PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU
MỤC BA: HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ VIÊN THÔNG
XIX. VIÊN THÔNG VỀ ĐỊA ĐẠI
Kinh: Ngài Trì
Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:
“Tôi nhớ xưa kia, khi Đức Phật Phổ Quang xuất hiện giữa đời, tôi làm Tỳ
Kheo, thường ở nơi các nẻo đường bến đò, chỗ đất hiểm trở eo hẹp không
đúng quy tắc, có thể làm hư hại ngựa xe, tôi đều đắp bằng. Hoặc làm cầu
cống, hoặc gánh đất cát, siêng năng khó nhọc như thế trải qua vô lượng
Phật xuất hiện ra đời. Hoặc có chúng sanh ở nơi chợ búa, cần người mang đồ
vật thì tôi tình nguyện mang hộ đến nơi, để đồ xuống là đi ngay, không lấy
tiền thuê.
“Khi Đức Phật
Tỳ Xá Phù ra đời, thế gian phần nhiều đói kém, tôi cõng giúp người không
kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền. Hoặc có xe bò bị lún sình lầy, tôi dùng
thần lực đẩy giúp bánh xe, gỡ khỏi khổ não. Vị vua trong nước thời ấy
thiết trai thỉnh Phật, lúc ấy tôi sửa sang đường đất bằng phẳng chờ Phật
đi qua. Đức Phật Tỳ Xá xoa đảnh đầu tôi mà nói : “Hãy bình đẳng nơi Tâm
Địa, tức đất đai thế giới, tất cả đều bình”. Tâm tôi liền khai ngộ, thấy
vi trần nơi thân thể cùng với vi trần tạo thành thế giới đều bình đẳng
không sai biệt. Tự tánh của vi trần không xát chạm nhau, cho đến các thứ
đao binh cũng không chỗ nào đụng chạm. Tôi ở trong Pháp Tánh ngộ Vô Sanh
Nhẫn, thành A La Hán. Hồi tâm về, nay vào trong địa vị Bồ Tát, nghe các
Đức Như Lai bày chỗ Tri Kiến Diệu Liên Hoa của Phật, thì tôi chứng minh
trước tiên mà làm vị Thượng Thủ.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi do chánh quán hai thứ Trần nơi căn thân và nơi thế giới
đều bình đẳng không sai biệt, vốn là Như Lai Tạng mà hư vọng phát ra trần
tướng. Trần tướng tiêu tan, Trí Huệ liền tròn sáng, thành Đạo Vô Thượng,
đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng :
Các pháp bình đẳng, nào có cao thấp. Tâm Địa nếu bình đẳng, phân biệt
chẳng sanh thì chẳng thấy mọi tướng đây kia, cao thấp, tức tất cả đều
bình. Bồ Tát Trì Địa do đây mà ngộ nhập Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh.
Tánh Sắc Chân Không, Tánh Không Chân Sắc, tự tánh của vi trần không xát
chạm nhau, vốn tự bình đẳng, vốn tự Vô Sanh vậy. Vi trần này đây bên trong
là Thân Trần, do vi trần tích tập; ngoài là Giới Trần, cũng do vi trần
tích tụ. Vi trần ấy nguyên là không tự tánh, chỉ có trong hư vọng. Hiện là
chốn hư vọng, tức ngay chỗ Vô Sanh, đó là Diệu Chân Như Tánh.
Cái Sắc Thân
này của ta, chính là Diệu Chân Như Tánh. Tức cái Cõi Sắc này cũng là Diệu
Chân Như Tánh. Tánh vốn không hai, Sắc Trần nào có sai biệt. Đã không sai
biệt, thì cho đến đao binh cũng không có chỗ nào để đụng chạm. Ngộ Pháp
Tánh ấy thì xúc chạm vốn chẳng sanh ra, xúc tức là không xúc, đó là Vô
Sanh Nhẫn, vào Tri Kiến Phật. Nhập Tri Kiến Phật thì gọi là Trí, tức là
Sắc Trần vốn chẳng phải Sắc Trần, thế nên Trần tự tiêu tan. Đó là chẳng
lìa Sắc Trần mà thấu đạt Trí Huệ, thì Trí Huệ tròn đầy. Trí Huệ tròn khắp
mới tự chứng sáng suốt được cái pháp Liên Hoa mầu nhiệm mà thành Vô Thượng
Giác.
Tổ Quy Sơn một
hôm chỉ đám ruộng hỏi Ngài Ngưỡng Sơn: “Mẫu ruộng kia, phải đầu kia cao
đầu này thấp?”
Ngài Ngưỡng
Sơn nói: “Lại là đầu kia cao, đầu này thấp!”
Tổ nói: “Ông
không tin, đứng ở giữa mà nhìn hai đầu xem”.
Ngài Ngưỡng
Sơn nói: “Chẳng cần phải đứng giữa, mà cũng không trụ hai đầu”.
Tổ Quy Sơn
nói: “Nếu thế thì đổ nước vào xem, nước hay làm bằng phẳng vật”.
Ngài Ngưỡng
nói: “Nước cũng vô định, xứ cao bằng cao, xứ thấp bằng thấp!”
Tổ Quy Sơn bèn
thôi.
Như hai cha
con Quy, Ngưỡng hai bên chẳng lập, mà Trung Đạo cũng chẳng thèm ở, thế có
thể nói là khéo bình Tâm Địa, nên tất cả đều bình.
Có Hòa Thượng
Đả Địa [Đánh Đất], lãnh được ý chỉ của Giang Tây Mã Tổ, thường che giấu
chỗ sáng suốt. Phàm có người tu học đến hỏi, thì chỉ lấy cây gậy đánh
xuống đất mà chỉ bày. Thời ấy gọi Ngài là Đả Địa Hòa Thượng. Hôm nọ, bị
nhà sư kia dấu mất cây gậy, rồi mới hỏi. Ngài chỉ hả miệng ra mà thôi.
Nhà sư hỏi học
trò của Ngài: “Hòa Thượng thường ngày có người hỏi liền đánh xuống đất, ý
chỉ thế nào?”
Người học trò
liền lấy một miếng củi trong bếp bỏ vào nồi.
Chẳng thấu
suốt hết “Trần tiêu Trí tròn đầy”, đắc Vô Sanh Nhẫn thì chẳng có thể hiểu
được ý chỉ này.
XX. VIÊN THÔNG VỀ THỦY ĐẠI
Kinh: Ngài
Nguyệt Quang Đồng Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật,
thưa rằng: “Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời, hiệu là
Thủy Thiên, dạy hàng Bồ Tát tu tập pháp quán về nước, để vào Tam Ma Địa.
