PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU
MỤC BỐN: VIÊN THÔNG VỀ NHĨ CĂN
II. BỐN CÔNG ĐỨC VÔ ÚY
Kinh: “Bạch
Thế Tôn, tôi lại dùng Diệu Lực Vô Tác của Kim Cương Tam Muội Văn Huân Văn
Tu này, cùng tất cả lục đạo chúng sanh mười phương ba đời đồng một bi
ngưỡng, nên khiến các chúng sanh, nơi thân tâm tôi, được mười bốn thứ công
đức Vô Úy.
Thông rằng: Từ
là nói về Lực, Lực đủ ứng khắp, nên gọi là Đại Từ. Bi là nói sự Ngưỡng,
đáp ứng với ngưỡng vọng, nên gọi là Đại Bi. Chúng sanh sợ là sợ sanh tử
vậy. Dùng cái Diệu Lực Vô Tác chẳng sanh chẳng diệt mà cứu vớt cho, để đến
bờ bên kia, công đức ấy nói sao cho cùng!
Kinh Duy Ma
Cật, Đức Văn Thù Sư Lợi hỏi: “Sanh tử đáng sợ, Bồ Tát phải nương chỗ nào?”
“Đức Duy Ma
Cật nói: “Bồ Tát trong chỗ sợ sanh tử, phải y vào lực công đức của Như
Lai”.
“Đức Văn Thù
Sư Lợi lại hỏi: “Bồ Tát muốn y vào lực công đức Như Lai, nên trụ vào đâu?”
“Đáp rằng: “Bồ
Tát muốn nương vào lực công đức của Như Lai, phải trụ vào việc độ thoát
tất cả chúng sanh”.
Lại có cô cư
sĩ Hưu Xá tự nói đắc An Ổn Tràng của Bồ Tát: “Vì chúng sanh chưa lìa sanh
tử, nên Bồ Tát chẳng tự mình giữ lấy an ổn. Nếu hay vào sanh tử giáo hóa
chúng sanh, thấu đạt sanh tử cho đến chúng sanh mà vẫn thường giáo hoá,
thảy đều là hạnh Niết Bàn. Không khởi ra, không chìm mất, mới gọi là
“Tràng an ổn, lìa lo”.
Nên Văn Huân
Văn Tu, dùng đó tự độ, cũng dùng đó độ tha, chính là sự an ổn.
Kinh: “Một là,
do tôi không tự quán cái Âm Thanh, mà quán cái Tánh Quán, nên khiến cho
chúng sanh khổ não mười phương kia quán Âm Thanh ấy liền được Giải Thoát.
Thông rằng:
Cái tâm bức bách đau khổ của chúng sanh, tức là tâm của Bồ Tát. Cái Âm
Thanh mà chúng sanh xưng hô danh hiệu tức là cái Âm Thanh của Quan Âm vậy.
Nếu quán Âm Thanh ấy thì chưa lìa Thanh Trần, bèn tựa như có khổ não. Nếu
quán cái Tánh Quán, chỗ mà các khổ chẳng đến, liền đây Giải Thoát. Đây là
cái Cơ Phản Văn Đệ Nhất vậy.
Có nhà sư hỏi
Trương Châu Lịch Thôn Hòa Thượng: “Như sao là “Quán Âm Thanh ấy mà liền
Giải Thoát”?”
Tổ Thôn lấy
đũa-gắp-than gõ cây củi, nói : “Ông nghe chăng?”
Đáp: “Nghe”.
Tổ Thôn nói:
“Nào chẳng giải thoát?”
Thật là khéo
nói chỉ thú vi diệu mầu sâu của Lăng Nghiêm vậy thay!
Kinh: “Hai là,
cái Thấy-Biết đã xoay lại, khiến các chúng sanh dầu vào lửa lớn, lửa chẳng
thể đốt.
Thông rằng:
Cái Thấy-Biết thuộc Hỏa. Thấy-Biết quay về sự trong lặng, tánh trong lặng
tròn đầy, nên Lửa chẳng đến được.
Thầy Linh
Nhuận từng cùng bạn đạo lên núi dạo cảnh. Lửa ma trơi bốn phía hợp lại.
Chúng bạn đều chạy tán. Thầy Nhuận một mình yên bước trèo lên, kêu bạn đạo
rằng: “Ngoài tâm không có lửa, lửa thiệt tự tâm. Cho là có lửa để tránh,
làm sao khỏi lửa?”
Lửa đến thầy
Nhuận thì lập tức tắt mất.
Kinh: “Ba là,
quán cái Nghe được xoay trở lại, khiến các chúng sanh bị nước lớn cuốn
trôi, nước chẳng thể chìm.
Thông rằng:
Nghe tiếng thuộc về Thủy. Nhà y học cũng cho lỗ tai thuộc Thận. Cái Nghe
xoay trở lại thì nước trở về nguồn, nên nước chẳng thể chìm.
Ông Cần Na Bạt
Đà, nghĩa là Công Đức Hiền, người Trung Thiên Trúc. Năm Thứ Mười Hai hiệu
Nguyên Hy đến xứ Kiến Nghiệp, được Nam Tiều Vương Nghĩa Tuyên kính trọng.
Vương có mưu nghịch, ông can gián đến chảy nước mắt mà chẳng nghe. Bị bại
ở Lương Sơn, rớt xuống dòng sông, ông một lòng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát,
tay nắm được cành trúc. Nhìn thấy đồng tử kéo lấy áo, nói: “Đứa con nít
này hay vậy ư?” Lên đến bờ, muốn cởi áo khoác tặng cho, nhưng đồng tử bỗng
biến mất tại chỗ.
Có nhà sư hỏi
Tổ Bảo Phước: “Như sao là vào lửa chẳng cháy, vào nước chẳng chìm?”
Tổ Phước nói:
“Nếu là nước lửa, liền bị cháy, chìm”.
Đây thật là
được cái mầu nhiệm của việc xoay trở lại, nên lời nói chặt gọn như vậy.
Kinh: “Bốn là,
diệt hết vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các chúng sanh vào các nước
Quỷ, Quỷ không thể hại.
Thông rằng:
Yêu tinh, quỷ quái chẳng có thể gặp. Từ xưa, chỗ gọi là quỷ phương cũng là
nhiều, nhưng chỉ có nước quỷ La Sát ở biển là hại hơn hết. Người đi biển
bị hắc phong trôi dạt đến xứ ấy, thì có nam nữ xinh đẹp đem thức ăn uống
đến ủy lạo, khiến cho người vui mà quên trở về. Thuyền sau tới thì bắt
người trong thuyền trước ăn thịt hết. Ngày đầu tháng, ngày giữa tháng thì
có Mã Vương đến độ thoát đoàn chúng ấy. Nương theo ngựa mà thoát, hoặc ở
đầu hoặc ở đuôi, chỉ cần nhất tâm chẳng nhớ đến sự vui kia, thì về nước
cũ. Hễ còn chút ít vướng niệm thì rớt xuống biển.
Thầy Chân Tây
Sơn làm lời bạt kinh Diệu Pháp Liên Hoa rằng: “Tôi thuở nhỏ đọc phẩm Phổ
Môn, tuy chưa rõ sâu ý nghĩa, nhưng dùng ý cho rằng “Đây là ngụ ngôn của
nhà Phật”.
