luận, Thanh Tịnh là Lý, Bổn Nhiên là Trí, Toàn
Khắp là Hạnh. Hợp cả ba mà dung nhiếp thì đưa lên một tức cả ba, đưa lên
ba tức là một. Khi chưa cảm ứng thì thanh tịnh bản nhiên, toàn khắp pháp
giới, cái Thấy này không thể nói được là không. Khi có cảm ứng, Diệu Đức
sáng rỡ, toàn khắp pháp giới, cái Thấy này chẳng vướng nơi có. Sáu Căn
thanh tịnh, tròn đầy mười phương hư không, nên thấy trăm cõi Phật, thấy
ngàn cõi Phật, thấy toàn khắp pháp giới, mới là tròn vẹn cái lượng thanh
tịnh. Còn chẳng như thế, cũng ứng với cái chỗ thấy tiết hạn hẹp, chỉ theo
nghiệp có hiện ra mà thôi.
Sau có nói
“Ông phát minh ra theo cái Không, thì có cái hư không hiện. Địa, Thủy,
Hỏa, Phong mỗi mỗi đều phát minh ra, thì mỗi mỗi đều hiện. Các cái ấy là
các thứ ứng ra theo Sở Tri Lượng vậy”. Bỏ Giác mà hợp với Trần, thì phát
sanh trần lao. Ngược Trần hợp Giác, thì thấy rõ Chân Như. Thế cũng là sự
theo nghiệp phát hiện vậy. Cái Tánh Giác Minh không có sự làm, không có sự
tạo, không có người nhận lãnh, nghiệp thiện nghiệp ác cũng đều dứt bặt.
Cái Ấy, đó là Như Lai Tạng.
Ông Quan Cung
Phụng là Hạo Nguyệt hỏi Tổ Trường Sa Cấm rằng: “Con trùn đứt làm hai đoạn,
hai đầu đều cử động, chưa rõ Phật Tánh ở đầu nào?”
Tổ Sa nói :
“Động và Bất Động, đó là cảnh giới nào?”
Ông Nguyệt nói
: “Lời nói không liên quan đến kinh điển, chẳng phải là chỗ đàm luận của
người Trí. Như lời Hòa Thượng nói : Động cùng Bất Động, đó là cảnh giới
nào? Từ kinh nào mà đem ra vậy?”
Tổ Sa nói:
“Hẳn nhiên, nói mà không có kinh điển chẳng phải là chỗ đàm luận của người
Trí. Ông không thấy kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng “Phải biết mười phương
vô biên bất động hư không, cùng với bốn Đại Đất, Nước, Lửa, Gió động lay
kia đều gọi là sáu Đại, Tánh vốn Chân Thật, Viên Dung đều là Như Lai Tạng,
vốn không sanh diệt” đó sao?”
Bèn khai thị
một bài kệ:
“Rất sâu xa, rất sâu xa
Pháp giới, thân này ấy tức Tâm
Mê
ấy, mê tâm làm các sắc
Ngộ thì cảnh cảnh chính Chân Tâm
Thân, cảnh hai trần không thực tướng
Thấu rõ chỗ này gọi tri âm”.
Tổ Trường Sa
khéo thuyết Lăng Nghiêm, đến chỗ nói là căn thân và thế giới hai trần
không thực tướng thì trong không thấy có Căn Năng Kiến, ngoài không có
Cảnh Sở Kiến. Năng, Sở đều Không, tìm cái Thấy rốt là không thể đắc, còn
chỗ nào để nói sanh diệt, đồng dị ư?
Kinh : “Anan,
tánh của Thức không có nguồn gốc, nhân nơi sáu thứ Căn và Trần mà hư vọng
hiện ra. Nay ông hãy xem khắp Thánh chúng trong hội này, lấy con mắt lướt
qua. Mắt ông trông khắp, chỉ như cái gương, không phân tích riêng biệt.
Cái Thức của ông ở trong đó, lần lượt chỉ ra đây là Văn Thù, đây là Phú
Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề, đây là Xá Lợi Phất. Cái
Thức Nhận Biết ấy sanh ra do cái thấy, sanh ra do các tướng, do nơi hư
không hay không nhân cái gì, bỗng nhiên mà hiện?
“Anan, nếu cái
Thức của ông sanh ra do cái Thấy, thì như không có các tướng sáng, tối và
Sắc Không thì không có cái Thấy của ông. Cái Thấy còn không có, do đâu mà
có ra cái Thức? Nếu cái Thức của ông sanh ra do các tướng, chứ không do
cái Thấy, thì không thấy được cái sáng cũng chẳng thấy được cái tối. Sáng
tối đã không thấy thì cũng không có Sắc Không. Các tướng kia còn không có
thì cái Thức do đâu mà phát sanh ? Nếu cái Thức ấy sanh do nơi hư không,
không phải do tướng hay do cái Thấy, ngoài cái Thấy, thì không thể phân
biệt, chẳng có thể tự biết được các tướng sáng, tối, sắc, không. Ngoài các
tướng thì không còn các duyên, thì cái Thấy, Nghe, Hay, Biết do đâu mà
thành lập. Cả hai thứ: cái Thấy và sắc trần đều chẳng phải, nếu là Không
thì đồng với không có gì hết, còn nếu là Có thì cũng chẳng phải đồng với
vật, dầu cho có phát ra cái Thức của ông, thì phân biệt cái gì?