Quán ở trong thân, tánh nước không gì ngăn ngại: ban đầu từ nước mắt, nước
mũi, cho đến tất cả các thứ tân, dịch, tinh, huyết, đại tiểu tiện, xoay
vần trong thân, đồng một Tánh Nước. Thấy nước trong thân cùng nước các
hương thủy của các cõi Phật ở ngoài thế giới đều bình đẳng không sai biệt.
“Khi ấy, tôi
mới thành tựu Pháp Quán này, chỉ mới thấy nước, chưa được không thân. Lúc
đó, đang làm Tỳ Kheo, ngồi thiền trong phòng, tôi có người học trò lén
nhòm cửa sổ thấy trong phòng chỉ toàn nước trong, đầy khắp cả phòng ngoài
ra không thấy gì khác. Nhỏ dại không biết, lấy một miếng ngói ném vào
trong nước, chạm vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi.
“Sau, tôi xuất
định liền cảm thấy đau tim, cũng như Ông Xá Lợi Phất bị quỷ Vi Hại đập.
Tôi tự suy nghĩ : Nay đã đắc quả A La Hán, duyên bệnh đã lìa từ lâu, vì
sao hôm nay bỗng sanh đau tim, chẳng lẽ lại bị lui sụt?
“Khi ấy, đồng
tử vừa đến, nói cho tôi nghe sự việc trước. Tôi mới bảo rằng : “Khi ngươi
lại thấy nước, hãy mở cửa vào trong nước, lấy miếng ngói ấy ra”. Đồng tử
vâng lời.
“Tôi lại nhập
Định, đồng tử lại thấy nước với miếng ngói rõ ràng, bèn mở cửa lấy ra.
“Sau khi xuất
định, thân thể tôi lại như cũ.
“Tôi đã gặp vô
lượng Phật, như thế cho đến Đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như Lai mới
được mất sạch thân, cùng với các biển hương thủy của mười phương thế giới
đồng một tánh Chân Không, không hai, không khác. Nay ở nơi Đức Như Lai,
được tên là Đồng Chân, dự hội Bồ Tát.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi do quán thấy Tánh Nuớc, một vị suốt thông, đắc Vô Sanh
Nhẫn, tròn đủ Bồ Đề, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng :
Mặt trăng là Thủy Tinh vậy. Tánh nước tròn sáng, nên hiệu là Nguyệt Quang.
Mới đầu hết, tu tập quán về nước, quán sát tánh nước không gì ngăn ngại.
Tinh huyết bên trong, biển các cõi nước bên ngoài, hình tướng của nước tuy
khác, nhưng Tánh Nước không ngăn ngại. Vì chẳng ngăn ngại nhau, nên mới
tựu thành pháp quán này thì chỉ thấy nước, đây là cái Định Mười Biến Xứ
vậy. Nhập định thì có, xuất định thì không. Mười Biến Xứ là : Xanh, Vàng,
Đỏ, Trắng, Đất, Nước, Lửa, Gió, Không, Thức. Như quán tưởng màu xanh thì
tất cả chỗ đều xanh. Cái quả của định này tùy tâm biến hiện. Định Hỏa
Quang cũng vậy, tuy được Định này, nhưng Căn Bản Vô Minh vẫn còn, nên chưa
hết nhân duyên của bệnh, chưa mất được thân, vẫn còn Ngã Kiến, tức đó là
Căn Bản Vô Minh.
Chỉ thấy là
nước, hết thảy đều là nước, nên miếng ngói ném vào cũng hóa thành nước.
Ngài Xá Lợi Phất nhập định ở bờ sông Hằng, bị quỷ Vi Hại đánh, khi xuất
định thấy đầu đau. Phật dạy : “Ông mà không có Định Lực thì thân thể tan
nát rồi”. Vi Hại là tên của Vua quỷ Dạ Xoa, có oán thù đời trước với Ông
Xá Lợi Phất.
“Phù Tràng
Vương Sát”, thì theo kinh Hoa Nghiêm, trong biển Hoa Tạng có một hoa sen
lớn, trong hoa sen ấy có các biển Hương Thủy. Mỗi một biển Hương Thủy là
chủng tử của thế giới cõi Phật. Thế giới Hoa Tạng ở trong biển Hương Thủy
nên gọi là Phù Tràng Vương Sát. Mười hai lớp Hoa Tạng xếp cao như cây
phướn (tràng). Cao hơn hết nên gọi là Vua (Vương).
Ngài Nguyệt
Quang mới chứng Pháp Thân, mới được mất đi cái thân biến dịch, cùng với
các biển Hương Thủy đồng Tánh Chân Không. Trong Như Lai Tạng, Tánh Thủy là
Chân Không, Tánh Không là Chân Thủy, bản nhiên thanh tịnh, toàn khắp pháp
giới, một vị suốt thông, cùng mất luôn cái tướng chẳng ngăn ngại nhau. Đây
là y theo Thủy Đại mà chứng Viên Thông, gặp vô lượng Phật, mới thành tựu
được. Há dễ nói sao?
Ngài Động Sơn
từ giã Tổ Vân Nham.
Khi sắp đi,
Ngài hỏi: “Trăm năm sau, bỗng có người hỏi: “Có được chút ít cái Chân Thật
của thầy không?” Thì trả lời thế nào?”
Tổ Nham im
lặng hồi lâu, nói : “Chỉ thế đó”.
Ngài Động Sơn
trầm ngâm.
Tổ nói: “Này
Xà Lê Giới, nhận lãnh việc ấy, rất cần thẩm xét tinh tế”.
Ngài còn nghi
ngờ.
Sau này nhân
đi qua giòng nước thấy bóng mình mà đại ngộ, có bài kệ rằng:
“Rất kỵ nơi khác tìm
Càng xa mình lắm lắm
Ta
nay tự mình qua
Chốn chốn đều gặp Nó
Nó
nay chính là ta
Ta
nay chẳng là Nó
Cần phải hiểu như thế
Mới khế hợp Như Như”.
Ngài Động Sơn
đến đây mới được mất thân, tánh đồng Chân Không, không hai, không khác.
Hòa Thượng
Thuyền Tử khi sắp từ giã bạn đồng học là Ngài Đạo Ngô, nói với Ngài Đạo
Ngô rằng: “Sau này có vị Tòa Chủ giảng kinh lanh lợi thì chỉ đến, nhé!”
Ngài Đạo Ngô
đến Kinh Khẩu, gặp lúc Ngài Giáp Sơn thượng đường có vị tăng hỏi: “Như sao
là Pháp Thân?”
Ngài Giáp Sơn
nói: “Pháp Thân không có tướng”.
Hỏi: “Như sao
là Pháp Nhãn?”