Xưa, Ông Lý
Văn Công, đời Đường, hỏi thiền sư Dược Sơn rằng: “Thế nào là “Gió dữ thổi
ghe trôi lạc vào nước Quỷ”?”
Sư nói: “Thằng
nhỏ Lý Cao, hỏi chuyện ấy làm gì”.
Văn Công bỗng
chợt phát sân lên mặt.
Sư cười nói:
“Phát tâm sân nộ thế, đó là “Gió dữ thổi ghe trôi vào nước Quỷ” vậy!”
Ôi chao, Tổ
Dược Sơn đáng gọi là khéo khai mở cho người vậy. Từ đó suy ra thì biết Lợi
Dục bừng bừng đó là hầm lửa. Tham Ái chìm đắm, đó là biển khổ. Một niệm
trong sạch, lửa mạnh thành ao mát. Một niệm tỉnh thức, thuyền đến bờ kia.
Tai nạn buộc ràng, tùy chỗ mà an. Ta không kinh sợ, gông cùm tự mở. Kẻ dữ
xâm lấn, đối đãi ngang ngược, ta không giận ghét, như thú tự bỏ chạy.
Người đọc kinh này, hành Quán như thế, ắt biết Đức Đại Sĩ tại núi Phổ Đà
chân thật vì người. Chẳng phải lời nói suông.
Căn cứ theo
Truyền Đăng Lục thì có câu “Này cái lão Vu Khoảnh, hỏi điều đó làm gì?”,
thuộc về lời nói của thiền sư Tử Ngọc. Câu truyện không giống hẳn, chỉ cốt
hiểu được cái ý.
Kinh: “Năm là,
nơi cái Nghe huân tu thành tựu trong Tánh Nghe, sáu Căn tiêu về bản tánh,
đồng như cái tiếng, cái nghe, hay khiến chúng sanh đang khi bị hại, dao
gãy từng khúc, khiến cho binh khí, dường như chém nước, như thổi ánh sáng,
tánh không chao động.
Thông rằng:
Tánh Nghe Viên Thông [Vẹn suốt], nào có hình trạng. Huân tu nơi cái Nghe,
thành tròn vẹn nơi Tánh Nghe, ắt sáu Căn tiêu về bản tánh, hóa thành Tánh
Nghe. Ngoại vật được chạm xúc, đều đồng như cái nghe, cái tiếng. Dầu cho
binh khí cũng như chặt nước, thổi ánh sáng vậy. Tánh Nghe bất động, bèn
không kinh sợ. Đã không kinh sợ, ắt cái người chẳng-thể-hoại ở tại ta, mà
dao kiếm gãy từng khúc vậy.
Vua nước Kế
Tân, mang gươm đến chỗ Tôn Giả Sư Tử, hỏi rằng: “Thầy đắc uẩn-không
chăng?”
Tổ nói: “Đã
đắc uẩn-không”.
Vua hỏi: “Lìa
sanh tử chăng?”
Tổ đáp: “Đã
lìa sanh tử”.
Vua nói: “Đã
lìa sanh tử, có thể cho tôi cái đầu!”
Tổ đáp: “Thân
chẳng phải tôi có, nào tiếc gì cái đầu”.
Vua liền hươi
gươm chặt đứt đầu Tôn giả, sữa trắng vọt cao mấy thước. Cánh tay phải của
vua liền rớt xuống đất, bảy ngày sau thì chết.
Pháp sư Triệu,
khi lâm hình nói bài kệ:
Tứ
Đại nguyên chẳng có
Ngũ Uẩn hẳn đều không
Đưa đầu cho gươm sáng
Dường giống chém gió Xuân
Đây có thể nói
là Thuần Giác quên thân, tánh không chao động.
(Xét bộ Xuân
Thu Thập Lục Quốc, sư Triệu đời Tấn niên hiệu Nghĩa Hy Thứ Mười, ở Trường
An diệt độ trong điềm lành, không có việc bị hình).
Đời truyền
rằng kinh Cao Vương Quan Âm, tụng đến gông cùm đều thoát sạch, rất là linh
ứng, nhưng có người cho là ngụy kinh.
Kinh: “Sáu là,
huân tu theo Tánh Nghe thuần sáng, sáng khắp pháp giới ắt các tối tăm
chẳng có thể còn, khiến cho chúng sanh tuy có Dược Xoa, La Sát, quỷ Cưu
Bàn Trà, cho đến Tỳ Xá Già, Phú Đơn Na... ở gần bên cạnh cũng chẳng thể
thấy.
Thông rằng:
Quỷ Thần lấy sự tối tăm thành tánh. Nhờ nơi tối tăm mà được dịp, còn ở nơi
sáng suốt thì không thể hiện ra dấu vết, cho nên nói “Chẳng thể còn”.
Huống gì cái tối tăm kia là hữu hạn, mà ánh sáng ta thì vô biên. Ánh sáng
thuần túy sáng rỡ, chói rực nơi tối tăm, làm lòa con mắt, nên chẳng thể
thấy.
Sư Ngộ Bổn
nhậm giữ ở Động Sơn hai mươi năm. Thần Thổ Địa chẳng nhận thấy được.
Thần bạch thầy
Chủ Sự: “Làm sao biết được mặt Hòa Thượng một lần?”
Thầy Chủ Sự
nói: “Hòa Thượng đang dùng bữa tại trai đường, ông lật úp mâm cơm, Hòa
Thượng kêu lên, thì ngươi sẽ thấy”.
Hôm sau, thần
lật úp mâm cơm.
Sư kêu lên
rằng: “Đáng tiếc vật thường trụ!”
Thần mới biết
mặt sư một phen.
Ở chỗ Ngài
Diêm Quan, có một thầy Chủ Sự, một hôm bỗng thấy một quỷ sứ đến tìm bắt.
Nhà sư ấy nói:
“Tôi lãnh chức Chủ Sự, chưa rãnh tu hành. Xin khất bảy hôm, được chăng?”
Quỷ sứ nói:
“Đợi tâu với Diêm Vương, nếu chịu cho thì bảy ngày sau sẽ đến, còn không
thì chốc nữa sẽ lại.”
Nói xong biến
mất. Bảy ngày sau lại đến, tìm mãi nhà sư chẳng được!
Người đời sau
nêu hỏi một vị tăng: “Như khi bị kiếm bắt, làm sao nghĩ định để hắn bỏ
đi?”
Tổ Động Sơn
thay thế nói: “Bị hắn kiếm được rồi!”
Chỗ này cũng
giống chuyện Tổ Nam Tuyền đến trang trại. Thần Thổ Địa
báo trước cho trang chủ, ông này thiết trai cúng dường rất đầy đủ.
Thị giả hỏi:
“Đã là đại thiện tri thức, vì sao lại bị Quỷ Thần rình thấy?”
Tổ Tuyền nói:
“Trước mặt Thổ Địa, lại thêm một phần cúng dường!”
Thật đáng cùng
tham!
Kinh: “Bảy là,
tiếng tăm tiêu trọn, Thấy-Nghe xoay lại nhập vào, lìa các vọng trần, có
thể khiến cho chúng sanh gông cùm, xiềng xích chẳng thể trói buộc.
