PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU
MỤC BA: HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ VIÊN THÔNG
IX. VIÊN THÔNG VỀ THIỆT CĂN
Kinh: Ông Kiều
Phạm Bát Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:
“Tôi mắc khẩu nghiệp, trong kiếp quá khứ coi thường, giỡn cợt Sa Môn nên
đời đời kiếp kiếp mắc tật nhai lại như trâu. Như Lai chỉ dạy tôi pháp môn
“Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”, tôi diệt được tâm thức, vào Tam Ma Địa. Quán
biết cái Vị không phải thân thể, không phải món vật, liền đó được vượt
thoát các lậu của thế gian, trong thoát hết thân tâm, ngoài mất tan thế
giới, xa lìa ba cõi như chim xổ lồng, rời hết dơ nhiễm, tiêu mất trần
tướng, Pháp Nhãn thanh tịnh, thành A La Hán. Như Lai ấn chứng cho tôi
thành đạo Vô Học.
“Phật hỏi về
Viên Thông, như chỗ chứng của tôi thì trả cái Vị, xoay cái Biết
về gốc Tánh, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Ông Kiều Phạm Bát Đề lưỡi khác người mà biết Mùi Vị. Do có tật nhai lại
như trâu, mà trâu là loài vật, chỉ biết cây cỏ mà thôi, nay hình dáng cái
lưỡi như trâu, mà phân biệt rõ được các vị, là do nơi cái gốc của lưỡi.
Quán xét mùi vị, xoay lại cái Biết, thì Vị có nhiều thứ mà cái Biết này
không hai. Cái Biết này lúc chưa xoay lại, thì tâm thức chưa diệt, đó là
hữu lậu. Xoay cái Biết về Không, biết mà không có chỗ biết, nên là vô lậu.
Cái Biết này chẳng do Căn sanh nên không phải Thân, không do Cảnh mà có,
nên không phải Vật. Không phải Thân nên trong thoát hết thân tâm; không
phải Vật, nên ngoài mất tan thế giới. Do vậy, lìa tâm dơ nhiễm, tiêu mất
ngoại trần, được Ý Sanh Thân, thường ở cõi trời, được người, trời cúng
dường. Phật vì muốn xóa đi nghiệp nhạo báng nên cho Ngài xâu chuỗi ngọc,
dạy niệm Phật, gọi là pháp môn “Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa”. Từ vô thủy
đến nay, các nghiệp do căn lưỡi tạo ra, lập tức thanh tịnh, do đó được Tâm
tịch diệt, vào định bình đẳng, bèn nếm mùi Đạo vậy.
Ngài Ngưỡng
Sơn đem trái cây cho Tổ Quy Sơn.
Tổ nhận lấy,
hỏi: “Ở đâu mà có vậy?”
Ngài Ngưỡng
Sơn nói: “Trong vườn nhà”.
Tổ Quy Sơn
nói: “Đã ăn chưa?”
Đáp: “Chưa dám
nếm, trước dâng lên Hòa Thượng”.
Tổ nói: “Là ai
đó?”
Ngài Ngưỡng
Sơn nói: “Là Huệ Tịch”.
Tổ nói: “Đã là
ông đó, sao lại bảo ta nếm trước?”
Ngài Ngưỡng
nói: “Hòa Thượng thì nếm ngàn nếm vạn”.
Tổ Quy Sơn bèn
ăn mà nói : “Còn chua chát”.
Ngài Ngưỡng
nói: “Chua chát vẫn là tự biết”.
Tổ Quy Sơn
không nói gì.
Lại Tổ Huyền
Sa cùng Ông Vi Giám Quân đang ăn trái cây.
Ông Vi hỏi:
“Như thế nào là dùng hàng ngày mà chẳng biết?”
Tổ Sa cầm trái
cây đưa lên, nói: “Ăn đi”.
Ông Vi ăn trái
cây xong, lại hỏi nữa.
Tổ Sa nói:
“Chỉ cái ấy là dùng hàng ngày mà chẳng biết!”
Ngài Ngưỡng
Sơn nói Tự biết. Ngài Huyền Sa nói Chẳng biết. Đó là, Biết mà chẳng Biết,
chẳng Biết mà Biết. “Trả Mùi Vị, xoay cái Biết về gốc Tánh”, là phải thấy
như thế, biết như thế, mới gọi là Pháp Nhãn Thanh Tịnh.
X. VIÊN THÔNG VỀ THÂN CĂN
Kinh: Ông Tất
Lăng Già Bà Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật rồi thưa rằng:
“Lúc ban đầu mới phát tâm theo Phật vào Đạo, thường nghe Như Lai dạy về
những việc không thể vui được trong thế gian. Đang khi khất thực trong
thành, giữa đường, tâm suy nghĩ về pháp môn Phật dạy; thình lình bị gai
độc đâm chân, toàn thân đau đớn. Tâm niệm tôi có biết sự đau đớn ấy; tuy
biết đau đớn mà cũng biết cái tâm thanh tịnh không có cái đau và cái biết
đau. Tôi lại suy nghĩ, vậy thì chỉ một thân lại có hai cái biết. Nhiếp tâm
chẳng bao lâu thân tâm bỗng nhiên rỗng không, trong khoảng hai mươi mốt
ngày, các lậu đều tiêu hết, thành quả A La Hán, được Phật ấn chứng là bậc
Vô Học.
“Phật hỏi về
Viên Thông, như chỗ chứng của tôi thì thuần một Giác Tánh, tan mất cái
thân, đó là Thứ Nhất”.
Tuy có cái
Biết để biết cái đau, nhưng cái Biết là Tâm Thanh Tịnh, lìa ngoài Năng và
Sở, sự đau đớn không thể đến được. Đau là cái bị biết, thì cái Biết có thể
biết nó. Còn cái Biết là cái Hay Biết, thì cái đau không thể làm nó đau.
Một cái có sự đau, một cái không đau. Đã biết có đau lại biết không đau,
thế thì một thân lại có hai cái Biết sao?
Cái Biết duy
chỉ Một cái Chân, biết đau tức là Vọng. Do đó, nhiếp tâm niệm : ngoài quên
mất thân thể, chỗ biết đều biến mất; trong quên mất tâm, cái Hay Biết cũng
tan. Thân và tâm bỗng nhiên rỗng không, liền chứng Vô Học. Chỉ còn một cái
Giác Thanh Tịnh, nên gọi là thuần một Giác Tánh. Ở trong cái Thuần Giác,
thì Năng và Sở đều xa lìa. Thế mới tan mất cái thân, thân đã tan biến, thì
thoát khỏi lập tức các việc không thể vui thích của thế gian.
Xưa, Đức Tứ Tổ
Ưu Bà Cúc Đa có gặp một người bám trước Thân Kiến xin cứu độ.
Tổ nói: “Cầu
pháp cứu độ thì phải tin lời ta, chẳng trái lời ta dạy”.
Người ấy nói:
“Đã đến cầu Thầy, thì phải nghe lời răn dạy”.