Ngài Sơn đáp:
“Pháp Nhãn không có vết”.
Đạo Ngô bất
giác bật cười.
Ngài Giáp Sơn
bèn xuống tòa hỏi Đạo Ngô: “Vừa rồi đáp lại vị tăng, chắc có chỗ không
đúng, khiến Thượng Tọa bật cười, mong Thượng Tọa chẳng tiếc từ bi dạy
cho”.
Đạo Ngô nói:
“Hòa Thượng bậc nhất ra đời mà chưa có thầy, hãy đến Hoa Đình tham học
Thuyền Tử Hòa Thượng đi”.
Hỏi rằng: “Hỏi
thăm có được chăng?”
Đạo Ngộ nói:
“Người ấy trên thì không miếng ngói che đầu, dưới thì không chút đất để
cắm dùi!”
Giáp Sơn bèn
thay y phục đến thẳng Hoa Đình.
Ngài Thuyền Tử
vừa thấy, bèn hỏi: “Đại Đức trụ chùa nào?”
Đáp : “Chùa
tức chẳng trụ, trụ tức chẳng giống”.
Hỏi : “Chẳng
giống thì chẳng giống cái gì?”
Đáp : “Chẳng
phải là pháp trước mắt”.
Hỏi : “Vậy học
được cái gì?”
Đáp : “Chẳng
phải chỗ đến của tai mắt”.
Nói rằng: “Một
câu hợp đầu ngữ, muôn kiếp đóng cọc lừa. Khám phá xong rồi vậy!”
Ngài Thuyền Tử
lại nói: “Thả nhợ xuống ngàn thước, ý chỉ tại đầm sâu, ngoài lưỡi câu ba
tấc, sao ông không nói?”
Giáp Sơn định
mở miệng, Ngài liền dùng cây sào đánh rớt xuống nước. Vừa leo lên thuyền,
lại hét: “Nói, nói!” Giáp Sơn định mở miệng, lại đánh. Giáp Sơn bỗng nhiên
đại ngộ, bèn gật đầu ba cái.
Ngài Thuyền Tử
nói: “Sợi nhợ đầu cần theo ông giỡn, chẳng phạm sóng trong ý tự riêng.
Chút ít đó là nối thầy vậy”.
Giáp Sơn bèn
hỏi: “Quăng nhợ, thả câu, ý thầy thế nào?”
Đáp : “Nhợ thả
nước trong, nào định ý hữu vô”.
Giáp Sơn nói:
“Lời mang huyền diệu mà không lộ [Đường], đầu lưỡi luận đàm mà chẳng đàm”.
Ngài Thuyền Tử
nói: “Câu hết sóng trên sông, cá vảy vàng mới gặp”.
Giáp Sơn bèn
bịt tai.
Ngài Thuyền Tử
nói: “Như thế, như thế. Quả nhiên gã Tòa Chủ lanh lợi!”
Bèn phó chúc
rằng: “Ông về sau, chỗ ẩn thân cần không dấu vết, chỗ không dấu vết chớ ẩn
thân. Ta hai mươi năm ở Dược Sơn chỉ rõ biết việc này. Ông nay đã được, về
sau chẳng được nương dừng phố xá, xóm làng; chỉ hướng về núi sâu, bên cái
bừa lớn, tìm lấy một người, nửa người, tiếp tục chớ để dứt mất”.
Ngài Giáp Sơn
từ giã ra đi, cứ luôn ngó trở lại.
Ngài Thuyền tử
bèn gọi: “Xà Lê, Xà Le !”
Giáp Sơn quay
đầu.
Thuyền Tử dựng
mái chèo lên, nói: “Ông sắp nói là có từ biệt”.
Rồi lật thuyền
xuống nuớc mà lìa đời.
Sau này, ở Hoa
Đình, có am chủ Tánh Không gởi thơ cho thiền sư Tuyết Đậu Trìø, viết: “Tôi
sắp thủy táng đó”.
Sau đó, Ngài
Tuyết Đậu Trì đến nơi, thấy vị này vẫn hãy còn, bèn làm bài kệ bỡn rằng:
“Thương thay lão Tánh Không. Quyết muốn nuôi cá trạnh. Đi chẳng dẫn Tánh
đi. Chỉ lo nói với người”.
Ngài Tánh
Không cười, rằng: “Đợi Huynh đến chứng minh đó!”
Rồi báo với
đại chúng.
Đại chúng họp
lại, Ngài dạy pháp yếu rồi đọc bài kệ:
“Ngồi chết, đứng mất
Chẳng bằng thủy táng!
Một, đỡ củi lửa
Hai, đỡ đào mồ
Buông tay là đi
Ngại gì, khoái sướng
Ai
bạn tri âm?
Hòa Thượng Thuyền Tử!
Ai
kế nghiệp quý trăm ngàn năm?
Một khúc ngư ca ít người xướng”.
Bèn ngồi trong
một cái ảng, xuôi dòng trôi xuống. Chúng đều chạy theo cho đến cửa biển
nhìn theo muốn mút mắt. Sư lấy cái gàu tát nước mà trở lại, chúng che mắt
xem, nước không vào chút nào. Rồi Ngài lại theo dòng mà đi, xướng lên
rằng:
“Năm nay Thuyền Tử về cố hương
Chốn không tung tích, diệu không lường
Chân phong riêng gởi tri âm đó
Tiêu sắt thổi ngang, chốn hợp tan”.
Tiếng tiêu
vang vọng giữa khoảng trời xanh mênh mông trong chốc lát, rồi thấy Ngài
quăng ống tiêu lên không mà mất.
Đây quả là một
vị lưu thông [Nhất vị lưu thông], đắc Vô Sanh Nhẫn vậy.
Có nhà sư hỏi
Tổ Vân Môn: “Phật Pháp như bóng trăng trong nước, có thật chăng?”
Tổ Môn nói:
“Sóng xanh không đường thấu đến”.
Hỏi: “Hòa
Thượng từ đâu mà vào được?”
Tổ Môn nói:
“Lời hỏi ấy từ đâu đến?”
Hỏi : “Chính
ngay lúc ấy thì như thế nào?”
Tổ Môn nói :
“Trùng điệp lối quan sơn”.
Cần phải đến
gặp Thuyền Tử mới được!