Thông rằng: Có
Tiếng, có Trần, chưa vào Tánh Nghe, bèn bị Trần trói. Giờ tiếng tăm tiêu
trọn, hai tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh. Cái Thấy Nghe xoay lại nhập
vào, đến chỗ chẳng sanh diệt, liền lìa các trần hư vọng, đó gọi là Chân
Giải Thoát vậy. Như đảm đương đại pháp, riêng cần sẵn đủ một con mắt lẻ!
Tổ Vân Môn đến
trang trại Tổ Tuyết Phong, gặp một nhà sư bèn hỏi: “Thượng Tọa hôm nay lên
núi đó ư?”
Nhà sư đáp:
“Phải”.
Tổ Vân Môn
nói: “Xin gởi một tắc nhân duyên, hỏi Hòa Thượng trụ trì, chỉ chẳng được
nói là lời của người khác.”
Nhà sư nói:
“Được”.
Tổ Môn nói:
“Thượng Tọa lên tới núi, thấy Hòa Thượng thượng đường, chúng vừa tụ tập,
liền bước ra nắm đứng lại nói rằng: “Lão già này mang gông sắt trên cổ,
sao chẳng cởi ra?”
Nhà sư y theo
lời của Tổ Môn.
Tổ Tuyết Phong
thấy nhà sư nói thế, liền xuống tòa túm ngực nắm đứng, nói: “Nói mau, nói
mau!”
Nhà sư không
đáp được.
Tổ Phong buông
ra, nói rằng: “Chẳng phải lời ông!”
Nhà sư đáp:
“Chính lời của tôi”.
Tổ Phong nói:
“Thị giả! Đem gậy lại đây!”
Nhà sư rằng:
“Chẳng phải lời của tôi, mà là của một vị Thượng Tọa người Triết Giang ở
xóm trên dạy tôi đến nói”.
Tổ Phong nói:
“Đại chúng đến xóm trên rước vị thiện tri thức của năm trăm người đến!”
Cũng lại Tổ
Vân Môn, đến Nga Hồ, nghe thượng đường rằng: “Chớ nói chưa rõ người ấy,
vẫn hằng nổi nghẹt đầy đất! Giả sử rõ được đó, rành rành biết có chỗ đi,
cũng là nổi nghẹt đầy đất!”
Tổ Môn bèn hỏi
thầy Thủ Tòa: “Vừa rồi ý Hòa Thượng ra làm sao?”
Thầy Thủ Tòa
đáp: “Nổi nghẹt đầy đất!”
Tổ Môn nói:
“Thầy Thủ Tòa ở đây đã lâu, đầu bạc răng vàng mà nói lời thế ấy”.
Đáp rằng:
“Thượng Tọa lại như thế nào?”
Tổ Môn nói:
“Muốn nói bèn được, thấy bèn tiện thấy, nếu không thấy chớ nói loạn”.
Đáp rằng: “Chỉ
như nổi nghẹt đầy đất, lại là thế nào?”
Tổ Môn nói:
“Trên đầu mang gông, dưới chân mang cùm!”
Hỏi: “Thế thì
chắc không có Phật Pháp vậy?”
Tổ Môn nói:
“Đó là cảnh giới Văn Thù, Phổ Hiền Bồ Tát”.
Hai tắc này
đáng để xem lẫn nhau.
Kinh: “Tám là,
dứt cái tiếng, tròn vẹn cái Nghe, khắp sanh sức Từ, có thể khiến cho chúng
sanh đi qua đường hiểm, giặc không thể cướp”.
Thông rằng:
Cảm và Ứng là một Cơ, đây và kia là một Tâm vậy. Trong chẳng ứng, ngoài
chẳng làm gì được. Nên tâm không có sự sát hại thì quỷ chẳng thể xâm phạm.
Khắp sanh sức Từ, ắt giặc không thể cướp. Bởi vì, diệt cái tiếng thì trọn
không có đối đãi. Tròn vẹn cái Nghe tức đồng một Thể, nên không thành thù
địch để bị cướp vậy.
Thiền sư Đại
Đồng ở Đầu Tử Sơn gặp ổ cướp làm loạn.
Có bọn cuồng
cầm dao chỉa vào Tổ mà nói rằng: “Ở đây làm gì?”
Tổ bèn tùy
nghi thuyết pháp, tên đầu đảng nghe xong bái phục, cởi áo dâng cho mà lui
đi.
Am chủ Pháp
Ngộ ở Tam Giác Sơn, nhằm thời ly loạn, có tên đầu đảng vào núi, hỏi: “Hòa
Thượng có của báu gì?”
Tổ Ngộ nói:
“Cái báu của nhà sư chẳng hợp với ông”.
Đầu đảng hỏi:
“Là của báu gì?”
Tổ Ngộ hét lên
một tiếng.
Đầu đảng chẳng
ngộ, cầm dao đâm tới.
Một đàng lãnh
nhận, một đàng chẳng lãnh nhận, há chẳng phải định nghiệp
ư ?
Tổ Nham Đầu
thường nói với chúng rằng: “Lão già này khi đi, rống lớn một tiếng rồi
đi”.
Ở Trung Nguyên
giặc cướp nổi lên, đại chúng đều tìm nơi lánh trốn. Tổ Đầu đàng hoàng ở
yên. Một hôm giặc đến đông, trách rằng không dâng biếu, bèn lấy dao đâm.
Tổ Đầu thần sắc tự nhiên, hét lớn một tiếng mà tịch. Tiếng hét nghe vang
cả mười dặm.
Đây là định
nghiệp nên chẳng tránh khỏi. Nhưng cái của báu của Tổ Tâm Giác và Tổ Nham
Đầu há bọn cướp có thể cướp được sao?
Kinh: “Chín
là, huân tu theo Tánh Nghe, lìa các trần tướng, sắc không thể cướp níu, có
thể khiến cho chúng sanh nhiều dâm lìa xa tham dục.
Thông rằng:
Huân tu theo Tánh Nghe ắt dục ái khô khan. Bởi do nước về căn nguồn, nên
lửa chẳng thể đốt vậy. Tiếng trần đã tiêu tan, các trần khác đều thoát.
Căn và Cảnh chẳng cướp lẫn nhau, nên hình sắc chẳng mê hoặc được.
Cổ đức nói,
“Lâu trồng sâu căn lành
Ở
trần, trần chẳng xâm
Nào giữ Trần khỏi xâm
Vốn bởi ta vô tâm”.
Ngài Cưu Ma La
Thập bỗng nghe trên vai có hai đứa con nít khóc.
Tổ Thập nói:
“Đây là dục chướng vậy”.
Ngài nói với
vua Tần ban cấp cho bốn người cung nữ, một lần giao hợp mà sanh hai con
trai. Dục chướng liền dứt.
Đệ tử thấy
vậy, chẳng gìn giữ Giới Luật.
Tổ Thập bèn
túm nắm kim nhai nuốt mà nói: “Có thể như ta nuốt kim, mới có thể hành
dục”.
Do đó, hết
thảy chúng sợ hãi mà phụng trì Giáo Pháp.
Kinh: Mười là,
thuần Âm không trần, Căn Cảnh viên dung, không năng sở đối, có thể khiến
cho tất cả chúng sanh căm giận lìa lòng oán giận.
Thông rằng:
Sân so với Tham lại càng vi mật, rất khó nhổ khỏi. Nên lìa Trần thì có thể
dứt Tham, còn Sân thì phải không có Trần rồi sau mới dứt được vậy. Bên
ngoài không có chỗ Sở Đối thì dễ, trong không có cái Năng Đối thì khó.