Tổ bèn biến ra
một bờ núi hiểm trở, trên chót có nhô ra một cây cao. Tổ dạy người ấy trèo
lên cây. Lại ở dưới cây, hóa ra một cái hố lớn, sâu rộng ngàn tầm. Tổ dạy
buông chân, người ấy tuân lời, buông hai chân ra. Dạy buông một tay, người
ấy thả một tay. Lại dạy thả tay kia, người ấy đáp rằng: “Nếu thả luôn tay
kia thì rớt xuống hố chết mất”.
Tổ nói: “Trước
đã cam kết là tuân lời dạy, nay sao trái với ta!”
Khi ấy, người
kia sự thương thân liền diệt, thả tay rơi xuống, thì chẳng thấy cây, thấy
hố đâu cả. Liền chứng đạo quả.
Ngài Huyền Sa
ban đầu muốn đi khắp nơi tìm hỏi thiện tri thức. Quảy gói ra khỏi núi,
ngón chân bị vấp chảy máu, đau nhức.
Ngài than:
“Thân này chẳng phải có, đau từ đâu đến?”
Bèn trở về Tổ
Tuyết Phong.
Tổ Tuyết Phong
hỏi: “Cái gì là Huyền Sa Sư Bị đầu đà?”
Ngài nói:
“Trọn đời chẳng dám dối gạt người”.
Lại một ngày
nọ, Tổ kêu lại hỏi: “Bị đầu đà sao chẳng đi khắp nơi mà học hỏi?”
Ngài nói: “Đạt
Ma chẳng đến Đông Độ, Nhị Tổ chẳng qua Tây Thiên”.
Tổ ưng nhận.
Ngài Vân Môn
mới đầu ra mắt Tổ Mục Châu. Tổ Châu vừa thấy, liền đóng cửa. Ngài Vân Môn
bèn gõ cửa.
Tổ Châu hỏi:
“Ai?”
Ngài đáp: “Tôi
đây”.
Tổ nói: “Làm
gì thế?”
Mục Châu nói:
“Việc mình chưa rõ, xin thầy chỉ bày”.
Tổ Châu mở
cửa, nhìn một cái, liền đóng lại. Cứ vậy, liên tiếp gõ cửa ba ngày. Đến
ngày thứ ba, Tổ Châu mở cửa, Vân Môn bèn sấn vào. Tổ Châu nắm đứng lại,
hét: “Nói, nói!”
Vân Môn suy
nghĩ, thì Tổ Châu bèn xô ra, nói: “Cái đồ vô dụng hết xài!”
Rồi đóng sập
cửa, làm kẹt một chân của Vân Môn. Vân Môn liền triệt ngộ.
Tổ chỉ qua
tham vấn Tuyết Phong.
Như hai ngài
Huyền Sa, Vân Môn cũng là sự trở lại của Tất Lăng Già Bà Ta vậy! Còn mình
đây cũng bị đau chân mà tập khí chẳng chịu trừ.
XI. VIÊN THÔNG VỀ Ý CĂN
Kinh: Ông Tu
Bồ Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi
từ mênh mông kiếp đến nay, tâm được vô ngại, tự nhớ thọ sanh, kiếp số
nhiều như cát sông Hằng. Lúc còn trong thai mẹ đã biết Tánh Không Tịch,
như thế cho đến cả mười phương đều rỗng không và cũng khiến chúng sanh
chứng đắc Tánh Không. Nhờ Như Lai phát minh Tánh Giác là Chân Không, Tánh
Không tròn sáng, đắc A La Hán, tức thời nhập vào Biển Không quý báu sáng
ngời của Như Lai, đồng Phật Tri Kiến, được ấn chứng thành Vô Học. Tánh
Không Giải Thoát, tôi là đầu hết.
“Phật hỏi về
Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, các Tướng nhập vào Phi Tướng, Phi và Sở
Phi đều hết, xoay các pháp về Không, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Ông Tu Bồ Đề từ mênh mông số kiếp đến nay rõ được Tánh Không, nhưng chỉ
biết ngả theo cái Không mà thôi. Nhờ Phật phát minh Tánh Giác là Chân
Không, mới biết cái Không sanh trong Đại Giác cũng như một bọt nước sanh
trong biển lớn, thế nên nói là cái Biển Không quý báu sáng ngời. Ngả qua
cái Không thì chẳng toàn vẹn. Chân Không là toàn vẹn. Ngả về cái Không thì
chưa giải thoát. Chân Không tức Giải Thoát. Chẳng đốn nhập Chân Không, thì
còn ở trong cái Thấy của Nhị Thừa, chưa đồng với cái Thấy Biết của Phật
vậy.
Các Tướng nhập
vào Phi Tướng, ban đầu chỉ là cái Không đơn thuần, nghĩa là làm Không các
Tướng. Cái Phi và Sở Phi đã mất hết, kế đó dùng cái không Không, tức là
không luôn cái Không Tướng. Ban đầu là xoay các Tướng về Không, rồi xoay
các Pháp về Không. Tướng Nhân, Tướng Pháp đều Không, nên trở vào trong
Biển Không quý báu sáng ngời, như ngồi yên trong núi mà thấy Pháp Thân Như
Lai. Phật cũng nói “Ông Tu Bồ Đề thấy trước Pháp Thân của Ta”. Đây là một
chỗ để nghiệm ra là đồng với cái thấy biết của Phật.
Nhà sư tên Trí
Thường ra mắt Đức Lục Tổ.
Tổ hỏi rằng:
“Ông từ đâu đến đây, muốn cầu chuyện gì?”
Đáp rằng:
“Thưa, gần đây tôi đến Hồng Châu, núi Bạch Phong, lạy ra mắt Hòa Thượng
Đại Thông, được chỉ dạy cái nghĩa thấy Tánh thành Phật, mà chưa giải quyết
nổi nghi ngờ. Từ xa đến đây làm lễ, mong Hòa Thượng chỉ bày”.
Tổ nói rằng:
“Vị kia nói gì, ông thử thuật lại xem”.
Đáp rằng: “Trí
Thường này đi đến đó, trải qua ba tháng mà chưa được dạy bảo. Vì thiết tha
với pháp, nên một đêm một mình vào phương trượng cầu hỏi:
“Như sao là
Bản Tâm, Bản Tánh của tôi?”
“Ngài Đại
Thông bèn nói: “Ông có thấy hư không chăng?”
“Đáp: “Dạ,
thấy”.
“Hỏi: “Ông
thấy hư không có tướng dạng gì không?”
“Đáp: “Hư
không vô hình, nào có tướng mạo gì”.
“Ngài Đại
Thông nói: “Ông hãy thấy Bản Tánh cũng như hư không, rốt ráo không có một
vật để thấy, gọi là Chánh Kiến. Không một vật để biết, gọi là thật biết.
Không có xanh, vàng, dài, ngắn. Chỉ thấy cái Bổn Nguyên Thanh Tịnh, cái
Giác Thể tròn đầy sáng suốt, thì gọi là thấy Tánh thành Phật, cũng gọi là
cái Thấy Biết của Như Lai”. Kẻ học Đạo này tuy nghe dạy như vậy mà chưa rõ
hiểu chắc chắn, xin Hòa Thượng chỉ dạy”.