XXI. VIÊN THÔNG VỀ PHONG ĐẠI
Kinh: Ngài Lưu
Ly Quang Pháp Vương Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật,
thưa rằng: “Tôi nhớ hằng sa kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng
Thanh, khai thị Tánh Bổn Giác Diệu Minh cho hàng Bồ Tát, và dạy quán thế
giới và thân chúng sanh này đều là do sức gió của vọng duyên chuyển biến
ra. Tôi lúc bấy giờ quán sự an lập của không gian, quán sự trôi chuyển của
thời gian, quán cái ngừng, cái động của thân, quán cái động niệm của tâm
thức, các cái động đều không hai, bình đẳng không sai biệt. Khi ấy, tôi
giác ngộ rằng cái Tánh của các động này đến không từ đâu, đi không đến
đâu. Tất cả chúng sanh điên đảo trong mười phương nhiều như vi trần đồng
một hư vọng. Như vậy cho đến tất cả chúng sanh trong một tam thiên đại
thiên thế giới, như hàng trăm con muỗi mòng nhốt trong một đồ vật vo ve
kêu loạn ở trong gang tấc, rối rít ồn ào.
“Tôi gặp Phật
chưa bao lâu thì được Vô Sanh Nhẫn. Khi ấy, tâm khai mở, mới thấy cõi Phật
Bất Động ở phương Đông; làm vị Pháp Vương Tử thừa sự mười phương Phật,
thân tâm phát ánh sáng, rỗng suốt không ngại.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi do quán sát sức lay động như gió vốn không chỗ nương, ngộ
Bồ Đề Tâm, vào Tam Ma Địa, hợp cùng một Diệu Tâm của mười phương Chư Phật,
được nối tiếp nhau truyền dạy, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Phương Đông có Lưu Ly Quang Như Lai, Hạnh Nguyện cũng như Phật Di Đà không
khác. Vị Pháp Vương Tử cũng như Đức Quan Âm, Thế Chí vậy.
Sao là quán
sát sức lay động như gió không chỗ nương mà vào Tam Ma Địa?”
Tánh gió là
động, do động mà có tiếng nên Phật Vô Lượng Thanh chỉ dạy hàng Bồ Tát quán
các chúng sanh của thế giới này cũng như hàng trăm con muỗi mòng nhốt
trong một đồ vật, vo ve kêu loạn, đều là gió Vọng Duyên chuyển biến ra.
Cái động của gió thì rất vi tế, mà sức của gió thì rất lớn, đầy khắp pháp
giới. Cái động và dừng của thân, cái động niệm của tâm thì gần mà có thể
thấy. Còn cái chuyển đổi của không gian, cái trôi chảy của thời gian thì
xa xôi nên khó thấy. Dầu khó thấy hay dễ thấy, đều là cái Động này. Tánh
của cái Động này đến không từ đâu, đi không đến đâu, toàn khắp thế gian,
không có nơi chốn. Vì không nơi chốn, nên vốn không sanh diệt. Vì không
sanh diệt, vốn tự chẳng động. Ở chỗ ấy mà quán sát, đắc Vô Sanh Nhẫn, tức
là ngộ Bồ Đề, vào Tam Ma Địa vậy. Đây là trong cái Động có Tánh Chẳng
Động, chẳng phải là lìa ngoài cái Động mà có riêng cái gọi là Chẳng Động.
Phương Đông
thuộc Chấn. Chấn là Động. Phương Đông có cõi Phật Bất Động, tức là động mà
tĩnh, đây là ý chỉ của Bổn Giác Diệu Minh vậy. Tánh Giác Diệu Minh vốn tự
chẳng động. Bổn Giác Minh Diệu là động mà chẳng động. Nói tóm lại, tất cả
chỉ là một Tánh Diệu Chân Như. Mười phương Chư Phật cùng một Diệu Tâm này.
Nếu lìa động để cầu tĩnh, tức là chẳng phải Diệu vậy. Cái Bổn Giác cứng
bền như kim cương trong sáng, Phong và Kim xát nhau, nên ánh sáng như lưu
ly, rỗng suốt không ngại. Truyền một Diệu Tâm, thì không những tự chứng
Viên Thông mà còn khiến chúng sanh trong thế giới, hễ có Tánh Động này đều
chứng suốt một Viên Thông vậy.
Sa di Cao ban
đầu ra mắt Tổ Dược Sơn.
Tổ Dược Sơn
hỏi: “Ở đâu đến?
Đáp: “Nam Nhạc
đến”.
Tổ hỏi: “Đi
đến đâu?”
Đáp: “Đến
Giang Lăng thọ giới”.
Tổ hỏi: “Thọ
giới để làm gì?”
Đáp: “Để khỏi
sanh tử”.
Tổ nói: “Có
một người chẳng thọ giới, cũng chẳng có sanh tử để khỏi, ông có biết
chăng?”
Sa di Cao ngay
dưới lời nói, đại ngộ mà nói: “Như thế thì Giới của Phật nào có dùng!”
Tổ Sơn nói:
“Sa Di này còn quảy môi răng đấy”.
Thầy Cao lễ
bái rồi lui ra.
Ngài Đạo Ngô
đến đứng hầu, Tổ Dược Sơn nói: “Vừa rồi có anh Sa Di què giò, có được chút
ít hơi hám”.
Đạo Ngô nói :
“Chưa thể tin hoàn toàn, cần khám nghiệm mới được”.
Đến tối, Tổ
Dược Sơn thượng đường gọi rằng: “Sa Di mới đến hồi sáng đâu rồi?”
Thầy Cao bước
ra khỏi chúng, đứng.
Tổ Dược Sơn
hỏi: “Ta nghe Trường An rất náo nhiệt, ông có biết chăng?”
Thầy Cao nói:
“Nước con hằng yên ổn”.
Tổ hân hoan
hỏi: “Chú do xem kinh mà được hay do hỏi Pháp mà được?”
Thầy Cao nói:
“Chẳng do xem kinh được hay do hỏi Pháp được”.
Tổ Sơn nói:
“Vậy có người chẳng xem kinh, chẳng hỏi Pháp, vì sao chẳng được?”
Thầy Cao nói:
“Không nói chẳng được, chính vì kẻ kia chẳng chịu nhận lãnh”.
Tổ Sơn quay
lại nhìn Đạo Ngô.
Ngài Vân Nham
thì nói: “Chẳng tin Đạo!”
Ngài Đầu Tử
tụng rằng:
“Hưng vong mây đến với mây đi
Y
không quốc độ, bặt trần ai
Đỉnh Tu Di ấy, cây không rễ
Chẳng đợi gió xuân, hoa tự khai”.
Như chỗ thấy
của Sa Di, thật là thấy cõi Phật Bất Động ở phương Đông, chẳng bị sức gió
vọng duyên chuyển đổi vậy.
Ngài Ma Cốc
chống tích trượng đến Ngài Chương Kính, đi quanh thiền sàng ba vòng, dộng
tích trượng một cái, ngang nhiên mà đứng.
Tổ Kính nói:
“Phải, phải”.