Chẳng được Căn Cảnh viên dung, thuần lại càng thuần, khó nói lời này. Tuy
nhiên, cũng có thể dùng sân giận mà làm Phật sự.
Như thầy Từ
Minh, ở Tổ Phần Dương hai năm, chưa được nhập thất, mỗi lần gặp là bị mắng
nhiếc, hoặc chê bai các nơi khác, đến khi dạy bảo thì đều là chuyện phàm
tục thô bỉ.
Một đêm nọ,
thầy than rằng “Từ khi đến học pháp đã hai hạ, chẳng được chỉ bày, chỉ
tăng thêm trần lao thế tục; thầm nghĩ năm tháng trôi mau, việc mình chẳng
rõ, mất đi sự lợi ích xuất gia”.
Lời chưa dứt,
Tổ Dương quắc mắt, nói: “Ác tri thức! Dám nói thêm nói bớt cho ta!”
Rồi nổi giận
cầm gậy rượt.
Thầy Minh định
kêu cứu. Tổ Dương bịt miệng, bèn đại ngộ, nói: “Mới biết đạo của Lâm Tế
vượt khỏi thường tình”.
Từ đó, phục
dịch bảy năm mới ra đi.
Sau, ở Từ
Minh, thầy Hoàng Long Nam thiết tha cần cầu khai thị.
Tổ Minh nói:
“Ông học thiền Vân Môn ắt rành yếu chỉ. Như nói “Tha Động Sơn ba gậy”, là
có hợp phần ăn gậy hay không hợp phần ăn gậy?”
Thầy Nam đáp:
“Có hợp phần ăn gậy”.
Tổ Minh nghiêm
sắc mặt, nói: “Từ sáng đến chiều cắt réo quạ kêu lẽ ra đều phải ăn gậy!”
Tổ Minh lại
hỏi: “Triệu Châu nói “Lão bà Đài Sơn, ta đã vì ông khám phá rồi vậy”. Thế
đâu là chỗ Triệu Châu khám phá Lão bà?”
Thầy Nam toát
mồ hôi chẳng đáp được.
Ngày sau lại
tới, Tổ Minh mắng nhiếc không dứt.
Thầy Nam nói:
“Chửi mắng há là từ bi thí pháp ư?”
Tổ Minh nói
rằng: “Ông cho là chửi sao?”
Thầy Nam ngay
lời đại ngộ. Nhân trình kệ rằng:
“Kiệt xuất tùng lâm thiệt Triệu Châu
Lão bà khám phá, mất nguyên do
Giờ đây bốn biển trong như kính
Người đi chớ giận oán con đường”.
Tổ Minh gật
đầu.
Các thứ giận
dữ này thì không xa lìa lại càng tốt.
Kinh: “Mười
một là, tiêu tan trần tướng, trở lại Tánh Bản Minh, pháp giới thân tâm như
ngọc lưu ly, sáng suốt không ngại, có thể khiến cho tất cả các kẻ u mê ám
chướng lìa xa vĩnh viễn si tối.
Thông rằng:
Tánh Nghe chẳng phải là Tánh Thấy, sao lại nói chữ Minh? Minh tức là Giác
vậy. Giác và Sở Giác đều không, nên sáng khắp pháp giới. Không-Giác cùng
tột tròn vẹn, nên pháp giới, thân tâm như ngọc lưu ly, sáng suốt không
ngại. Mới là sáu Căn dùng lẫn nhau, thấy tức là nghe, nên nói rằng tiêu
tan trần tướng, trở lại Tánh Bản Minh vậy.
Nghiệp bên
trong có mười thứ làm che mất Pháp Thân, trong đó Dâm, Nộ, Si
là lớn nhất. Ngài Thiên Thai giải thích ba cái độc thông cả trong ngoài.
Bên trong gọi là Tư Hoặc, bên ngoài gọi là Vô Minh. Bậc Nhị Thừa thích
khoái Niết Bàn là Tham; chán ghét Sanh Tử là Sân; không biết Trung Đạo là
Si. Bậc Bồ Tát thì rộng cầu Phật Pháp là Tham, la đuổi Nhị Thừa là Sân,
chưa rõ Phật Tánh là Si. Đều là ba độc, mà Si là gốc rễ, nên rất khó trừ
nghiệp Si vậy thay!
Tổ Bách Trượng
nói: “Pháp đục là Tham, Sân, Ái, Thủ, cả thảy nhiều tên vậy. Pháp trong là
Bồ Đề, Niết Bàn, Giải Thoát cả thảy nhiều tên vậy. Chỉ như nay soi tỏ nơi
hai thứ trong đục, các pháp phàm thánh trọn chẳng có được chút tơ hào nào
ái thủ. Đã chẳng ái thủ, mà nương trụ cái chẳng ái thủ cho là đúng, đó là
Sơ Thiện, là trụ tâm điều phục, là người Thanh Văn, là người yêu thích bè
chẳng bỏ, là đạo của Nhị Thừa, là quả của thiền na. Đã chẳng ái thủ, cũng
chẳng nương trụ cái chẳng ái thủ, đó là Trung Thiện, là Giáo Pháp nửa
chừng, còn là Vô Sắc Giới, tuy khỏi sa vào đạo Nhị Thừa, khỏi sa vào dân
Ma, vẫn còn là bệnh của thiền na, đó là chỗ trói buộc của Bồ Tát. Đã chẳng
nương trụ cái chẳng ái thủ, chẳng khởi tri giải chẳng-nương-trụ, đó là Hậu
Thiện, là Giáo Pháp toàn mãn, khỏi sa vào Vô Sắc Giới, khỏi sa vào bệnh
thiền na, khỏi sa vào Bồ Tát Thừa, khỏi rớt vào vị Ma Vương, là các thứ
Trí Chướng, Địa Chướng và Hành Chướng. Cho nên thấy Phật Tánh chính mình,
như đêm thấy sắc.
“Như nói “Phật
Địa đoạn dứt cả hai thứ ngu : một là Vi Tế Sở Tri Ngu; hai là Cực Vi Tế Sở
Tri Ngu”. Thế nên mới nói, “Có người đại trí phá bể hạt bụi, mở ra cuốn
kinh”. Nếu thấu qua “Ba cú”, chẳng bị “Ba đoạn” giam. Hàng giáo điển nêu
ví dụ là như nai nhảy ba cái ra khỏi lưới, gọi là người ngoài ràng buộc,
không có vật gì móc ràng được hắn. Đó là thuộc về Nhiên Đăng Hậu Phật, là
Tối Thượng Thừa, là Thượng Thượng Trí, là địa vị cao thượng trong Phật
đạo. Người này là Phật, có Phật Tánh, là Đấng Đạo Sư, là người khiến sử
được ngọn gió không chỗ ngại, là Trí Huệ Vô Ngại. Về sau có thể sử dụng
được nhân quả, phước trí tự do, làm cái xe chở chuyên nhân quả. Ở nơi sanh
chẳng bị sanh lưu giữ, ở nơi tử chẳng bị tử ngăn ngại, ở nơi năm ấm như
cửa mở hoác, đi ở tự do. Bằng có thể như thế thì chẳng luận giai cấp, yếu
mạnh, chỉ có thể như thế thì cho đến thân kiến trùng thảy là quốc độ diệu
tịnh, chẳng thể nghĩ bàn. Đây vẫn là lời nói mở trói. Vốn tự không ghẻ
nhọt, chớ làm ra thương tích! Dù là ghẻ Phật hay ghẻ Bồ Tát các thứ. Hễ
nói các pháp có, không v.v... thì đều là thương tích cả”.