“Nếu cái Thức
không nhân gì mà bỗng nhiên phát ra, thì tại sao giữa trưa lại không riêng
biết để có ra mặt trăng sáng?
“Ông hãy kỹ
càng, suy xét chín chắn: cái Thấy gá vào mắt của ông, các tướng trả về cho
trần cảnh, cái gì có thể hình trạng ra được thì mới thành Có, cái gì không
hình tướng thì thành ra Không, còn cái Thức như thế do đâu mà ra? Cái Thức
động, cái Thấy lặng yên, chẳng phải Hòa chẳng phải Hợp. Cho đến với các sự
Nghe, Ngửi, Hay, Biết cũng đều như vậy. Không lẽ cái Thức không do đâu mà
tự có ra?
“Nếu cái Thức
đó vốn không do đâu, thì nên biết rằng: cái Thức Đại và cái Kiến Đại Thấy,
Nghe, Hay, Biết tròn đầy, vắng lặng, bản tánh không do đâu mà có, cùng với
hư không và Địa, Thủy, Hỏa, Phong đều gọi là bảy Đại, Tánh Chân Thật, Viên
Dung đều là Như Lai Tạng, vốn không sanh diệt.
“Anan, tâm ông
thô phù, không ngộ được cái Thức hay biết các điều thấy, nghe vốn là Như
Lai Tạng. Ông hãy nhìn xem sáu cái Thức là do Đồng hay Khác, là Không hay
Có, là không phải Đồng, Khác, hay không phải Không Có. Ông vốn không biết
trong Như Lai Tạng, cái Thức là Tánh Giác Minh. Tánh Giác Minh là Chân
Thức, là cái Biết nhiệm mầu vắng lặng toàn khắp pháp giới, ngậm chứa và
nhả ra mười phương hư không, nào có nơi chốn. Chỉ tùy theo nghiệp mà hiện
bày ra, thế gian không biết lầm cho là tánh Nhân Duyên hay tánh Tự Nhiên,
đều là sự phân biệt, so lường của thức tâm: chỉ có lời nói, danh tự, toàn
không có thật nghĩa.
Thông rằng:
Nói Đất, Nước, Lửa, Gió nương nơi hư không, là tánh năm Đại của thế giới,
gọi là Tướng Phần. Nói Thấy, Nghe, Hay, Biết nương vào nơi Thức, là tánh
năm Đại của Căn Thân, gọi là Kiến Phần. Kiến Phần và Tướng Phần đều từ
Thức Thứ Tám sanh khởi, cho nên Thức Thứ Tám vắng lặng như nhiên, thì gọi
đó là Diệu Giác, là Như Lai Tạng.
Nay lấy năm
Thức trước làm Kiến Đại, đó là chỗ gọi Tánh Cảnh thuộc Hiện Lượng. Lấy
Thức Thứ Sáu làm Thức Đại, đó là chỗ gọi Phân Biệt Sự Thức, thuộc về Tỷ
Lượng hay Phi Lượng. Hàng Nhị Thừa vì không biết có Thức Thứ Bảy và Thức
Thứ Tám, lấy cái này cho là chủ nhân ông, cho là gây ra nghiệp lành nghiệp
dữ và nghiệp vô lậu. Thế nên, năm Thức trước thì không có phân biệt, đến
Thức Thứ Sáu mới có thể phân biệt. Vậy nên ở đoạn kinh này có nói “Cái
Thức thì động, cái Thấy thì lặng yên”. Đó chỉ là cái Thức này, chẳng sanh
do cái Thấy, chẳng sanh từ các tướng, chẳng sanh do nơi hư không, chẳng
phải Nhân Duyên sanh, chẳng phải không nguyên nhân mà bỗng nhiên tự có,
chẳng phải Tự Nhiên sanh! Cái Thức Thứ Sáu này đủ cả ba tánh thiện, ác và
vô ký với cái Kiến Đại của sáu căn ở trước mỗi cái đều có chủng tử và hiện
hành, vốn chẳng phải Hòa, chẳng phải Hợp, cả ba cái ấy đồng là chẳng phải,
rốt ráo là không chỗ nương. Thức này do từ đâu mà đến ư ? Nếu sanh từ nơi
cái Thấy, sanh từ các Tướng, sanh nơi Hư Không thì đã có chỗ từ đó mà đến.
Đã có chỗ từ đó mà đến, bèn có nơi chốn, thì chẳng toàn khắp. Chỉ là không
từ đâu, không từ Không đến, không từ Có đến, tức là Tánh không có chỗ từ
đâu : vốn không có bờ cõi, vốn tự tròn đầy, toàn khắp. Cho nên cái Phân
Biệt Sự Thức này cùng với hai cái Kiến Phần và Tướng Phần đều gọi là Thất
Đại. Thức này rốt là vắng lặng, tức là hợp với Thức Thứ Tám, gọi là Như
Lai Tạng.