Ngài lại đến
Nam Tuyền, đi quanh thiền sàng ba vòng, dộng tích trượng một cái, ngang
nhiên mà đứng.
Tổ Tuyền nói:
“Chẳng phải, chẳng phải”.
Ngài Ma Cốc
nói: “Ngài Chương Kính nói “Phải”, Hòa Thượng vì sao nói “Chẳng Phải”?”
Tổ Tuyền nói:
“Chương Kính thì phải, chính ông chẳng phải”.
Đây là sức gió
chuyển, rốt cuộc hư hoại.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Chính ông chẳng phải
Kìa xem cuốn, mở
Tợ
trải, tợ co
Khó anh, khó em
Thả ra : kia đã đến thời
Nắm lại : ta nào lạ chỗ
Trượng vàng một dộng, thái cô nêu[Thái : lớn; cô : độc trọi]
Thiền sàng ba vòng, nhàn du hý
Tùng lâm rối rắm, thị phi sanh
Tưởng tượng, trước sọ khô thấy quỷ”.
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng :
“Đây lầm, kia lầm!
Rất kỵ nắm bỏ
Bốn biển sóng bằng
Trăm sông đổ lại
Ý
cổ cao xa mười hai cửa
Cửa cửa đường hoang, luống tiêu điều
Chẳng tiêu điều
Thiền giả khéo cầu “Không-bệnh thuốc”.
Nếu biết cái
thuốc “Không-bệnh”, thì thị phi ở chốn tùng lâm nào có sanh ra, tự chẳng
gió nào chuyển được.
XXII. VIÊN THÔNG VỀ KHÔNG ĐẠI
Kinh: Bồ Tát
Hư Không Tạng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật mà thưa
rằng: “Tôi cùng Đức Như Lai chứng được Thân Vô Biên nơi Phật Định Quang.
Lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt bảo châu lớn soi sáng mười phương cõi Phật số
như vi trần đều hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm, hiện gương tròn lớn,
trong ấy phóng ra mười thứ hào quang vi diệu quý báu, tràn khắp mười
phương, cùng tột bờ cõi hư không. Các cõi Phật đều vào trong gương “Đại
Viên Cảnh” ấy, nhập vào thân tôi. Thân đồng hư không chẳng có gì ngăn
ngại, thân lại khéo vào vi trần quốc độ rộng làm Phật sự, được Đại Tùy
Thuận. Đại thần lực này là do tôi chánh quán bốn Đại không chỗ nương, vọng
tưởng sanh diệt và hư không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do phát minh
được tánh đồng, đắc Vô Sanh Nhẫn.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi do quan sát Hư Không vô biên, vào Tam Ma Địa, diệu lực
tròn sáng, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng :
Bồ Tát Hư Không Tạng đã cùng Như Lai ở nơi Phật Định Quang, chứng đắc Ba
Thân, Bốn Trí. Trong ba Thân, thì chỉ trọng Pháp Thân, nên nói “Đắc Thân
Vô Biên”. Bốn Trí thì chỉ trọng Đại Viên Cảnh Trí, nên nói “Lại ở nơi Tâm,
hiện gương tròn lớn”.
Pháp Thân vô
biên, hư không không ranh giới, vì sao lại có thể cùng với bốn Đại chẳng
hề ngăn ngại nhau ? Bởi do đế quán bốn Đại không chỗ nương, Tánh Sắc là
Không, nên bốn Đại là thanh tịnh, giống như ngọc báu. Dùng sức quán chiếu,
soi sáng mười phương hóa thành hư không. Tức bốn Đại là hư không, hư không
là Pháp Thân, có gì ngăn ngại! Vốn là một Đại Viên Cảnh Trí, vì sao phóng
ra mười thứ ánh sáng? Ấy là do tu hành mười thứ Ba La Mật, tròn đầy vi
diệu vậy.
Gồm hết trong
gương tự tại phát hiện, tràn khắp mười phương, cùng tột bờ mé hư không.
Chỉ một cái gương thu nhiếp hết, thì gương ấy là Thân, và Thân tức là
gương vậy. Ba Thân tức là bốn Trí, bốn Trí đó là ba Thân. Thân, Trí dung
hợp nhau, Tâm và Cảnh đều chuyển hoá, nên nói “Các cõi Phật đều nhập vào
trong gương, hòa vào thân tôi”. Ánh sáng và bóng ảnh giao nhập lẫn nhau,
không thể phân biệt. Vì Thân là Trí, nên đồng hư không, chẳng ngăn ngại
nhau. Vì Trí là Thân, nên khéo vào các cõi nước; rộng làm Phật sự, thuyết
pháp Tam Thừa, được Đại Tùy Thuận. Thấy Vọng Tưởng Sanh Diệt tức là Hư
Không, Hư Không và Vọng Tưởng Sanh Diệt không hai. Thấy cõi nước tức là
Phật Tánh, Phật Tánh và cõi nước không khác. Lý chẳng ngại Sự, Sự chẳng
ngại Lý. Ở trong Tánh Đồng mà phát minh được, đắc Vô Sanh Nhẫn, chứng Hư
Không Vô Biên Thân, diệu lực tròn sáng, thân và cõi nước nhập vào nhau, đó
là chỉ chứng “Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới”.
Nếu
gương-gương chiếu nhập lẫn nhau, trùng trùng lưới báu, một tức tất cả, tất
cả tức một, mới là “Sự Sự Vô ngại Pháp Giới”. Chỉ Như Lai chứng, nên Ngài
Bồ Tát Hư Không Tạng còn ở trong hàng đệ tử vậy. Đó là vì còn mắc vướng
trong Hư Không Vô Biên Xứ, còn Thân để đắc vậy.
Tổ Hoàng Bá
nói : “Chân Pháp Thân Phật giống như Hư Không. Đây là tỷ dụ Pháp Thân tức
Hư Không, Hư Không tức Pháp Thân. Người-thường nói rằng Pháp Thân cùng
khắp Hư Không, trong Hư Không hàm chứa Pháp Thân mà chẳng biết rằng Pháp
Thân tức Hư Không, Hư Không tức Pháp Thân đó vậy. Nếu nói nhất định có Hư
Không thì Hư Không chẳng phải là Pháp Thân. Nếu nói nhất định có Pháp
Thân, thì Pháp Thân chẳng phải là Hư Không. Chỉ đừng khởi ra cái hiểu biết
về Hư Không, thì Hư Không tức Pháp Thân. Chỉ không khởi ra cái hiểu biết
về Pháp Thân, thì Pháp Thân tức Hư Không. Hư Không và Pháp Thân không có
tướng khác nhau. Sanh Tử và Niết Bàn không khác tướng. Lìa tất cả tướng,
tức đó là Phật”.