Ôi! Tổ Bá
Trượng từ bi, tận lực bày rõ chướng ngại vi tế của Tâm Tánh. Cần mỗi mỗi
thấu qua, mới gọi là vĩnh viễn đoạn dứt si ám.
Kinh: “Mười
hai là, viên dung hình tướng, trở lại Tánh Nghe, là đạo trường bất động,
thấm vào cõi đời mà không hoại thế giới, hay khắp mười phương, cúng dường
Chư Như Lai như số vi trần, bên mỗi mỗi Phật làm bậc Pháp Vương Tử, có thể
khiến cho chúng sanh không con trong pháp giới muốn cầu con trai, sanh
được con trai trí huệ phước đức.
Thông rằng:
Đây là Tánh Chân Như thấm nhập thế gian, tùy làm Sắc-Không, khắp mười
phương cõi, ấy là Bất Không Như Lai Tạng vậy. Quan Âm Đại Sĩ vốn là Pháp
Vương Tử của Đức A Di Đà, mà bên mỗi mỗi vị Phật giúp việc không nhàm mỏi,
thật là con giỏi vậy. Cho nên cầu con trai liền ứng.
Tổ Thứ Hai
Mươi Ba là Tôn Giả Hạc Lặc, người nước Nguyệt Thị, cha tên là Thiên Thắng,
mẹ là Kim Quang. Vì không có con, nên cúng cầu nơi đền Phướn Vàng Thất
Phật, bèn mộng thấy trên đỉnh núi Tu Di có một thần đồng cầm chiếc kim
hoàn nói rằng: “Ta đến vậy”. Tỉnh dậy thì có thai.
Năm Ngài bảy
tuổi, đi dạo xóm làng thấy dân gian thờ cúng Dâm Thần, mới vào miếu la
rằng: “Ngươi bày đặt chuyện họa phước, dối gạt người ta, hao tiền tốn
mạng, làm hại quá lắm”.
Lời dứt, hình
tượng trong miếu bỗng nhiên đổ sập.
Do đó, người
làng gọi là ông Thánh Con. Năm hai mươi hai tuổi, xuất gia, ba mươi tuổi
gặp Tổ Ma Nả La tôn giả, được phó pháp nối ngôi Tổ.
Kinh: “Mười ba
là, sáu căn Viên Thông [Trọn Suốt], sáng chiếu không hai, trùm mười phương
cõi, thành Đại Viên Kính Không Như Lai Tạng, thừa thuận pháp môn bí mật
của mười phương vi trần Như Lai, lãnh nhận không sót, có thể khiến cho
chúng sanh không con trong pháp giới muốn cầu con gái, sanh được con gái
đoan chánh, phước đức, dịu hiền, tướng tốt, mọi người yêu kính.
Thông rằng:
Một Căn về nguồn, sáu Căn dùng lẫn, đó là Viên Thông. Chỉ bởi tròn vẹn mà
sáng chiếu không hai, nên thành Đại Viên Cảnh Trí. Chỉ bởi thông suốt mà
trùm mười phương cõi, nên là Không Như Lai Tạng. Thừa thuận Như Lai, nhận
lãnh không sót, là đều có cái đạo của người nữ, nên cầu gái được gái.
Cô Nguyệt
Thượng Nữ [Con gái Đức Duy Ma Cật] tướng tốt đoan nghiêm, mọi người yêu
kính; kẻ cầu hôn nối gót đến, cô hiện thần dị [Bay lên hư không]; chí cầu
xuất gia.
Ông Xá Lợi
Phất nhân đang vào thành gặp cô đi ra. Thầm nghĩ, chị này ra mắt Phật,
chẳng biết đắc nhẫn hay chưa đắc nhẫn, ta phải hỏi xem.
Vừa đến gần,
bèn hỏi: “Chị đi đâu thế?”
Cô đáp : “Như
Xá Lợi Phất đi vậy”.
Ông Xá Lợi
Phất nói: “Tôi mới vào thành, cô mới ra thành, sao lại nói: “Như tôi đi
vậy?”
Cô hỏi: “Các
đệ tử Phật phải nương đâu trụ?”
Ông Xá Lợi
Phất nói : “Các đệ tử Phật y nơi Đại Niết Bàn mà trụ”.
Cô nói: “Các
đệ tử Phật đã y nơi Đại Niết Bàn mà trụ, nên tôi cũng như chỗ đi của Xá
Lợi Phất vậy”.
Lại Ngài Văn
Thù, hỏi Cô Am Đề Già rằng: “Sanh lấy gì làm nghĩa?”
Cô đáp: “Sanh
lấy sanh-mà-chẳng-sanh làm nghĩa sanh”.
Ngài Văn Thù:
“Như sao là lấy sanh-mà-chẳng-sanh làm nghĩa sanh?”
Cô đáp: “Nếu
hay rõ biết bốn duyên Địa, Thủy, Hỏa, Phong chưa từng tự được, tuy có chỗ
hòa hiệp mà chỉ tùy chỗ ứng hợp, đó là nghĩa sanh”.
Ngài Văn Thù
hỏi: “Tử lấy gì làm nghĩa”.
Cô đáp: “Tử
lấy tử-mà-chẳng-tử làm nghĩa tử”.
Ngài Văn Thù
hỏi: “Như sao là tử lấy tử-mà-chẳng-tử làm nghĩa tử?”
Cô đáp: “Nếu
hay biết bốn duyên Địa, Thủy, Hỏa, Phong chưa từng tự được, tuy có chỗ lìa
tan, mà chỉ tùy chỗ ứng hợp, đó là nghĩa Tử”.
Cô Am Đề Già
hỏi Ngài Văn Thù rằng: “Rõ biết cái lý sanh là chẳng sanh, thì vì sao lại
bị sanh tử trôi vần?”
Ngài Văn Thù
nói: “Vì sức lực chưa đủ”.
Hai cô gái
này, sanh đời có Phật, không chỉ đầy đủ phước đức, hiền dịu, mà còn phát
minh việc hướng thượng. Cũng là kiếp xưa nhận lãnh Pháp Môn Bí Mật mà thị
hiện đó ư?
Kinh: “Mười
bốn là, trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới trăm ức mặt trời, mặt trăng
này, các Pháp Vương Tử hiện ở thế gian có đến sáu mươi hai hằng sa số, tu
Phật Pháp, nêu gương mẫu, giáo hóa chúng sanh, tùy thuận chúng sanh, trí
huệ phương tiện, mỗi mỗi chẳng đồng. Do tôi đã được bổn căn Viên Thông
phát ra diệu tính của căn Tai, sau đó Thân Tâm vi diệu trùm chứa cùng khắp
pháp giới nên có thể khiến cho chúng sanh trì niệm danh hiệu của tôi, so
với những người trì niệm danh hiệu của sáu mươi hai hằng sa số Pháp Vương
Tử ấy, hai đàng phước đức bằng nhau không khác.