Tổ nói: “Chỗ
dạy của vị ấy vẫn còn nằm trong tri kiến, nên khiến ông chưa rõ, nay ta
chỉ cho ông bài kệ:
“Chẳng thấy một pháp, là còn cái không thấy
Thật như mây nổi che mặt trời
Chẳng biết một pháp, là giữ cái không biết
Lại như thái hư sanh điện chớp
Cái thấy biết ấy vừa khởi lên
Nhận lầm, bao giờ hiểu phương tiện
Ông trong nhất niệm tự biết lấy Chẳng Phải [Tự tri Phi]
Thì cái linh quang chính mình thường rõ hiện”.
Trí Thường
nghe kệ xong, tâm ý rỗng nhiên, bèn trình bài kệ:
“Không đâu, khởi thấy biết
Bám tướng, tìm Bồ Đề
Tình còn một niệm “Ngộ”
Sao thoát khỏi xưa mê
Tự
Tánh Giác nguyên thể
Theo chiếu uổng trôi lăn
Chẳng vào Tổ Sư thất
Mờ
mịt chạy hai đầu”.
Thế có thể nói
là “Nhất niệm biết Chẳng Phải” thì Cái Chẳng Phải (Phi) và cái Chỗ Chẳng
Phải (Sở Phi) đều dứt hết. Từ Ông A Na Luật Đà đến đây là năm vị Thánh,
nói là xoay cái Thấy, quay hơi thở trở về, đem cái mùi vị trở lại, xoay
cái pháp về nguồn, đều là ngược dòng về Một. Đó là do sáu Căn mà chứng
viên thông vậy. Cái xoay ngược cái Nghe của Đức Quan Âm kể riêng ra với
chỗ này, vì là cực quả của Viên Thông, gần với địa vị Phật, nên để sau
chót.
XII. VIÊN THÔNG VỀ NHÃN THỨC
Kinh: Ông Xá
Lợi Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:
“Tôi nhiều kiếp đến nay, cái Thấy từ Tâm được trong sạch. Như thế mà thọ
sanh, kiếp số nhiều như cát sông Hằng. Các pháp thế gian và xuất thế gian,
thảy thảy biến hóa, trong một cái Thấy đều thông suốt, được không chướng
ngại. Tôi ở giữa đường gặp Ca Diếp Ba, anh em hợp ý nhau, nói Pháp Nhân
Duyên, ngộ được cái Tâm không bờ cõi, theo Phật xuất gia. Tánh Giác hằng
thấy tròn đầy sáng ngời, được Đại Vô Úy, thành A La Hán, làm Trưởng Tử của
Phật, từ miệng Phật mà sanh, do pháp mà hóa sanh.
“Phật hỏi về
Viên Thông, như chỗ chứng của tôi, thì cái Thấy của Tâm phát sáng, sáng
tột cái Thấy Biết, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Ông Xá Lợi Phất lúc còn trong bụng mẹ, thì bà mẹ biện luận sáng láng hơn
người cậu. Ông Cậu bảo: “Thằng bé này sanh ra, trí huệ không ai địch nổi”.
Rồi sang Nam Ấn học pháp, không rãnh thời giờ để cắt móng tay, đó là Tỳ
Kheo Trường Trảo [Móng Tay Dài].
Lúc chín tuổi,
Ngài Xá Lợi Phất đã biện luận khuất phục mọi người, vua trong nước rất quý
trọng. Ngài làm bạn với Ông Mục Kiền Liên, kết ước với nhau, hễ được mùi
vị cam lồ của chánh pháp thì cũng hưởng với nhau.
Mục Kiền Liên
giữa đường gặp Tỳ Kheo Mã Thắng, hỏi: “Thầy của ông thuyết pháp gì?”
Mã Thắng đáp:
“Các pháp theo duyên sanh, các pháp theo duyên diệt; Thầy ta, Đại Sa Môn,
thường y như thế thuyết”.
Ông Mục Kiền
Liên tỏ sáng, chứng Sơ Quả; vội qua báo cho Xá Lợi Phất, nghe xong Xá Lợi
Phất cũng chứng Sơ Quả.
Cả hai ông
cùng đến ra mắt Phật. Từ xa trông thấy hai người, Phật bảo với đại chúng:
“Đó là hai đại đệ tử của Ta, một người Trí Huệ Đệ Nhất, một người Thần
Thông Đệ Nhất”.
Ngài Xá Lợi
Phất, cái Thấy của Tâm rất sáng lẹ, theo Phật xuất gia, bảy ngày thông
suốt hết Phật Pháp, trong mười lăm ngày đắc A La Hán, nên gọi là Trí Huệ
Đệ Nhất, làm Trưởng Tử của Phật. Cái Thấy của Tâm không thuộc về Căn hay
Thức, nên có thể bên trong phát ra sáng ngời, sáng khắp cái Thấy Biết,
Tánh Giác của cái Thấy tròn đầy sáng rỡ, được Đại Vô Úy. Cái Thấy chưa
sáng suốt thì có nghi, có sợ, còn Ngài Xá Lợi Phất chín tuổi nghị luận đã
đắc Vô Úy, đến đây lại thông đạt hết Phật Pháp, mới gọi là Đại Vô Úy.
Thiền sư
Trường Khánh Lăng ban đầu ra mắt Tổ Tuyết Phong, hỏi: “Một con đường từ
xưa các Thánh truyền thụ, xin thầy chỉ bày cho”. Tổ Phong im lặng hồi lâu.
Ngài bèn lễ mà lui ra. Tổ Phong bèn mỉm cười.
Ngài đi qua
lại Tổ Tuyết Phong và Huyền Sa như vậy trong suốt hai mươi năm, ngồi thiền
rách hết bảy cái bồ đoàn, mà chẳng rõ được chuyện ấy. Một ngày kia, cuốn
bức sáo lên, hốt nhiên đại ngộ, bèn làm bài tụng:
“Đã lầm to, đã lầm to!
Cuốn bức sáo lên thấy thiên hạ
Có
người nào hỏi, ấy Tông gì
Cầm cây phất tử nhằm miệng đánh”.
Tổ Tuyết Phong
nói với Tổ Huyền Sa: “Ông ấy tỏ suốt rồi vậy”.
Huyền Sa nói:
“Chưa chắc. Đây là do ý thức thuật lại thôi, phải cần xét lại mới được”.
Đến tối, các
sư đến làm lễ, Tổ nói với Ngài Khánh Lăng: “Đầu Đà Bị chưa chịu ông, nếu
thật ngộ, trước chúng hãy nói ra đi!”
Ngài Lăng lại
làm bài tụng:
“Ở
trong muôn tượng lộ riêng thân
Chỉ người tự nhận ấy mới gần
Ngày xưa lầm lạc tìm đường đến
Ngày nay trong lửa thấy ra băng”.
Tổ Phong quay
sang nói với Tổ Huyền Sa: “Không thể là sự trước thuật của ý thức đâu!”
