PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU
PHỤ LỤC
Kinh Lăng
Nghiêm nói rằng “Từ Văn, Tư, Tu vào Tam Ma Địa. Ban đầu ở trong cái Nghe,
vào dòng mất Sở. Chỗ vào đã lặng, hai tướng động tĩnh rõ ràng chẳng sanh.
Như thế tăng dần, cái Nghe và chỗ Nghe hết, cũng không trụ vào cái hết
Nghe này, thì cái Giác và chỗ Giác đều không. Cái không Giác cùng tột tròn
vẹn, thì năng không và sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt, Tịch Diệt
hiện tiền”.
Đây là cửa vào
Đạo của Bồ Tát Quán Thế Âm, lý rất tinh thâm, ngôn ngữ luận bàn chẳng tới
nổi.
Tôi tình cờ
cùng pháp sư Càn đàm luận, thấy có ý vị, nhân thuật ra đây.
Chỗ nói rằng
“Từ Văn, Tư, Tu mà vào Tam Ma Địa” là nói từ việc “Xoay lại cái Nghe” mà
xuy xét (Tư); từ xoay lại cái Nghe mà Tu. Tức từ xoay lại cái Nghe mà thể
nhập, cho đến địa Chánh Định chẳng sanh chẳng diệt. Tam Ma Địa này vốn
không động lay, lặng trong thường tịch. Chỉ vì cảm theo thanh trần, nên
cái căn nghe dính che tánh trong lặng mà khởi ra, cho đến nghe tiếng rồi
đuổi theo tiếng, trôi lăn mà quên trở lại, cách lìa hẳn với Tam Ma Địa rồi
vậy.
Như chỉ từ
Văn, Tư, Tu mà vào, thì tánh Nghe tức là Lý, Tư là Trí, Tu là Hạnh. Ba đức
Lý, Trí, Hạnh viên dung, cùng đến một lúc. Cho nên, hễ xoay lại cái Nghe
thì Tư (suy xét) đã ở trong ấy rồi; hễ xoay lại cái Nghe thì Tu đã ở trong
ấy rồi. Cái Thánh Huệ Tư, Tu từ chỗ xoay lại cái Nghe mà sanh, bước bước
về Chân, địa địa tăng tiến, như văn đoạn sau nói rõ, đó là thứ tự vào Tam
Ma Địa.
Ban đầu, ở
trong cái Nghe, ngược dòng mà xuôi vào: chẳng vào thanh trần mà vào dòng
Thánh, tức cùng Tự Tánh nương nhau, ngoài mất đi cái Sở.
Phàm cảm nhận
thanh trần hẳn phải có cái Sở, nay tuy mất cái Sở, còn chưa vắng lặng
được. Đang khi tiếng động, thì thấy có tướng động mà muốn cho mất đi. Đang
khi tiếng im lặng thì thấy có tướng tĩnh mà muốn theo trụ vào. Hai tướng
động tĩnh rõ ràng nên chưa có thể vắng lặng. Tuy từ chỗ mất đi cái Sở mà
nhập vào cho đến chỗ tịch nhiên, mà cái động tự nó động, ta chẳng biết cái
động ấy, thì tướng động nào có tự sanh? Cái tĩnh ấy là tự tĩnh, ta chẳng
biết cái tĩnh, thì tướng tĩnh nào tự có sanh? Mất cái sở đến cùng cực, thì
không chỉ tướng động bất khả đắc, mà tướng tịnh cũng bất khả đắc vậy.
Hai tướng động
tĩnh đó là chỗ duyên ra của cái căn Nghe, nên là cái cảnh Sở Văn. Hai
tướng chẳng sanh, rõ ràng sáng tỏ, đó cũng là cái căn Năng Văn. Mất cái Sở
Văn thì dễ, mà mất cái Năng Văn thì khó. Như thế tăng dần, đi tới chẳng
ngừng, đã mất cái Sở, lại mất cái Năng, thì cả Sở Văn và Năng Văn đều hết
sạch. Sở Văn (Chỗ Nghe) là thanh trần. Từ chỗ mất cái Sở lần lần cho đến
khi Sở Văn hết, rốt không có gì để nghe nữa, ắt thanh trần tiêu mất vậy.