“Bạch Thế Tôn,
một danh hiệu của tôi cùng với rất nhiều danh hiệu kia không khác, là do
tôi tu tập được Chơn Viên Thông. Đó gọi là mười bốn sức Thí Vô Úy, phước
sẵn đủ khắp cho chúng sanh.
Thông rằng:
Ban đầu, hết quán cái Âm Thanh liền được Giải Thoát là để tiếp bậc thượng
thượng căn, chỉ soi thấy năm uẩn đều Không tức vượt hết thảy khổ ách. Dùng
cái quán Tự Tánh, nếu chẳng phải là Quán Hạnh vi diệu thì không thể hành
được vậy.
Chót là chỉ
trì niệm danh hiệu, phước sẵn đủ khắp cho chúng sanh, là để tiếp bậc trung
hạ căn.
Nói rằng phước
sẵn đủ khắp là khỏi bị Nước Lửa, cho đến được trai, có gái, không gì cầu
chẳng được. Cho nên trong ba mươi hai Ứng Thân, nói Giải Thoát tức là
chứng ngộ, còn lại là thành tựu, chỉ đầy cái phước mà thôi.
Chúng sanh
phương này, căn Tai lanh lợi, nhiều người nhận lãnh được Đạo, bởi thế sự
giáo hóa của Đức Quan Âm trổi bật. Các Căn khác chậm lụt, người được Đạo
ít, cho nên sự giáo hóa của các vị Thánh khác kém hơn. Viên Thông so với
chẳng Viên Thông, như một ngày sánh với một kiếp, nên tự thầm chọn căn Tai
làm cái giáo thể phương này vậy.
Thiền sư Hoa
Lâm Thiện Giác thường cầm tích trượng, ban đêm ra khoảng rừng dưới chân
núi, mỗi lần bảy bước dộng gậy một cái mà xưng lên danh hiệu Quan Âm.
Sư Giáp Sơn
hỏi: “Ở xa nghe Hòa Thượng niệm Quan Âm, có phải chăng?”
Tổ đáp:
“Phải”.
Thầy Sơn nói:
“Khi cỡi được đầu thì thế nào?”
Tổ nói: “Ló
đầu thì cho ông cỡi, chẳng ló đầu cỡi cái gì?”
Thầy Sơn hết
lời đối đáp.
Quán Sát Sứ
Bùi Hưu đến thăm, hỏi rằng: “Thầy có thị giả không?”
Tổ nói: “Có
một cặp, chỉ là không thể gặp khách”.
Ông Hưu hỏi:
“Ở đâu?”
Tổ bèn gọi:
“Đại Không, Tiểu Không!”
Hai con cọp từ
sau am liền đi ra. Ông Bùi thấy thế kinh hãi.
Tổ nói với hai
con cọp rằng: “Có khách, hãy lui”.
Hai con cọp
rống lên mà lui vào.
Ông Hưu hỏi:
“Thầy giữ hạnh nghiệp gì mà cảm hóa được như vầy?”
Sư mới im lặng
chập lâu, hỏi: “Am hiểu chăng?”
Ông Bùi đáp:
“Dạ, không hiểu”.
Tổ nói: “Sơn
tăng thường niệm Quan Âm vậy”.
Biết được chỗ
nín lặng của Hoa Lâm, và chỗ chẳng ló đầu tức là khéo quán Tánh vậy. Nếu
không, hãy niệm Quan Âm.
Kinh: “Bạch
Thế Tôn, do tôi đã được Viên Thông Đạo Vô Thượng Tu Chứng
ấy, nên lại khéo được bốn đức mầu vô tác không-nghĩ-bàn.
“Một là, do
tôi ban đầu được Tánh Nghe Chí Diệu, cái Tâm thuần túy không còn Tướng
Nghe; các sự Thấy, Nghe, Hay, Biết chẳng còn phân cách mà thành một Bảo
Giác viên dung thanh tịnh, nên tôi có thể hiện ra rất nhiều hình dung mầu
nhiệm, có thể nói ra vô biên Thần Chú bí mật.
“Trong ấy,
hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, cho
đến một trăm lẻ tám đầu, ngàn đầu, vạn đầu, tám vạn bốn ngàn đầu Kim Cang
như thế; hoặc hiện hai tay, bốn tay, sáu tay, mười hai tay, mười bốn, mười
sáu, mười tám, hai mươi, hai mươi bốn cho đến một trăm lẻ tám tay, ngàn
tay, vạn tay, tám vạn bốn ngàn tay bắt ấn như thế; hoặc hai mắt, ba mắt,
bốn mắt, chín mắt, cho đến một trăm lẻ tám mắt, ngàn mắt, vạn mắt, tám vạn
bốn ngàn mắt báu thanh tịnh như thế; hoặc Từ hoặc Oai, hoặc Định, hoặc
Huệ, cứu độ chúng sanh được đại tự tại.
Thông rằng:
Đồng Từ Lực Phật, nên có ba mươi hai Ứng Thân, đồng Bi Ngưỡng với chúng
sanh, nên bố thí mười bốn sự Vô Úy, đã là Diệu Lực Vô Tác không thể nghĩ
bàn; lại còn có bốn Diệu Đức Vô Tác không thể nghĩ bàn, là do tu chứng Vô
Thượng Đạo. Cái Đạo Vô Thượng này thần diệu càng chẳng thể đo lường.
Ở trước,
thuyết pháp cùng xưng danh hiệu, còn có thể suy lường được. Đến đây thì
hình dung và thần chú, khiến chúng sanh đắc Đại Tự Tại quả là cảnh giới
rất khó nghĩ bàn vậy. Tất cả cũng từ Tánh Nghe Chí Diệu lưu xuất.
Ban đầu, mất
hết Căn, Trần, tâm yên định mầu nhiệm, nhưng cái mầu nhiệm đối với thô này
chưa phải là cái mầu nhiệm tuyệt mọi đối đãi. Kế đó, Trí, Cảnh đều vong,
Năng-Sở tịch diệt, nên nói là Chí Diệu. Ban đầu là xoay cái Nghe lại,
không còn cái Cảnh. Đến đây tâm thuần túy không còn cái Nghe, cái Nghe đã
bỏ mất, sáu Căn đều hóa. Bởi thế, Thấy, Nghe, Hay, Biết không còn phân
cách, mà thành một Bảo Giác viên dung thanh tịnh, tức chỗ gọi là Tịch Diệt
Hiện Tiền vậy.
Vốn viên dung
thanh tịnh nên ứng hóa không ngằn. Đầu là chỗ tóm gồm của sáu dụng. Tay
thể hiện lòng Bi tiếp đỡ. Mắt biểu hiện cái Trí soi tỏ. Đầu, tay, mắt, đều
tám vạn bốn ngàn là đối với tám vạn bốn ngàn phiền não trần lao mà hiển
pháp môn đối trị vậy.
Đức Lục Tổ
nói: “Pháp môn này của ta, từ một Trí Huệ Bát Nhã sanh tám vạn bốn ngàn
Trí Huệ. Vì sao thế? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu không
có trần lao thì Trí Huệ thường hiện, chẳng lìa Tự Tánh”.
Quan Đại Phu
Lục Tuyên hỏi Tổ Nam Tuyền: “Đức Bồ Tát Đại Bi dùng bấy nhiêu tay, mắt làm
chi?”
Tổ Tuyền nói:
“Chỉ như quốc gia lại dùng Đại Phu làm chi?”