Ôi, thấy ra
băng trong lửa, là một cái nhìn thông suốt, được không chướng ngại. Thiền
sư Lăng khá gọi là có mắt vậy.
XIII. VIÊN THÔNG VỀ NHĨ THỨC
Kinh: Ngài Phổ
Hiền Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi
đã từng làm Pháp Vương Tử cho các Đức Như Lai như số cát sông Hằng. Mười
phương Như Lai dạy các đệ tử có căn cơ Bồ Tát tu Hạnh Phổ Hiền, là do tôi
mà đặt tên.
“Thưa Thế Tôn,
tôi dùng cái Nghe của Tâm mà phân biệt tất cả thấy biết của chúng sanh.
Nếu ở phương nào khác, cách ngoài hằng sa thế giới, có một chúng sanh
trong tâm phát khởi Hạnh Phổ Hiền, thì liền ngay khi ấy, tôi cỡi voi sáu
ngà, phân thân thành trăm, ngàn đến chỗ người ấy. Dầu cho người ấy nghiệp
chướng còn sâu dày, chưa thấy tôi được, tôi cũng âm thầm xoa đầu, ủng hộ
an ủi khiến cho người ấy được thành tựu.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi nói chỗ Bản Nhân của tôi là phát sáng cái Nghe của Tâm, tự
tại mà phân biệt, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng :
Hạnh khắp pháp giới là Phổ, địa vị gần với Phật gọi là Hiền. Đức Phổ Hiền
đã chứng quả vị, nói lại cái Bản Nhân của mình là từ cái Nghe của Tâm phát
sáng, mọi phân biệt đều tự tại. Tận khắp pháp giới rỗng rang như hư không,
không đâu mà Tâm chẳng nghe đến. Biết rành người tu Hạnh Phổ Hiền mà ủng
hộ cho, ấy là trong sự biết rành đó; có một loại Tam Muội Tự Tại, chẳng có
một mảy tơ tạo tác, là do đã chứng Pháp Thân, nên đầy khắp pháp giới, nơi
nào vừa khởi niệm, nơi đó có ngay hạnh nguyện. Đó là Đức và Dụng vô ngại :
Thể là Dụng, Dụng là Thể, nên gọi là Tự Tại.
Đức Quán Âm
theo Căn Tai mà xoay lại cái Nghe, nên được Tịch Diệt Hiện Tiền. Đức Phổ
Hiền theo Nhĩ Thức mà phát sáng, nên được Tự Tại trong phân biệt. Nói là
Hiện Tiền thì chưa từng chẳng phân biệt. Nói là Tự Tại, thì chưa từng
không tịch diệt. Chỗ chứng của hai vị Thánh thật không có chỗ hơn kém.
Ngài Đàm Dực
ban đầu vào Lư Sơn theo học Ngài Viễn Công. Sau trở về Hội Kê, ở núi Tần
Vọng, tụng kinh Pháp Hoa. Trải qua mười hai năm, cảm Đức Bồ Tát Phổ Hiền
hóa thân người nữ, mặc áo quần màu, xách lồng tre, một con heo trắng và
hai củ tỏi, đến trước Ngài, nói : “Thiếp vào núi hái rau quyết, mặt trời
đã xế, sói cọp tung hoành, trở về thì khó sống, xin ở nhờ một đêm”. Ngài
hết sức từ chối, mà người con gái kêu khóc không thôi, bèn bảo nghỉ ở
giường cỏ. Nửa đêm cô kêu la đau bụng, xin Ngài xoa bóp giùm. Ngài từ chối
vì giữ Giới, không được chạm tay. Cô gái càng kêu la quá lắm. Ngài mới lấy
cây tích trượng quấn vải vào rồi ở xa mà xoa cho. Sáng hôm sau, cô gái hóa
áo quần thành mây lành, heo biến thành voi trắng, hai củ tỏi biến thành
hai bông sen, bay lên không mà bảo rằng : “Ta là Bồ Tát Phổ Hiền, đến để
thử ông đó”.
Quan Thái Thú
ở đấy là Mạnh Nghi, tâu lên vua, vua ra lệnh xây chùa Pháp Hoa. Chuyện này
cũng giống chuyện Đức Quan Âm thử Ngài Ngô Đạo Tử.
Việc phân thân
thị hiện, xoa đầu an ủi thì không kể xiết. Ở Trung Hoa như thế, thì ngoài
hằng sa thế giới cũng có thể biết là như vậy.
Có nhà sư hỏi
Tổ Trường Sa: “Vì sao đồng tử Thiện Tài đi dạo thế giới trong thân Bồ Tát
Phổ Hiền suốt vô lượng kiếp mà không khắp hết?”
Tổ Sa nói:
“Ông từ vô lượng kiếp đến nay dạo chơi được khắp hết chăng?”
Hỏi: “Như sao
là Thân Phổ Hiền?”
Tổ Sa nói: “Ở
trong Hàm Nguyên điện, lại chạy kiếm Trường An!”
Lại có nhà sư
từ giã Tổ Đại Tùy.
Tổ hỏi: “Đi
đâu thế?”
Nhà sư đáp:
“Đến núi Nga Mi, làm lễ Đức Phổ Hiền”.
Tổ Tùy dựng
đứng cây phất tử, nói: “Văn Thù, Phổ Hiền chỉ tại trong này!”
Nhà sư vẽ một
vòng tròn, ném về sau lưng.
Tổ Tùy nói:
“Thị giả! Đem thêm trà cho vị sư này!”
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng :
“Biết pháp thì sợ
Khinh địch thì mất
Trong nước phân sữa
Phải là ngỗng chúa!”.
XIV. VIÊN THÔNG VỀ TỶ THỨC
Kinh: Ông Tôn
Đà La Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:
“Lúc tôi mới xuất gia, theo Phật vào Đạo, tuy đầy đủ Giới Luật, mà trong
Tam Ma Địa thì tâm thường tán động, chưa được Vô Lậu. Thế Tôn dạy tôi và
Ông Câu Hy La quán đầu mũi trắng. Lúc bắt đầu tu quán ấy trải qua ba lần
bảy ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói. Thân tâm bên trong sáng
rỡ, rỗng suốt vẹn khắp thế giới, khắp hết thành rỗng không, sáng sạch, như
ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần hết mất, hơi thở hóa thành trắng. Tâm khai
ngộ, các lậu hết sạch thì các hơi thở ra vào hóa thành hào quang, soi khắp
mười phương thế giới, đắc A La Hán. Thế Tôn thọ ký cho tôi sẽ đắc Bồ Đề.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi dùng sự tiêu mất hơi thở, yên lặng lâu thì phát ra sáng
suốt, sáng suốt tròn khắp thì diệt hết các lậu, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Ông Nan Đà là em ruột của Phật, rất thương vợ nên tâm thường tán động.
Phật dùng nhiều phương tiện điều phục cho mà đắc quả. Trước điều khiển hơi
thở là y nơi Căn, từ thô vào tế, từ tế vào Không, đó là xoay lại các Căn.