Năng Văn là cái căn Nghe. Từ vào dòng lần lần cho đến chỗ Năng Văn hết,
rốt không còn cái Nghe ắt căn Nghe tiêu mất. Căn, Trần đều mất, quay về
chỗ dứt tận. Có tướng hết để được, tức là chấp không. Nếu trụ nơi không,
thì tuy được Sở Giác không mà chưa được Năng Giác không vậy. Nay ngoài hết
sạch các Trần, trong hết sạch căn Nghe, như vậy chỗ hết nghe cũng không
trụ bám, thì không chỉ Sở Giác không mà Năng Giác cũng không.
Sở Giác không,
là nhân vô ngã. Năng Giác không, là pháp vô ngã. Chứng Nhân Vô Ngã dễ,
chứng Pháp Vô Ngã khó. Phải lấy cái Chân Không Đại Thừa mà không thì Năng
Giác mới không. Có cái không để không cái Giác, thì cái không chưa được
toàn vẹn. Có cái Giác để giác cái không thì cái Giác chưa được viên dung.
Độc chỉ lấy cái Không mà không cái Giác, cùng quên đi cái Không, lấy cái
Giác mà giác cái Không, cùng quên đi cái Giác mới có thể gọi là Viên Dung
vậy.
Nhưng như vậy
còn chưa cùng cực. Cùng cực thì Không tức là Giác, cầu tướng Không chẳng
thể có. Giác tức là Không, cầu tướng Giác chẳng thể có. Đó là Giác mà
không có giác, Không mà không có không, nên mới là toàn vẹn rốt ráo. Độc
chỉ Giác cùng cực tròn đầy, nên không có tướng giác để đắc, thì cái Sở
Không diệt. Độc chỉ Không cùng cực, tròn đầy, nên không có tướng không để
đắc, thì cái Năng Không cũng diệt. Sở Không diệt, đó là pháp không. Năng
Không diệt, đó là không không. Năng Không, Sở Không đều chẳng sanh, mới
gọi là “Sanh diệt đã diệt” vậy.
Còn tiếng thì
có tiếng sanh, tiếng diệt. Còn cái Nghe thì có cái Nghe sanh, cái Nghe
diệt. Còn cái Giác thì có cái Giác sanh, cái Giác diệt. Còn cái Không, thì
có cái Không sanh, cái Không diệt. Đều là chưa lìa sanh diệt. Nay nhân
không, pháp không, mà lại không không, phàm các thứ thuộc về sanh diệt đều
đã diệt hết. Đó là chẳng sanh, chẳng diệt, một tánh Chân Như hiện bày
trước mắt. Ôi, một tánh Chân Như sở dĩ chẳng hiện tiền, đều là do các pháp
sanh diệt che khuất. Nay một mảy tơ sạch ráo, Chân Thể lộ bày, vốn tự tịch
nhiên, vốn không có diệt, chẳng phải diệt dứt rồi sau mới diệt, nên gọi là
Tịch Diệt.
Cái tánh tịch
diệt này tùy chỗ hiển bày, chẳng cầu lìa tiếng mà tiếng tăm tự tịch diệt,
chẳng cầu lìa nghe mà cái Nghe tự tịch diệt, chẳng cầu lìa giác mà giác tự
tịch diệt, chẳng cầu lìa Không mà Không tự tịch diệt. Tịch diệt hiện tiền,
chỗ nào chẳng Không ư?
Tam Ma Địa
này, tức Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, nên pháp môn Phản Văn, Xoay Lại Cái
Nghe, là cương lĩnh bộ kinh này.
Đã được Tịch
Diệt hiện tiền, phát khởi từ bi diệu dụng, thì há có pháp nào khác để độ
người ư? Đời có người chưa được nhân không thì nói nhân không để độ. Đời
có người chưa được pháp không thì nói pháp không để độ. Đời có người chưa
được không không thì nói không không để độ. Cần yếu là về chỗ Tịch Diệt
Hiện Tiền mà thôi vậy.
Đây là Nhất
Tâm của Phật Phật, chẳng phải riêng gì Đức Quán Âm!
Chứng Đạo Ca
của Ngài Vĩnh Gia nói:
“Tâm là căn, pháp là trần
Cả
hai như dấu vết trên gương
Vết nhơ hết sạch, quang bày hiện
Tâm pháp đều vong, Tánh tức Chân”.
Đại ý là vậy.
|