Tổ Ma Cốc hỏi
Tổ Lâm Tế: “Đại Bi ngàn tay, ngàn mắt, cái nào là Chánh Nhãn?”
Tổ Lâm Tế nắm
đứng, nói: “Đại Bi ngàn tay, ngàn mắt, thế nào là Chánh Nhãn ? Nói mau,
nói mau!”
Tổ Cốc kéo Tổ
Tế xuống thiền sàng, mà lên ngồi.
Tổ Tế xá chào,
nói: “Chẳng rõ”.
Tổ Cốc định
nói. Tổ Tế bèn hét, kéo Tổ Cốc xuống thiền sàng rồi lên ngồi.
Tổ Cốc bèn bỏ
đi.
Lại Tổ Ma Cốc
hỏi: “Đức Quan Âm mười hai mặt, cái nào là mặt chánh?”
Tổ Tế xuống
thiền sàng, nắm đứng, hỏi: “Quan Âm mười hai mặt hiện ở chốn nào? Nói mau,
nói mau!”
Tổ Cốc xoay
mình định ngồi. Tổ Tế liền đánh. Tổ Cốc bắt cứng cây gậy, cùng kéo nhau về
phương trượng.
Hai vị tôn túc
đây, mỗi vị đều hiển lộng thần thông đại bất khả tư nghì. Thấy được cái cơ
đoạt nhau đó mới cho là đủ tay mắt Quan Âm.
Kinh: “Hai là,
do sự Nghe, Nghĩ của tôi thoát khỏi sáu Trần, như tiếng suốt qua bức
tường, chẳng hề ngăn ngại, nên tôi có thể diệu dụng hiện ra mỗi mỗi hình,
tụng mỗi mỗi Chú. Hình ấy, Chú ấy có thể dùng Vô Úy Thí cho chúng sanh.
Thế nên mười phương cõi nước như vi trần đều gọi tôi là bậc Vô Úy Thí.
Thông rằng:
Nghe, Nghĩ viên thông, như tiếng qua tường. Vì vượt thoát sáu Trần, chẳng
hề chướng ngại, nên hiện hình tụng Chú, hiện diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn.
Tánh Nghe chẳng thể nghĩ bàn, nên sức Chú chẳng thể nghĩ bàn.
Trước thì dùng
một Bảo Giác viên dung thanh tịnh cứu hộ chúng sanh được Đại Tự Tại, ấy là
dùng toàn lực mà dẫn dắt cho lên bờ Đạo, nên đầu, tay, mắt hoặc Từ hoặc
Oai, hoặc Định hoặc Huệ đều đầy đủ, khiến cho giải thoát. Ở đây, chỉ hiện
mỗi mỗi hình dạng, tụng mỗi mỗi Thần Chú, khiến cho chúng sanh không sợ
hãi, nghĩa là chỉ không sợ sự khổ sanh tử chứ chưa đến Đại Tự Tại vậy.
Xưa, có người
bị bẫy để tế cho quỷ ăn, bị trói vào cột trong miếu. Nửa đêm có con mãng
xà to lớn đến, sắp sửa ăn. Người ấy ngày thường chỉ thuộc mỗi một Chú Đại
Bi, liền trì tụng không ngớt. Mãng xà chẳng thể đến gần, như có vật gì
ngăn trở, rốt cuộc bỏ đi. Trời sáng, mở khóa thấy người ấy không bị gì cả.
Mọi người làm lạ, hỏi duyên cớ. Người đó nói vì tụng Chú Đại Bi mà được
khỏi. Từ đó, cái miếu tà bị bỏ phế.
Năng lực Thần
Chú có thể ban cho sự không sợ hãi, khái quát là vậy.
Thầy Trương
Tăng Diêu vẽ tượng hình Ngài Bửu Chí, mới hạ bút, chưa biết định liệu sao.
Ngài Bửu Chí liền dùng ngón tay vạch trên mặt, phân ra thành mười hai mặt
Quan Âm diệu tướng tốt đẹp, hoặc Từ hoặc Oai. Thầy Tăng Diêu rốt cuộc
chẳng vẽ được.
Có nhà sư hỏi
thiền sư Văn Thù rằn : “Vì sao Tăng Diêu vẽ chân dung Tổ Chí Công chẳng
được?”
Tổ Thù đáp:
“Không chỉ Tăng Diêu, mà Chí Công có vẽ cũng chẳng được”.
Nhà sư hỏi :
“Vì sao Chí Công vẽ cũng chẳng được?”
Tổ Thù nói :
“Màu, vải chẳng đem đến được”.
Nhà sư hỏi :
“Hòa Thượng lại vẽ được hay không?”
Tổ Thù nói :
“Ta cũng chẳng vẽ được”.
Nhà sư hỏi :
“Vì sao Hòa Thượng vẽ chẳng được?”
Tổ Thù nói :
“Hắn chẳng màng nhan sắc của ta, bảo ta vẽ như thế nào?”
Tổ Đơn Hà tụng
rằng:
“Thân quang rờ rỡ, tướng nguy nguy (sừng sững)
Tay khéo làm sao thể hiện y
Thôi hỏi Tăng Diêu, Ngô đạo tử
Chí Công kia tự chẳng năng tri”.
Ngay Chí Công
cũng chẳng hay biết thì có thể rõ là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn vậy.
Kinh: “Ba là,
do tôi tu tập cái Bổn Căn Thanh Tịnh, vốn diệu viên thông, nên qua mọi thế
giới đều khiến cho chúng sanh xả bỏ thân cùng của báu, cầu tôi thương xót.
Thông rằng:
Cái Bổn Căn Thanh Tịnh vốn diệu viên thông, tức là căn Tai vậy. Xa lìa
trần cấu, vốn không phiền não, nên gọi là thanh tịnh. Nhưng chúng sanh
trong thế giới khổ vì phiền não, không thể giải thoát, nên thương xót khẩn
thiết cứu vớt.
Lục Độ mà Bồ
Tát tu, thì Bố Thí là trước hết, nên dạy làm Bố Thí, bỏ tham bỏ tiếc, lấy
đó làm Nhân Tu. Một Pháp Bố Thí ấy, tức chẳng thấy người cho, chẳng thấy
người nhận, cũng chẳng thấy có vật bố thí, thế gọi là Bố Thí Ba La Mật.
Nếu chẳng được Viên Thông trong sạch thì chẳng thể rõ sự mầu nhiệm này
vậy. Cho nên Quan Thế Âm Bồ Tát nhận chuỗi ngọc báu của Bồ Tát Vô Tận Ý
[Phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa] lại hiến dâng Phật. Ban đầu chẳng nhận, có
thể thấy Giới Hạnh. Phụng sự Phật không mỏi mệt, có thể thấy sự Tinh Tấn.
Chẳng tự thọ dụng, có thể thấy cái Nhẫn. Cho và nhận đều vô tình, có thể
thấy Thiền Định. Chỉ cầu phước đầy đủ cho chúng sanh, có thể thấy cái Trí
Huệ. Nêu ra một việc Bố Thí mà sáu Ba La Mật đủ hết trong đó vậy. Há chỉ
dạy một phép Bố Thí thôi đâu!