Cách quán lỗ mũi trắng này là y nơi Thức. Hơi thở ban đầu như khói, kế hóa
thành trắng, sau cùng thành quang minh, đó là phát từ Thức. Hơi thở trong
mũi, sao lại thành khói? Hơi thở do gió và lửa khởi ra, làm động cái phiền
não trược, nên hình dạng như khói. Đến khi tịnh quán phát sáng, thân tâm
rỗng suốt, phiền não trược dần dần tiêu, nên hơi thở nơi mũi hóa thành
trắng. Tâm khai ngộ, hết sạch các Lậu, không còn phiền não, cái sáng suốt
bên trong phát chiếu ra, thì thấy thế giới như ngọc lưu ly, thế hơi thở
chẳng hóa thành quang minh ư ? Hai thứ này, các Đạo Gia dưỡng sanh cho là
bí truyền; còn nếu nơi Căn Viên Thông mà chứng được, thì há chẳng phải là
hột giống Phật ư?
Xưa, Ngài Bách
Trượng đang đi cùng Tổ Mã Tổ, thì thấy một bầy vịt trời bay qua.
Tổ nói: “Cái
gì thế?”
Ngài Trượng
nói: “Vịt trời”.
Tổ nói: “Đi
đâu rồi?”
Ngài Trượng
nói: “Bay qua rồi”.
Tổ bèn nắm mũi
Bách Trượng kéo mạnh, Ngài đau quá la lên.
Tổ nói: “Còn
nói bay qua nữa thôi?”
Ngài Bách
Trượng liền tỉnh ngộ, về liêu thị giả, tấm tức khóc lớn.
Vị thị giả
khác hỏi: “Ông nhớ cha mẹ ư?”
Đáp : “Không”.
Hỏi : “Bị
người mắng chăng?”
Đáp : “Không”.
Hỏi : “Thế
chuyện gì khóc?”
Đáp : “Lỗ mũi
tôi bị đại sư vặn đau quá mà chẳng thấu triệt”.
Hỏi : “Có nhân
duyên gì chẳng khế hợp được?”
Đáp : “Ông đi
hỏi lấy đại sư đi!”
Vị thị giả ấy
đi hỏi Mã Tổ: “Thị giả Hoài Hải Bách Trượng có nhân duyên gì không khế
hợp, đang kêu khóc ở trong phòng, xin Hòa Thượng nói cho con!”
Đại sư nói:
“Đó là hắn hiểu vậy, ông hãy tự mình hỏi lấy hắn ta xem”.
Vị ấy về phòng
nói với Bách Trượng: “Hòa Thượng nói ông hiểu rồi, bảo tôi về tự hỏi ông?”
Bách Trượng ha
hả cười lớn.
Vị thị giả
nói: “Vừa mới khóc, sao giờ lại cười?”
Bách Trượng
nói: “Hồi nãy khóc, bây giờ cười!”
Vị thị giả
chẳng hiểu sao cả.
Hôm sau, Mã Tổ
lên tòa giảng, đại chúng vừa nhóm họp, thì Bách Trượng bước ra cuốn chiếu.
Tổ bèn xuống tòa. Bách Trượng đi theo đến phương trượng. Tổ nói: “Hồi nãy
ta chưa hề mở lời, tại sao ông lại cuốn chiếu?”
Bách Trượng
nói: “Hôm qua bị Hòa Thượng vặn lỗ mũi đau quá!”
Tổ nói: “Hôm
qua ông lưu tâm chỗ nào?”
Bách Trượng
nói: “Lỗ mũi hôm nay lại không đau”.
Tổ nói: “Ông
thật biết rõ chuyện hôm qua”.
Ngài Bách
Trượng làm lễ rồi lui ra.
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng:
“Con vịt trời, biết sao đây?
Mã
Tổ vừa thấy, nói cùng nhau
Nói hết núi mây, trăng biển, tình
Như xưa, chẳng hội, liền bay mất
Muốn bay chăng?
Nắm đứng lại
Nói, nói!”
Lại có người
nói được, thì phải như Bách Trượng lỗ mũi đau mà chẳng thấu triệt, mới
được quang minh chiếu mười phương thế giới, đốn chứng Viên Thông.
XV. VIÊN THÔNG VỀ THIỆT THỨC
Kinh: Ông Phú
Lâu Na Di Đa La Ni Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật,
thưa rằng: “Tôi từ bao kiếp đến nay, biện tài vô ngại, tuyên thuyết Khổ,
Không, thấu suốt Thật Tướng. Như thế cho đến các Pháp Môn Bí Mật của hằng
sa Như Lai, tôi đều ở trong chúng khai thị một cách vi diệu, được Vô Sở
Úy. Đức Thế Tôn biết tôi có đại biện tài, nên dạy tôi tuyên dương bằng
Pháp Luân Âm Thanh. Tôi ở trước Phật, giúp Phật chuyển Pháp Luân, nhân
phát lên tiếng rống Sư Tử, thành A La Hán. Thế Tôn ấn chứng cho tôi thuyết
pháp hơn hết thảy.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi dùng Pháp Âm hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu diệt các Lậu,
đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng :
Đây là lấy Thiệt Căn tuyên dương chỗ toàn vẹn một ngàn hai trăm công đức,
nên chẳng dùng sự nếm Vị để hiển bày Thiệt Thức. Rõ biết cái Khổ không có
Khổ Tướng, cái Không không có Không Tướng, gọi là hiểu thấu sâu xa Thật
Tướng. Ngay nơi Khổ, Không mà thuyết Thật Tướng, đó là pháp môn bí mật.
Khai thị một cách vi diệu, rỗng suốt đến nguồn Pháp, nên được Vô Úy. Phật
dùng ba Pháp Luân “Thân, Khẩu, Ý” mà ứng vật không vướng mắc. Ông Phú Lâu
Na chỉ dùng Pháp Luân Âm Thanh mà thành A La Hán. Trong thì tiêu diệt các
lậu, mật chứng Thật Tướng; ngoài thì rộng nói Pháp bí mật, hàng phục tà ma
ngoại đạo. Biện tài vô ngại, là người Thuyết Pháp Số Một, đều do Thiệt
Thức mà được Viên Thông vậy.
Tọa chủ Lượng
ra mắt Ngài Mã Tổ. Tổ nói : “Nghe nói tọa chủ giảng Kinh, Luận thông suốt
lắm, có phải không?”
Thầy Lượng
nói: “Dạ, không dám”.
Tổ nói: “Lấy
cái gì giảng?”
Thầy Lượng
nói: “Lấy tâm giảng”.
Tổ nói: “Tâm
như tay thợ đàn giỏi, Ý như con hát hòa theo, làm sao giảng được kinh?”
Thầy Lượng cãi
lại rằng: “Tâm đã chẳng giảng được, chẳng lẽ hư không giảng được sao?”
Tổ nói: “Vậy
mà hư không giảng được!”
Thầy Lượng
không chịu, bèn bỏ đi ra.
Vừa xuống
thềm, Ngài Mã Tổ gọi lớn: “Tọa Chủ!”