Như lời nói
của Tổ Hoàng Bá đây, thật là thấy rõ cái Thân Vô Biên của Hư Không Tạng Bồ
Tát vậy.
Tổ Tào Sơn hỏi
Thượng Tọa Đức: “Chân Pháp Thân Phật, giống như Hư Không, ứng vật hiện
hình, như trăng trong nước, làm sao nói cái đạo lý ứng hiện đó?”
Thầy Đức nói:
“Như lừa dòm giếng”.
Tổ Sơn: “Nói
thì quá lắm, mà chỉ nói được tám tướng [Thành Đạo]!”
Thầy Đức nói:
“Hòa Thượng thì thế nào?”
Tổ Sơn nói:
“Như giếng dòm lừa”.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Lừa dòm giếng, giếng dòm lừa
Trí gồm khắp, không gì ngoài
Tràn đầy, thanh tĩnh có thừa
Sau cùi chỏ ai phân ấn
Trong nhà chẳng chứa sách, thơ
Khung cửi nào quản chuyện thoi đưa
Màu sắc dọc ngang ý tự khác!”.
Rõ chỗ này thì
có thể biết “Khéo vào cõi nước”, như giếng dòm lừa. Vốn tự chẳng sanh, thì
hợp với Hư Không!
XXIII. VIÊN THÔNG VỀ THỨC ĐẠI
Kinh: Đức Di
Lặc Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng:
“Tôi nhớ vi trần kiếp về trước, có Đức Phật ra đời tên là Nhật Nguyệt Đăng
Minh, tôi được xuất gia theo Đức Phật ấy, nhưng tâm còn trọng danh đời,
thích giao du với hàng vọng tộc. Lúc ấy, Đức Thế Tôn dạy tôi tu tập định
Duy Tâm Thức vào Tam Ma Địa. Trải nhiều kiếp đến nay, dùng Tam Muội ấy
phụng sự hằng sa Phật, cái tâm cầu danh đời diệt hết không còn. Đến khi
Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, tôi mới đắc thành “Vô Thượng Diệu Viên Thức
Tâm Tam Muội”. Cho đến tận hư không các cõi nước của Như Lai dơ, sạch, có,
không, đều là sự biến hóa hiện ra của tâm tôi. Thưa Thế Tôn, tôi thấu rõ
Duy Tâm Thức như thế, nơi Thức Tánh lưu xuất vô lượng Như Lai. Nay được
thọ ký, kế tiếp làm Phật.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi do đế quán mười phương đều Duy Thức, thức tâm tròn sáng,
chứng nhập Viên Thành Thật Tánh, xa lìa Y Tha Khởi Tánh và Biến Kế Chấp
Tánh, đắc Vô Sanh Nhẫn, đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng :
“Tôi do đế quán mười phương Duy Thức”. Hai chữ Duy Thức ý vị thật sâu xa.
Chữ Duy che mất cái cảnh đang có, chữ Thức rút về Tâm Không. Lại nữa, Thức
để nói tất cả mọi sự hiện bày, Duy để nói che hết. Hiện bày tất cả ấy, là
nói tất cả hữu tình đều có tám Thức, sáu vị Tâm Sở, cùng hai Kiến Phần và
Tướng Phần được biến hiện ra, đều là sai biệt nhau, cùng với cái Lý Không
để hiển bày Chân Như, tất cả các pháp như vậy đều chẳng rời Thức, cho nên
dùng chữ Thức để hiển bày tất cả vậy. Che hết là vì hạng phàm phu chấp
rằng lìa ngoài Tâm Thức thật có các pháp, nên dùng chữ Duy, để che hết cái
Kiến của phàm phu vậy.
Thức Tâm tròn
sáng, chứng nhập Viên Thành Thật Tánh là do ban đầu tu tập định Duy Tâm
Thức, đến chỗ thành tựu Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội, đã chuyển
Thức thành Trí, nên nói là nhập vào Viên Thành Thật Tánh. Khi chưa chuyển
được Thức, ban đầu bị cảnh trói buộc, đó là thô hoặc [Lầm lạc to lớn], gọi
là Biến Kế Chấp. Kế đó là bị pháp trói buộc, đó là tế hoặc [Lầm lạc nhỏ
nhiệm], gọi là Y Tha Khởi.
“Tâm trọng
danh đời, ưa giao du với hàng vọng tộc”, đó là tướng dạng của Biến Kế
Chấp. “Cái Tâm cầu danh đời diệt hết không còn”, đó là tướng dạng của Y
Tha Chấp vậy. Cho đến “Thấu rõ Duy tâm thức như thế, nơi Thức Tánh lưu
xuất vô lượng Như Lai” là tướng dạng của Viên Thành Thật Tánh vậy.
Kinh Giải Thâm
Mật nói : “Biến Kế Chấp là như người nhặm mắt; Y Tha Khởi là như hiện ra
xanh, vàng; Viên Thành Thật là như mắt trong sáng”.
Luận Bảo
Trượng nói, “Như người thấy vật động đậy cho là rắn, nhưng khi nhìn kỹ
thấy là sợi dây, thì cái tâm nghi là rắn không phải đoạn trừ mà tự hết. Đó
là lìa Biến Kế Chấp. Nhưng dây vẫn còn. Lại xem kỹ lưỡng nó mà nói “Chẳng
phải dây mà là sợi gai”; liền cái tâm chấp là dây lại chẳng đoạn trừ mà tự
hết. Đó là lìa Y Tha Khởi Chấp”.
Sợi gai và dây
vốn là một, có bện lại gọi là dây, không bện gọi là gai, là để dụ cho Tánh
và Thức vốn là Một. Có trói buộc thì gọi là Thức, không trói buộc gọi là
Tánh. Đến chỗ rõ thấy Duy Thức thì ngoài Thức không có Tánh; Thức đó là
Tánh. Tức Đệ Bát Thức là Như Lai Tạng Diệu Chân Như Tánh vậy.
Đã lìa Y Tha
Khởi cùng Biến Kế Chấp, ắt tiêu tan chủng tử sanh diệt, mà y theo cái Chân
Tánh chẳng sanh, chẳng diệt, nên đắc Vô Sanh Nhẫn. Đó là tất cả cõi nước
dơ sạch, có không đều là chỗ biến hiện của Tâm. Ta chẳng phân biệt, thì
hiện đây là tịch diệt, ngay nơi Tướng Phần chứng Vô Sanh Nhẫn.