Có nhà sư hỏi
Tổ Bá Trượng: “Như nay hết thảy Sa Môn đều nói rằng “Tôi y theo Giáo Pháp
Phật, học mỗi một Kinh mỗi một Luận, mỗi một Thiền mỗi một Luật, mỗi một
hiểu biết, mỗi một tỏ thông”, mà lãnh nhận bốn việc cúng dường của đàn
việt, thì có tiêu được chăng?”
Tổ Trượng nói:
“Chỉ như giờ đây soi dùng (chiếu dụng) mỗi một Thanh mỗi một Sắc, mỗi một
Hương mỗi một Vị, nơi tất cả các Pháp Hữu Vô, trong mỗi mỗi Cảnh đều không
có mảy bụi giữ nhuốm (thủ nhiễm), cũng chẳng nương trụ tri giải. Cái người
ấy mỗi ngày ăn vạn lượng vàng ròng cũng tiêu hết được. Chỉ như nay soi
chiếu tất cả các pháp hữu vô, nơi cửa sáu căn quét ráo mọi tham ái. Có
chút mảy lông chẳng xong thì dầu có nhận của thí chủ một hột gạo, một sợi
chỉ đều là mang lông đội sừng, kéo cày chở nặng, mỗi mỗi phải bồi thường
lại hết mới được. Vậy là chẳng y theo Phật. Phật là người không bám dính,
người không cầu kiếm, người không dựa nương. Giờ mà bôn ba tham lam tìm
kiếm Phật, đều là nghịch lại vậy”.
Tin lời này,
ắt gọi là tu tập Bổn Căn Thanh Tịnh, mới nên nhận bố thí của người.
Kinh: “Bốn là,
tôi đắc Tâm Phật, chứng đến rốt ráo, nên có thể dùng đủ thứ quý báu cúng
dường mười phương Như Lai. Cả đến chúng sanh sáu đường trong pháp giới,
người cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu Tam Muội được Tam Muội, cầu
sống lâu được sống lâu, như thế cho đến cầu Đại Niết Bàn được Đại Niết
Bàn.
Thông rằng:
Chứng đến rốt ráo, Trí Huệ tròn đủ vậy, nên có thể ban cho người cái vui
xuất thế. Cúng dường Như Lai, phước ấy tròn đủ, nên có thể ban cho người
cái phước thế gian. Đều từ trong cái chẳng thể nghĩ bàn mà thành tựu. Nếu
thấy có cầu, có đắc, thì chỗ cho ra cũng là nhỏ hẹp. Được phước chẳng bằng
được Quả Vị, được Quả chẳng bằng được Cực Quả, nên đắc Đại Niết Bàn là tột
bậc.
Tổ Bá Trượng
nói: “Chỉ như nay có người lấy bốn việc phước trí cúng dường bốn trăm vạn
ức a tăng kỳ chúng sanh trong sáu đường thế giới, tùy theo chỗ thích cho
đến hết tám mươi năm, lại nghĩ rằng : nhưng các chúng sanh này đều phải
già yếu, ta nên dùng Phật Pháp mà dẫn dạy cho, khiến họ đắc quả Tu Đà Hàm
cho đến đạo A La Hán. Thí chủ ấy chỉ bố thí cho chúng sanh tất cả vật ưa
thích, công đức đã là vô lượng. Huống là khiến cho đắc quả Tu Đà Hoàn, cho
đến đạo A La Hán thì công đức vô lượng vô biên. Vậy mà chẳng bằng công đức
người thứ năm mươi nghe kinh mà vui theo.
“Kinh Báo Ân
nói rằng: Ma Da phu nhân sanh năm trăm thái tử đều đắc Bích Chi Phật, mà
đều diệt độ, mỗi vị đều được dựng tháp cúng dường. Mỗi một lần lễ bái, phu
nhân than rằng: Chẳng bằng sanh một đứa con đắc Vô Thượng Bồ Đề, đỡ bớt
tâm lực ta. Chỉ như nay trong trăm ngàn vạn chúng sanh, có một người đắc
Đạo, thưởng bù ngay cho Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới!”
Than ôi! Đức
Quan Thế Âm đã đắc Tâm Phật, mà khiến cho chúng sanh đều đắc Tâm Phật, bi
nguyện ấy thật chẳng thể nghĩ bàn.
Kinh: “Phật
hỏi về Viên Thông, tôi do theo cửa Tai, tròn soi Tam Muội, nhân Tâm được
tự tại, duyên theo tướng Nhập Lưu, đắc Tam Ma Địa, thành tựu Bồ Đề, đó là
Đệ Nhất.
“Bạch Thế Tôn,
Đức Phật Như Lai ấy khen tôi khéo được Pháp Môn Viên Thông, ở trong đại
hội thọ ký cho tôi hiệu là Quan Thế Âm. Do tôi thấy nghe thấu suốt mười
phương nên danh hiệu Quán Âm cùng khắp mười phương thế giới”.
Thông rằng:
Kinh Thư nói rằng “Sáng bốn mắt, thông bốn tai”, là nói lấy tai mắt của
bốn phương làm tai mắt vậy. Lại nói rằng “Trời thấy tức là tự dân ta thấy.
Trời nghe là tự dân ta nghe”. Đó là nói cái Thấy Nghe của trời vốn không
thể thấy mà thấy được ở nơi dân vậy.
Đức Quan Âm đã
lấy cái Thấy Nghe của mười phương làm cái Thấy Nghe, nên cái Thấy Nghe của
mười phương tức là Quan Âm vậy. Danh ấy sao chẳng khắp mười phương ư ?
Tổ Bảo Phước
hỏi nhà sư : “Ở đâu lại?”
Đáp: “Quan
Âm”.
Tổ Phước nói:
“Vậy thấy Quan Âm chăng?”
Đáp: “Thấy”.
Tổ Phước nói:
“Thấy bên trái hay thấy bên phải?”
Đáp rằng:
“Thấy thì chẳng trải qua trái phải”.
Tổ Pháp Nhãn
riêng nói rằng: “Như Hòa Thượng thấy”.
Phù Thượng Tọa
dự pháp hội Kính Sơn, một ngày nọ trước đại điện Phật, có nhà sư hỏi:
“Thượng Tọa từng đến Ngũ Đài chưa?”
Đáp: “Từng
đến”.
Hỏi : “Lại
thấy Văn Thù chăng?”
Đáp : “Thấy”.
Hỏi : “Thấy ở
chỗ nào?”
Đáp : “Thấy
trước điện Phật Kính Sơn”.
Tổ Tuyết Phong
nghe lời ấy lấy làm lạ.
Tổ Lâm Tế nói:
“Có một loại học nhơn, hướng trong núi Ngũ Đài tìm Văn Thù, thật sớm hiểu
lầm! Ngũ Đài không Văn Thù. Ông muốn biết Văn Thù ư ? Chỉ là cái chỗ dùng
trước mắt ông, trước sau chẳng khác, chốn chốn chẳng nghi, ấy là Văn Thù
sống. Ông một niệm tâm không có ánh sáng sau biệt thì xứ xứ thảy là chân
Phổ Hiền. Ông một niệm tâm tự nhiên mở trói, tùy chốn giải thoát, đây
chính là Quan Âm Tam Muội Pháp, đắp đổi chủ bạn. Ra thì lập tức ra, một là
ba, ba là một. Hiểu được như thế mới xem kinh điển”.
Ôi! Lời này
của Tổ Lâm Tế nói ngay tông giáo, thảy không sai biệt. |