Thầy Lượng
quay đầu lại, hoát nhiên đại ngộ. Bèn lễ bái.
Tổ nói: “Cái
ông thầy độn căn này, lễ bái làm gì!”
Thầy Lượng về
chùa, nói với thính chúng rằng : “Tôi giảng kinh không ai bì kịp, thế mà
hôm nay bị đại sư Mã Tổ hỏi cho một câu, tất cả công phu trước giờ đều như
băng rã tiêu tan”.
Bèn vào núi
Tây Sơn, không còn dấu vết.
Há chẳng tiêu
diệt các lậu hay sao?
Thiền sư Bàn
Am Thành nói trước đại chúng: “Này các nhân giả! Hãy biết nay tôi hét lên
một tiếng, có thể thấu đáo cả ngũ giáo”.
Im lặng một
lúc, rồi hét lớn một tiếng mà hỏi: “Có nghe không?”
Đại chúng đáp:
“Có nghe”.
Thiền sư nói:
“Nay các ông có nghe một tiếng hét này, thế là Có, tức là vào Tiểu Thừa
Giáo”.
Rồi hỏi tiếp:
“Giờ các ông có nghe không?”
Đáp: “Không
nghe”.
Thiền sư nói:
“Giờ các ông không nghe, thì một tiếng hét này là Không, đó là vào Đại
Thừa Thủy Giáo. Khi tôi mới hét, các ông đã bảo rằng Có; hét xong âm thanh
tiêu mất, các ông lại nói rằng Không. Nhưng nói không, nghĩa là trước kia
là có; nói rằng có, thì bây giờ là không. Thế là Chẳng Có, Chẳng Không, đó
là vào Đại Thừa Chung Giáo. Khi tôi có hét, có chẳng phải là có, nhân nơi
không mà có. Khi không hét, không chẳng phải là không, nhân nơi có mà
không. Ấy là Tức Có Tức Không, là vào Đốn Giáo. Tôi ở nơi một tiếng hét,
chẳng khởi ra cái Dụng của tiếng hét, thì Có và Không chẳng lập, ngộ và
giải đều mất. Khi nói Có, mảy lông chẳng lập. Khi nói Không, rộng khắp hư
không. Tức một tiếng hét này, tức là trăm ngàn vạn ức tiếng hét. Trăm ngàn
vạn ức tiếng hét tức là một tiếng hét này. Đó là vào Viên Giáo”.
Các lời biện
luận ghê gớm này, người nghe đều phải khuất phục, há chẳng hàng phục được
ma oán ư?
XVI. VIÊN THÔNG VỀ THÂN THỨC
Kinh: Ông Ưu
Bà Ly liền từ chỗ ngời đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Chính
tôi được theo Phật vượt thành xuất gia, được chính mình thấy Phật sáu năm
khổ hạnh chuyên cần. Đích thân thấy Như Lai hàng phục các ma, chế ngự
ngoại đạo, giải thoát các lậu tham dục của thế gian. Nhờ Phật dạy cho Giới
Luật, như thế cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn Tế Hạnh, các Tánh Nghiệp
và Giá Nghiệp đều thanh tịnh, thân tâm tịch nhiên, thành A La Hán. Tôi là
cái mẫu mực trong chúng của Như Lai. Phật ấn chứng cho tôi giữ Giới thân
tâm hơn cả trong chúng.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi do lấy việc giữ gìn cái Thân, mà Thân được tự tại; lần đến
giữ gìn cái Tâm, mà Tâm được thông suốt; rồi sau cả thảy Thân Tâm đều
thông suốt, nhạy bén, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Đức Như Lai sáu năm cần khổ, những cái gì ngoại đạo không làm nổi, Ngài
đều làm hết. Thế nên có thể chế phục các ngoại đạo, lại giải thoát các lậu
tham dục của thế gian, mà tà ma không thể quấy phá. Tức là các thứ binh
khí của chúng đều hóa thành hoa sen, nên các ma chịu phục. Đều là do Thân
giữ Giới Hạnh, ba ngàn tám vạn không đâu chẳng tròn đủ, bởi thế tà ma
ngoại đạo chắp tay thán phục. Đi, đứng, nằm, ngồi, mỗi thứ có hai trăm năm
chục, đối với ba tụ Tịnh Giới thành ra ba ngàn, lại lấy ba ngàn phối hợp
với ba cái của Thân [Sát, Đạo, Dâm], bốn cái của Miệng [Vọng Ngôn, Lưỡng
Thiệt, Ác Khẩu, Ỷ Ngữ] là bảy chi thành ra hai vạn một ngàn. Lại phối hợp
với bốn phần phiền não, thành tám vạn bốn ngàn. Phật chế định Luật này là
Giới Hạnh của Sa Môn, khiến cho Thân Tâm đều thanh tịnh. Bốn lỗi lầm dơ
đục như Sát, Đạo, Dâm, Vọng thì tánh của chúng vốn là tội, không đợi phải
ngăn cấm, phạm liền thành nghiệp, nên gọi là Tánh Nghiệp. Còn lại thì nhân
có phạm mới ngăn cấm. Trước khi chế định mà phạm thì không tội, nên gọi là
Giá Nghiệp. Hai nghiệp đều trừ sạch liền được Không Tịch.
Ban đầu dùng
sự giữ gìn Thân, thì Thân được tự tại, ấy gọi là Tánh Nghiệp thanh tịnh.
Lần đến giữ gìn Tâm, thì Tâm được thông suốt, ấy gọi là Giá Nghiệp thanh
tịnh. Giữ gìn Thân rồi đến Tâm, Tâm là cái Thân của Thức, cái Thức về Thân
đã diệt, nên Chân Trí hiện bày trước mắt. Giới trong sạch là Trí Huệ, bèn
được Đạo Đệ Nhất. Đó là Ông Ưu Bà Ly giữ Giới số một, làm mẫu mực trong
chúng vậy. Cho đến khi cả thảy Thân Tâm đều thông suốt, nhạy bén là vào
chỗ Ngộ vậy, há đợi giữ gìn riêng Thân ư?
Tôn giả Bà Tu
Bàn Đầu [Dịch là Biến Hành] thường ngày ăn chỉ một bữa, không nằm, sáu
thời lễ Phật, trong sạch không dục, làm chỗ nương về của chúng.
Tổ Thứ Hai
Mươi là Ngài Tôn Giả Xà Dạ Đa muốn độ cho Ngài, trước hết hỏi chúng kia
rằng: “Vị đầu đà Biến Hành này hay tu Phạm Hạnh, có thể đắc Phật Đạo
không?”
Đại chúng nói
: “Thầy chúng tôi tinh tấn, sao lại không thể?”
Tổ nói: “Thầy
các của cùng với Đạo cách xa vậy. Giả sử có khổ hạnh trải qua nhiều kiếp
như bụi cũng là cái gốc hư vọng đó”.
Đại chúng nói:
“Tôn giả chứa nhóm được đức hạnh gì mà xét bàn thầy chúng tôi?”