“Thức Tánh lưu
xuất vô lượng Như Lai”, ấy là Lý tức Pháp Thân, Trí tức Báo Thân, Hạnh tức
Hóa Thân. Trí tức Văn Thù, Hạnh tức Phổ Hiền, Bi tức Quán Thế Âm, đều từ
Nhất Tâm lưu xuất. Ta không có sự phân biệt, thì hiện đây là tịch diệt,
ngay nơi Kiến Phần chứng Vô Sanh Nhẫn.
Ngài Pháp Nhãn
tụng rằng :
“Ba cõi Duy Tâm
Mắt thanh, tai sắc
Sắc chẳng đến tai
Thanh nào chạm mắt!
Mắt sắc, tai thanh
Vạn pháp thành khác
Muôn pháp chẳng duyên
Nào quán như huyễn?
Đất đai sông núi
Chi bền, chi biến?”.
Tổ Pháp Nhãn,
thức tâm tròn sáng, mới nói được lời tròn vẹn này.
Tổ Bàn Sơn dạy
rằng: “Ba cõi không pháp, nơi nào cầu tâm? Bốn Đại vốn không, Phật nương
đâu trụ? Trăng sao chẳng động, lặng đứng không ngần. Đối mặt trình nhau,
còn chuyện gì nữa!”
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng:
“Ba cõi không pháp
Nơi nào cầu tâm?
Mây trắng làm lọng
Nước chảy làm đàn
Một khúc, hai khúc, không người hiểu
Đêm mưa ao vắng, nước thu trong”.
Có nhà sư hỏi
Tổ Thạch Sương: “Muôn cửa đều đóng thì chẳng hỏi, muôn cửa đều mở thì thấy
nào?”
Tổ Sương nói:
“Chuyện trong nhà thì thế nào?”
Nhà sư không
đáp được. Trải qua nửa năm, mới nói được rằng: “Không người tiếp được y”.
Tổ Sương nói:
“Nói thì nói cho lắm, mà chỉ nói được tám tướng”.
Nhà sư nói:
“Hòa Thượng thì thế nào?”
Tổ Sương nói:
“Không người biết được y!”
Ngài Đầu Tử
tụng rằng:
“Điện xưa cao ngất trăng phủ tùng
Sương ngưng, tuyết lộ, nói không cùng
Đối sao, nằm ngắm, nhà ngàn núi
Phật, Tổ không nhân, biết HẮN chân!”.
Bồ Tát Di Lặc
tu tập định Duy Tâm Thức, vào Tam Ma Địa. Nay Tổ Bàn Sơn lại nói: “Nơi nào
cầu tâm?” Tổ Thạch Sương thì nói: “Không người biết được y!” Hai chuyển
ngữ này, đợi đời sau hạ sanh. Bổ Xứ thành Phật sẽ trùng trùng khai diễn.
XXIV. VIÊN THÔNG VỀ KIẾN ĐẠI
Kinh: Ngài Đại
Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với năm mươi hai vị Bồ Tát đồng tu liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa rằng: “Tôi nhớ hằng sa kiếp
trước, có Đức Phật ra đời, hiệu Vô Lượng Quang. Thuở ấy, mười hai vị Như
Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp. Đức Phật sau cùng, hiệu là Siêu
Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy tôi pháp Niệm Phật Tam Muội. Ví như có người,
một bên thì chuyên nhớ, một bên thì chuyên quên thì hai người ấy, dầu gặp
cũng như không gặp, dầu thấy cũng là không thấy. Nếu cả hai người đều nhớ
nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu và tâm niệm, như thế từ đời này qua đời
khác, như hình với bóng, chẳng hề xa cách nhau, mười phương Như Lai thương
tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh tuy nhớ cũng chẳng
được gì. Con mà nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không hề ngăn
cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện giờ hay mai sau nhất
định thấy Phật, cách Phật không xa. Chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khai
ngộ, như người ướp hương, thân có mùi thơm. Đây gọi là Hương Quang Trang
Nghiêm. Nhân Địa Căn Bản của tôi là dùng Tâm niệm Phật, vào Vô Sanh Nhẫn.
Nay tôi ở cõi này tiếp dẫn người niệm Phật về nơi Tịnh Độ.
“Phật hỏi về
Viên Thông, tôi không riêng lựa chọn mà nhiếp trọn cả sáu Căn, tịnh niệm
nối tiếp nhau, đắc Tam Ma Địa. Đó là Thứ Nhất”.
Thông rằng:
Quán kinh nói, “Dùng ánh sáng Trí Huệ, chiếu khắp tất cả. Nay rời ba
đường, được Vô Thượng Lực, gọi là Đại Thế Chí”. Bạn đồng tu có năm mươi
hai vị Bồ Tát cũng đủ để chứng nghiệm chuyện vãng sanh Tịnh Độ là dễ thành
tựu. Phàm người niệm Phật không được trong khoảnh khắc như gảy móng tay mà
thấy Phật, chỉ vì niệm năm Dục thế gian, đó là niệm trói buộc. Còn tịnh
niệm kế tiếp nhau, như con nhớ mẹ, thì ngay hiện giờ hay về sau nhất định
thấy Phật. Miệng niệm tâm nhớ, tai mắt chuyên nhất, mỗi mỗi oai nghi, đều
nhiếp trọn cả sáu Căn, nhất tâm không loạn. Trong chánh định như thế, chắc
chắn thấy được Phật, cách Phật không xa, ánh sáng Trí Huệ rực rỡ, chẳng
mượn tu hành mà tự thành khai ngộ, như người xông ướp hương, chẳng mong
thơm mà tự thơm. Đây là nguyện lực của Phật A Di Đà nhiệm mầu không thể
nghĩ bàn vậy.
Ngài Đại Thế
Chí đã dùng Tâm niệm Phật mà đắc Vô Sanh Nhẫn. Lại tiếp dẫn người niệm
Phật về Tịnh Độ, thì tự giác giác tha đầy đủ Hạnh Bồ Tát chân thật.
Sáu Căn đều
thuộc về Kiến Phần. Ở đây chú trọng về sự thấy Phật, nên dùng Kiến Đại để
mà thu nhiếp. Kiến Đại sao lại để sau Thức Đại ? Bởi vì trước phải chuyển
Thức Thứ Tám để chứng Hậu Đắc Trí rồi sau chuyển năm Thức trước. Đã chuyển
Thức thành Trí, sanh về Tịnh Độ của Phật là cái quả cùng cực, cớ sao ở sau
lại còn pháp môn Xoay Lại Cái Nghe của Đức Quan Âm ? Phàm cái chỗ quý báu
của chuyện vãng sanh Tịnh Độ, chứng Viên Thông thì không phải chẳng những
tự cho mình mà thôi, mà là độ thoát chúng sanh. Ắt như ba mươi hai Ứng
Thân, chốn chốn nơi nơi đều là Tịnh Độ, đều chứng Viên Thông, thì sau mới
tròn đủ quả Phật vậy.