Nếu Thức Thứ
Sáu hợp với Trần, tức là Đồng, là Có. Lìa khỏi Trần, tức là Khác, là
Không. Chẳng phải Hợp, chẳng phải Lìa, không còn mảy dấu vết có thể tìm
được, mới được gọi là vắng lặng, như nhiên. Cái Thức vắng lặng như nhiên
này sao lại gọi là Tánh của Thức, là Thức Chân Thật? Vì từ cái Minh mà
biết, chẳng phải từ Tình khởi ra. Cái Thức này từ trong Chân Tánh, Chân
Giác mà lưu xuất, Thức bèn là Tánh vậy, Thức bèn là Giác vậy. Đó gọi là
chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Cảnh Trí.
Cái Minh Tri
của Tánh Thức này là Chân Thức của Tánh Giác Minh. Như sau có nói Diệu
Minh, Minh Diệu, cũng gọi là Diệu Giác vắng lặng như nhiên, toàn khắp pháp
giới. Sáu Đại trước thì gọi là thanh tịnh bản nhiên, chỉ có Đại này gọi là
Diệu Giác Trạm Nhiên, xét với Đẳng Giác, Diệu Giác có chỗ phân biệt vi tế.
Sáu Đại trước thì nói “Tròn đầy khắp mười phương”, như là nghĩa Xứng Tánh.
Còn Thức Đại này thì nói “Ngậm chứa và nhả ra mười phương hư không”, như
là nghĩa Phát Khởi”. Thức Tánh không có nguồn mà hay làm nguồn cho muôn
pháp. Phàm ở trước nói là Như Lai Tạng đều quy về đây vậy.
Ở Không Đại
thì nói “Tâm ông hôn mê”, vì mê bốn Đại và Hư Không khác nhau, vốn không
biết Tánh của Hư Không là Giác.
Ở Kiến Đại thì
nói “Tánh ông chìm đắm”, vì theo trần trôi chảy không quay trở lại, không
biết Kiến Đại là Giác mà bất động.
Ở Thức Đại thì
nói “Tâm ông thô phù”, tức là Thức tiềm tàng ở trong, phù là chỉ nhận phù
căn, thô vì không đạt đến nguồn gốc của Thức.
Năm Ấm là
thuộc về Mười Tám Giới, ở đây chỉ nói về Thức, vì trong Như Lai Tạng vốn
chẳng sanh chẳng diệt, cùng hòa hợp với cái sanh diệt mà thành Thức A Lại
Da. Nếu rốt ráo quay về cái Bất Sanh Bất Diệt, thì gọi là Thức Thứ Chín,
tức Thức là Tánh vậy. Chẳng thể rốt ráo mà còn chút ít sanh diệt, thì tuy
là lặng trong không sóng cũng chỉ là Thức mà chẳng phải Tánh. Người thấy
Tánh thì chẳng mê nơi Thức, nên an trụ nhiệm mầu nơi cái Tâm Ngộ vậy.
Tổ Bửu Thọ
thượng đường nói : “Tam giới Duy Tâm, vạn pháp Duy Thức. Ngoài hiên mây
sanh, trước rèm mưa giọt, khe suối trong như lam, hoa đồng nở như gấm. Giờ
đây mà chẳng xét căn nguyên. Trễ nải mai kia hỏi Di Lặc. Hiểu chăng? Đừng
có đứng lâu cho mệt”.
Tổ Đơn Hà tụng
rằng :
“Linh nhiên chẳng dính cổ hay kim
Tam giới đều trong một điểm Tâm
Ngoài hiên hoa đào, xuân bướm múa
Trước cửa dương liễu rực, oanh ca”.
Sách Duy Tâm
Quyết nói rằng : Cây sườn núi trước sân mỗi mỗi đều trổi bày cái tướng
nhiệm mầu của Vô Biên. Vượn hú, chim kêu đều cùng nhau phát lên tiếng vẹn
tròn của Bất Nhị”.
Có ngộ được
chỗ này mới tin được là khắp đại địa không có chỗ nào chẳng phải là thuốc,
đâu chỉ ở trong Thất Đại mà thôi đâu? Chẳng được như thế, có nhập Lý, luận
đàm sâu xa thì cũng đổi ra thành thuốc độc! Đâu phải chỉ có Nhân Duyên, Tự
Nhiên mới là hý luận!
Có nhà sư hỏi
Tổ Dược Sơn : “Chuyện mình chưa rõ, xin Hòa Thượng chỉ bày”.
Tổ Sơn nói :
“Ta nay vì ông mà nói một câu thì cũng không khó. Chỉ như ông nay dưới lời
nói mà thấy được thì còn có đôi chút rõ ràng. Còn nếu rơi vào suy lường,
thì thành ra tội lỗi của ta. Chi bằng ai nấy ngậm miệng, khỏi làm lụy đến
nhau”.
Thế, mới biết
cái thức tâm đo lường mò mẫm thì với đạo ngày càng đi xa. Chỉ dùng lời nói
thì chẳng phải là Thật Nghĩa. |