Tổ nói: “Ta
chẳng cầu Đạo, cũng chẳng điên đảo. Ta chẳng lễ Phật, cũng chẳng khinh
mạn. Ta chẳng ngồi hoài, cũng chẳng giải đãi. Ta chẳng ăn một bữa, cũng
chẳng ăn lộn xộn. Ta chẳng tri túc, mà cũng chẳng tham dục. Tâm không có
chỗ mong cầu, gọi đó là Đạo”.
Khi ấy. Ngài
Biến Hành nghe xong, Trí Vô Lậu liền phát, hoan hỉ ca ngợi.
Tổ lại nói với
đại chúng ấy rằng : “Hiểu lời ta chăng? Ta sở dĩ làm thế, vì tâm cầu Đạo
của người ấy tha thiết. Phàm là dây đàn căng thì đứt nên ta chẳng tán
thưởng mà khiến giúp người trụ nơi chỗ An Lạc, vào Trí Huệ Chư Phật”.
Tổ lại nói với
Ngài Biến Hành: “Ta vừa rồi ở trước chúng mà ức hiếp ông, trong lòng ông
không buồn chứ?”
Ngài Biến Hành
nói: “Tôi nhớ lại bảy kiếp trước, sanh ở nước Thường An Lạc, thầy là Trí
Giả Nguyệt Tịnh thọ ký cho tôi chẳng bao lâu sẽ chứng quả Tư Đà Hàm. Lúc
ấy có Bồ Tát Đại Quang Minh ra đời. Tôi vì đã già nên chống gậy lạy ra
mắt.
“Thầy la rằng:
“Trọng con khinh cha, sao lại thô lậu thế?”
“Khi ấy, tôi
tự cho là không có lỗi, xin thầy dạy cho”.
“Thầy nói:
“Ông làm lễ Bồ Tát Đại Quang Minh, lại để cây gậy dựa vào mặt Phật vẽ trên
vách. Vì lỗi coi thường này mà mất quả thứ hai”.
“Tôi tự ăn năn
là từ xưa đến nay, nghe lời dữ thì như gió như vang, huống hồ nay được
uống nước cam lồ vô thượng mà lại sanh buồn phiền ư? Xin Ngài rủ lòng đại
từ, chỉ dạy Diệu Đạo cho”.
Tổ nói: “Ông
trồng các Đức đã lâu, sẽ kế vị Tông ta”.
Bèn phó chúc
bài pháp kệ:
“Dưới lời hợp Vô Sanh
Đồng với pháp giới tánh
Nếu tỏ hiểu như thế
Thông suốt hết Sự, Lý”.
Đây là Tổ Thứ
Hai Mươi Mốt.
Ôi, chẳng tu
Phạm Hạnh mà mong được Vô Thượng Bồ Đề, thì xưa giờ chưa hề nghe vậy.
XVII. VIÊN THÔNG VỀ Ý THỨC
Kinh: Ông Đại
Mục Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa
rằng: “Ban đầu tôi giữa đường khất thực thì gặp ba anh em họ Ca Diếp Ba là
các Ông Ưu Lâu Tần Loa, Già Gia và Na Đề, tuyên nói thâm nghĩa Nhân Duyên
của Như Lai, tôi liền phát tâm, được rất thông suốt. Như Lai ban cho tôi
áo cà sa đắp thân, râu tóc tự rụng. Tôi ngao du mười phương, được không
chướng ngại, Thần Thông hiển phát, được chúng cho là hơn cả, thành A La
Hán. Không chỉ Thế Tôn, mà mười phương Như Lai đều khen sức Thần Thông của
tôi là tròn sáng trong sạch, Tự Tại Vô Úy.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi do xoay về Bản Tánh Trong Lặng, ánh sáng của Tâm mở phát,
như lắng nước đục lâu thành trong sáng, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Con người không thể tròn sáng, trong sạch là do ý thức trôi lạc theo trần,
do đó tâm bị cái hình sử dụng, chẳng phải là cái thần sử dụng. Nếu thức
không trôi lăn mà quay về Bản Tánh Diệu Trạm, thì như lắng nước đục, lâu
ngày trong sáng, ánh sáng của Tâm mở phát, thần thông tự tại, cái ý thức
được không-ngăn ngại. Trong Lục Thông, chỉ có Lậu Tận Thông là nội chứng,
còn năm cái kia đều thuộc về sự dùng bên ngoài. Kinh Viên Giác nói: “Như
Huyễn Tam Muội, như mầm dần tăng trưởng”. Thế nên tích tập lâu ngày, mới
thật trong sáng.
Nhà sư Bảo
Chí, ban đầu chỉ tập định, định lâu ngày bỗng nhiên được thần thông.
Thiền sư Đặng
Ẩn Phong, mùa Đông ở núi Hành Nhạc, mùa Hạ ở núi Thanh Lương. Trong năm
Nguyên Hòa, Ngô Nguyên Tế khởi binh, chống lại triều đình. Quân triều đình
cùng giặc giao tranh không phân thắng bại. Thiền sư nói: “Ta phải đi giải
bỏ hoạn nạn này”. Bèn ném cây gậy lên không, bay thân qua đến. Tướng sĩ
hai bên ngước lên xem, sự việc hợp với giấc mộng báo trước, tâm tranh đấu
mất ngay.
Sư đã hiện
thần thông lạ lùng, e làm mê lầm đại chúng, bèn vào núi Ngũ Đài, trước
động Kim Cương, trước khi thị tịch, dạy chúng rằng: “Người ở các nơi khi
thị tịch, ngồi mà chết, nằm mà chết, ta đều thấy cả, còn có ai đứng mà
chết chưa?”
Đại chúng đáp:
“Dạ, có”.
Ngài nói: “Còn
có ai đứng ngược đầu chưa?”
Đại chúng nói:
“Dạ, chưa từng thấy”.
Thiền sư Phong
bèn đứng ngược đầu mà hóa, áo quần vẫn xuôi theo thân mình. Khi chúng
khiêng đi làm lễ hỏa táng, vẫn sừng sững chẳng động. Người xem xa gần thấy
vậy, lạ lùng khen ngợi không dứt.
Ngài có một
người em gái làm ni cô, khi ấy cũng ở đấy, bèn tát tai mà la rằng: “Lão
huynh khi sống thì chẳng theo pháp luật, lúc chết lại hoa mắt lừa người!”
Rồi lấy tay xô
ngã ầm xuống.
Cho nên thần
thông là quả vị, mà người sáng mắt cũng chẳng màng.
Tổ Ngưỡng Sơn
lên tòa giảng, có nhà sư Ấn từ trên không bay đến. Tổ Ngưỡng Sơn nói :
“Mới vừa rời chỗ nào?”
Đáp : “Ấn Độ”.
Tổ nói : “Rời
đó khi nào?”
Đáp : “Hồi
sáng nay”.
Tổ nói : “Sao
chậm quá vậy!”
Đáp : “Còn vui
chơi non nước”.
Tổ nói : “Du
hý thần thông thì chẳng phải không có. Nhưng đối với Phật Pháp, Xà Lê phải
cần lão tăng mới được”.