Thiền sư Vĩnh
Minh Thọ, thuở nhỏ tụng kinh Pháp Hoa, năm Hạnh [Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn
Nhục, Tinh Tấn, Chỉ Quán] đầy đủ trong sáu tuần lễ. Sau tham học với Thiều
quốc sư, phát rõ tâm yếu, đến ngọn núi Thiên Thai của Ngài Trí Giả tu định
trong chín tuần [Tuần: muời ngày], chim chóc làm tổ trên áo. Ngài làm hai
cái thăm, khấn bói: một là, một đời thiền định; hai là, tụng kinh, muôn
thiện trang nghiêm Tịnh Độ. Rồi chí thành cầu nguyện, bảy lần đều rút được
tụng kinh, muôn thiện. Bèn chuyên tu Tịnh Nghiệp. Tụng kinh ba năm, trong
lúc thiền quán, thấy Đức Quan Âm rót cam lồ vào miệng, bèn được biện tài.
Vua Trung Ý
thỉnh Ngài trụ trì chùa Linh Ẩn, hai năm sau sang chùa Vĩnh Minh. Khóa
biểu mỗi ngày có một trăm lẽ tám việc, không hề gián đoạn. Học giả đến
tham học thì Ngài chỉ Tâm làm tông chỉ, lấy Ngộ làm phép tắc. Mỗi đêm lại
sang nơi khác để tu hành niệm Phật.
Vua Trung Ý
than rằng: “Từ xưa đến nay, chưa có ai chuyên tâm tha thiết cầu sanh Tây
Phương cho bằng!”
Bèn làm điện
Tây Phương Hương Nghiêm để Ngài hoàn thành chí nguyện. Đệ tử đến một ngàn
bảy trăm người. Ngài thường cùng đại chúng thọ Giới Bồ Tát, thí thực cho
quỷ thần, hàng ngày phóng sanh đều hồi hướng trang nghiêm Tịnh Độ. Làm
trăm pho sách, nhan đề là Tông Cảnh Lục, lại viết các quyển Vạn Thiện Đồng
Quy và Chỉ Về Tịnh Độ.
Sau khi Ngài
diệt độ, tháp ở trong núi, có một nhà sư từ Lâm Xuyên đến nói : “Khi tôi
bệnh nặng, chết xuống cõi u minh, được thả về. Tôi thấy trong điện Diêm
Vương có tượng một vị tăng, Diêm Vương tự thân đảnh lễ, tôi hỏi: “Tượng ấy
là ai?”
“Vị Chủ-Lại
nói rằng: “Đó là thiền sư Thọ ở Chẩm Châu. Nghe rằng Ngài đã vãng sanh bậc
thượng phẩm ở Tây Phương. Diêm Vương kính trọng Ngài nên lễ bái”.
Ông Dương
Kiệt, tự là Thứ Công, phu nhân Kinh Châu cũng trong mộng thấy Ông Kiệt
ngồi trên đài hoa sen, tiêu dao tự tại. Trước kia ông Dương Kiệt thấy mặt
trời như cái mâm vọt lên, có điều tỏ ngộ, làm bài kệ rằng:
“Trai lớn thì cưới vợ
Gái lớn thì lấy chồng
Hỏi công phu: nhàn lắm!
Lại nói lời Vô Sanh”.
Rất nên cùng
Ông Bàng cư sĩ thẩm tra!
Khi ông sắp từ
biệt cõi đời, có bài kệ :
“Không chi để mến
Không chi để bỏ!
Trong khoảng thái hư
Ờ,
à, thế, đó!
Từ
an tới an
Tây Phương Cực Lạc”.
Đó là Ngài
Vĩnh Minh Thọ và Ông Dương Kiệt đều sanh về Tịnh Độ, sáng tỏ pháp Niệm
Phật Tam Muội, như con nhớ mẹ.
Tổ Động Sơn có
nói: “Đối với Đạo thì chớ đi, còn quay về thì nghịch lại với cha”.
Có nhà sư hỏi
Tổ Tào Sơn: “Con quay về với cha, sao cha chẳng thèm nhìn đến?”
Tổ Sơn nói :
“Lý hợp như thế đấy!”
Nhà sư hỏi :
“Thế thì ân tình cha con ở đâu?”
Tổ Sơn nói :
“Thế mới thành ân tình cha con”.
Nhà sư hỏi :
“Thế nào là ân tình cha con?”
Tổ Sơn nói :
“Đao búa chặt chẳng rời”.
Ngài Thiên
Đồng nêu ra rằng: “Rèm biếc buông rồi, lệnh vua chưa xuống. Màn hoa đã
khép, thấy nghe khó thông! Động nhằm đầu lông, trăng lên song cửa. Im dời
một bước, hạc ra lồng bạc. Có biết chăng? Thoát thân một sắc, không lưu
bóng. Chẳng tọa đồng phong, lạc đại công”.
Lại có nhà sư
hỏi Tổ Hộ Quốc : “Như thế nào là cha mẹ xưa nay?”
Tổ Quốc nói :
“Ấy đầu chẳng bạc”.
Nhà sư hỏi :
“Lấy gì phụng hiến?”
Tổ Quốc nói :
“Ân cần không cơm gạo, trong nhà chẳng hỏi thân”.
Ngài Đơn Hà
tụng rằng:
“Ra cửa khắp đời không tri kỷ
Vào nhà ngập mắt: chẳng ai thân
Nhà không đêm lạnh, không gì có
Trời xanh, trăng sáng: cũng bạn gần”.
Hai tắc trên
thật rõ ràng Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ, phải thấy như thế mới là cái
Thấy chân chánh.
Xưa, có vị ni
cô ra mắt Tổ Vân Nham.
Tổ Nham hỏi:
“Cha cô còn không?”
Ni cơ nói:
“Dạ, còn”.
Tổ Nham hỏi:
“Tuổi bao nhiêu?”
Ni cô nói:
“Sáu mươi lăm”.
Tổ Nham nói:
“Cô có người cha chẳng phải sáu mươi lăm tuổi, cô biết hay chăng?”
Ni cô nói:
“Chẳng phải là cái như-vậy-đến ư?”
Tổ Nham nói:
“Cái như-vậy-đến vẫn còn là con cháu”.
Ngài Động sơn
nói: “Dù được cái chẳng-như-vậy-đến cũng là con cháu!”
Ô hô! Cha mẹ
xưa nay đâu có dễ thấy! Nên thấy được cha mẹ xưa nay thì thấy Tự Tánh Di
Đà mà Thiền Tịnh viên dung, đều thuộc về cảnh giới không thể nghĩ bàn vậy. |