Đáp rằng:
“Định qua Đông Độ làm lễ Đức Văn Thù, lại gặp Tiểu Thích Ca”.
Rồi lấy ra
kinh điển Phạn bằng lá bối đưa cho Tổ Ngưỡng Sơn, rồi nương không trung mà
đi.
Tổ Ngưỡng Sơn
dạy chúng rằng: “Ta nay hướng về các ông mà nói chuyện phía Thánh. Hãy chớ
đem tâm mà níu, đậu. Chỉ hướng vào cái Biển Tánh chính mình, như Phật mà
tu. Chẳng cần đến Tam Minh và Lục Thông. Vì sao thế? Vì đó là chuyện ngọn
ngành rốt chót của Thánh. Như nay chỉ cốt rõ Tâm, đạt gốc, hễ đạt gốc thì
lo gì cái ngọn, mai kia sẽ tự đầy đủ hết trong ấy. Nếu chưa đạt cái gốc,
dầu cho đem vọng tình mà học cái việc ấy cũng không được. Các ông há chẳng
thấy Hòa Thượng Quy Sơn nói: Tình phàm Thánh hết, thể lộ Chân Thường, Sự
Lý không hai, tức Như Như Phật”.
Đây là con
đường Chánh Pháp tròn sáng, trong sạch vậy. Từ Ngài Xá Lợi Phất đến đây,
nói rằng: “Cái Thấy của Tâm, cái nghe của Tâm, ánh sáng của Tâm, đó là
chẳng do căn, chẳng do cảnh, thoát hết căn trần, rốt ráo không tập khí mê
lầm. Đây là do sáu Thức mà chứng Viên Thông vậy.
XVIII. VIÊN THÔNG VỀ HỎA ĐẠI
Kinh: Ông Ô Sô
Sắt Ma ở trước Đức Phật, chấp tay đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi
thường nhớ, trước kia trong kiếp xa xôi, tánh khí nhiều tham dục. Có Phật
ra đời, hiệu là Không Vương dạy rằng: “Người đa dâm thành đống lửa hồng”.
Ngài dạy tôi quán khắp các khí nóng, lạnh nơi trăm vóc tứ chi. Tôi quán
như thế mà thần quang lặng đứng ở trong, hóa cái tâm thức đa dâm thành lửa
Trí Huệ. Từ ấy, các Đức Phật đều gọi tôi tên là Hỏa Đầu. Tôi dùng sức Hỏa
Quang Tam Muội mà thành A La Hán. Tâm phát đại nguyện khi các Đức Phật
thành đạo, tôi làm lực sĩ ở bên Phật mà dẹp phục tà ma quấy phá.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi quán sát các hơi ấm nơi thân tâm, lưu thông không ngại,
các lậu đã tiêu, sanh ra ngọn lửa Đại Trí quý báu, chứng Vô Thượng Giác,
đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng :
Trong đoạn trước, về bảy Đại, nói Tánh lửa là Chân Không, Tánh Không là
Chân Lửa, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp Pháp Giới. Vì Hỏa Quang Tam Muội
vốn sẵn đủ cái lực không thể nghĩ bàn, nên Ông Hỏa Đà Kim Cang mới dùng
cái Thần Quang lắng đọng, hóa cái tâm đa dâm thành ra ngọn lửa Trí Huệ.
Chánh ở nơi chỗ bắt đầu động của Chân Hỏa mà phản bổn hoàn nguyên, quay về
thanh tịnh, thành ra Trí Huệ. Người đa dâm thì hơi nóng bức bách phát ra,
sống thì làm lửa dục, chết thì làm lửa nghiệp. Nghiệp lực lừng mạnh, thành
đống lửa lớn.
Bồ Tát Di Lặc
nói : “Trai gái qua lại với nhau, đôi bên giao hợp, cái bất tịnh chảy ra.
Chư Thiên cõi Dục Giới, tuy hành dâm dục, không có cái bất tịnh này, nhưng
ở căn môn có hơi gió xuất ra, thì hơi nóng bức bèn hết. Các Trời ở cõi Tứ
Thiên Vương, khi giao hợp thì cái nóng bức bèn hết. Như cõi Tứ thiên
Vương, cõi Trời Thứ Ba Mươi Ba là Đao Lợi Thiên cũng thế. Cõi Trời Phần
Thiên thì ôm lấy nhau, cái nóng bức liền hết. Cõi Trời Tri Túc, chỉ cần
nắm tay nhau, cái nóng bức liền hết. Cõi Trời Hóa Lạc thì nhìn nhau mà
cười thì cái nóng bức liền hết”.
Đó há chẳng
phải là lòng dục càng giảm thì cái chốn ở càng cao ư?
Cô Ma Đăng Già
lòng Dâm tiêu tan hết, liền chứng Quả Thứ Ba. Ông Hỏa Đầu Kim Cang các Lậu
đã tiêu, chứng Vô Thượng Giác, thì có gì lạ đâu?
Ngài Quy Sơn
đang đứng hầu Tổ Bách Trượng.
Tổ Trượng hỏi:
“Ai đó?”
Ngài Quy Sơn
nói: “Dạ, tôi”.
Tổ Trượng nói:
“Ông bới trong lò xem có lửa không?”
Ngài Quy bới,
rồi nói: “Không có lửa”.
Tổ Trượng đứng
lên, tự mình bới sâu xuống được chút lửa, đưa ra cho xem và nói: “Ông nói
là không, thế cái gì đây?”
Quy Sơn do đó
phát ngộ, làm lễ tạ ơn và trình chỗ hiểu.
Tổ nói: “Đây
mới là đường rẽ tạm thời thôi. Kinh nói rằng: “Muốn rõ nghĩa Phật Tánh
phải xem thời tiết nhân duyên”. Thời tiết đã đến thì như mê bỗng ngộ, như
quên bỗng nhớ, mới biết cái vật ấy của ta chẳng do người mà được. Bởi thế
Tổ Sư nói: “Ngộ rồi đồng chưa ngộ, không tâm cũng không pháp”. Chỉ cái Tâm
không phàm Thánh hư vọng là cái Tâm Pháp Bổn Lai, vốn tự sẵn đủ. Ông nay
đã thế, hãy khéo hộ trì”.
Ngày hôm sau,
Ngài cùng Tổ Bách Trượng vào núi làm việc.
Tổ Trượng nói:
“Đem được lửa đến không?”
Ngài Quy Sơn
nói: “Đem đến được”.
Tổ nói: “Ở
đâu, nào?”
Ngài Quy Sơn
bèn cầm lên một cành củi, thổi hai cái, đưa cho Tổ Trượng.
Tổ nói : “Như
con trùng địch với cái cây”.
Ngài Diệu Hỉ
nói: “Nếu Tổ Bách Trượng không có lời nói sau, thì sẽ bị thầy Điển Tòa
khinh lắm”.
Đây cũng là do
Hỏa Đại mà lên Vô Thượng Giác vậy. Há phải quán sát cái khí nóng lạnh
trong thân mới chứng Viên Thông ư? |