PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG
MỤC HAI: AN LẬP CÁC THÁNH VỊ
I. CÀN TUỆ ĐỊA.
Kinh: “Anan,
người thiện nam ấy, Dục Ái cạn khô, Căn Cảnh chẳng phối hợp, cái Thân Tâm
hiện tại không còn sanh tiếp nữa. Nắm lấy Tâm rỗng sáng, thuần là Trí Huệ.
Tánh Huệ toàn sáng tỏ sáng mười phương thế giới. Mới có cái Huệ khô khan,
gọi là Càn Huệ Địa.
Thông rằng:
Dục Ái thấm nhuần thành nghiệp, Căn và Cảnh tạo nghiệp nên sanh tử nối
tiếp, mê muội chẳng quay về. Nay lòng Dục khô cạn, Cảnh lui đi, nên cái
Thân Tâm nhân thế chẳng còn sanh tiếp. Ngược dòng toàn nhất ắt giữ lấy cái
Tâm rỗng sáng. Sáu Dụng chẳng hiện hành tức thuần là Trí Huệ. Chẳng dùng
gì nơi Dục Ái thì Huệ chẳng lìa ngoài Tự Tánh, như ánh sáng viên ngọc
không dùng soi chiếu vật mà chỉ tự chiếu cái Thể của nó.
Đây là cái
sáng suốt cho đến chỗ không lập ra cái Sở, thì cái sáng toàn vẹn vậy. Mười
phương cõi nước rỗng sáng thanh tịnh, ví như lưu ly ở trong treo trăng
sáng, nên gọi là “Tỏ sáng”. Đây là Dục Ái cạn khô nên phát Huệ, mới gọi là
Càn Huệ. Lại chỉ mới có cái Huệ khô khan, chưa đến chỗ Diệu Viên, nên là
Sơ Địa. Trong Thập Địa của kinh Đại Phẩm thì Địa đầu tiên gọi là Càn Huệ.
Trong Viên Giáo của Ngài Thiên Thai, trước Thập Tín lập ra Ngũ Phẩm Vị,
gọi là nghĩa Thôi [Chuyển đổi, từ bỏ] cũng giống như Càn Huệ Địa của kinh
Đại Phẩm. Kinh này chưa đến đây mà chỗ lập ra danh vị của Ngài Thiên Thai
đã thầm hợp với Tâm Phật. Chẳng phải là bậc tự thân đến được hội Linh Sơn
thì làm sao có được như thế!
Quan Đại Phu
Lục Tuyên thưa với Tổ Nam Tuyền: “Đệ tử cũng hiểu sơ sơ Phật Pháp”.
Tổ Tuyền bèn
hỏi: “Trong mười hai thời, ông làm gì?”
Đáp: “Chẳng
dính mảy lông”.
Tổ Tuyền nói :
“Còn là kẻ dưới thềm”.
Lại nói: “Ông
há chẳng nghe “Quân Vương có Đạo chẳng thu bầy tôi có Trí” ư?”
Về sau, có nhà
sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí rằng: “Khi “Ngàn núi không mây, ngàn dặm
tuyệt ráng” thì sao?”
Tổ Chí nói:
“Ngọn Phi Thiên Lãnh, phía nào mà chẳng mửa hết ra!”
Quả là cùng Tổ
Nam Tuyền trước sau một vết bánh xe. Thế biết Càn Tuệ Địa cũng là chỗ tạm
nghỉ. Bằng như cùng tận Diệu Giác thì cái ý rốt ráo phải tự riêng khác.
II. THẬP TÍN
Kinh: “Cái tập
khí của ngũ dục mới khô cạn chưa tiếp thông được với dòng nước pháp của
Như Lai. Tức nhân tâm này, ngay giữa lần vào Viên Diệu mở bày, theo Diệu
Giác Viên chân thật, càng phát ra chân diệu. Diệu Tín thường trụ, tất cả
vọng tưởng hết sạch chẳng còn. Trung Đạo thuần Chân, gọi là Tín Tâm Trụ.
Thông rằng:
Ngay giữa lần vào, chẳng nghiêng về Không, chẳng nghiêng về Giả, đó là
Trung Đạo Diệu Quán vậy. Vừa mới vào Quán, Tam Đế viên dung, như ba điểm
của chữ Y ( ) nên gọi là Viên Diệu, đây là chỗ sức người có thể làm. Nơi
Quán đã thành, theo cái Chân phát ra Diệu, khế hợp với lý Viên, nên gọi là
Diệu Viên, đây là chỗ sức người không thể đáp ứng nổi.
Trung Đạo thì
y nơi Chân, Diệu thì có cái chẳng phải do Chân. Từ Chân phát ra Diệu thì
Diệu đó là Chân Diệu. Diệu mà chẳng phải do Chân nên chẳng thể Thường.
Trung Đạo thuần Chân nên Diệu ấy thường trụ. Cái Diệu đã thường trụ thì
hết thảy vọng tưởng không còn đất để chân vậy. Cái gọi là Diệu ấy chỉ
riêng người ấy rõ biết ý thú của Diệu này, không thể dùng lời nói chỉ bày
cho người được. Đức tin này rất chân thật nên gọi là Tín Tâm Trụ.
Tổ Quy Sơn nói
với Ngài Ngưỡng Sơn: “Ông nên riêng tự hồi quang phản chiếu, người khác
không biết chỗ tri giải của ông. Ông thử đem cái kiến giải chân thật trình
lão tăng xem!”
Ngài Ngưỡng
Sơn nói: “Như dạy con tự xem thì vào trong ấy không có viên vị, cũng không
có một vật, một giải nào để trình Hòa Thượng”.
Tổ Quy nói:
“Chỗ không có viên vị là chỗ kiến giải của ông thì chưa rời tâm, cảnh”.
Ngài Ngưỡng
Sơn nói: “Đã không viên vị, chỗ nào có pháp? Lấy không vật làm cảnh”
Tổ Quy nói:
“Vừa rồi, chính ông có kiến giải ấy, phải không?”
Ngài Ngưỡng
đáp: “Dạ, phải”.
Tổ Quy nói:
“Nếu như thế thì đầy đủ tâm, cảnh lẫn pháp, chưa thoát khỏi tâm Ngã-Sở.
Nguyên vì có kiến giải trình tôi. Cho ông rõ được Tín Vị, còn Nhân Vị thì
chưa!”
Về sau, Ngài
Ngưỡng Sơn hỏi Ngài Song Phụng: “Sư đệ, gần đây chỗ thấy thế nào?”
Đáp rằng:
“Theo chỗ thấy của tôi, thật không có một pháp để lưu tình”.
Ngài Ngưỡng
nói: “Kiến giải của ông còn ở trong Cảnh”.
Đáp rằng: “Tôi
chỉ như vậy. Sư huynh thì sao?”
Ngài Ngưỡng
nói: “Ông há chẳng biết “Không có một pháp để lưu tình” ư?”
Tổ Quy Sơn
nghe được, nói: “Một câu của Huệ Tịch e giết hết người trong thiên hạ”.
Xét nghiệm như
vậy, chẻ bửa như vậy mới biết “Theo Tánh Chân Thật, Diệu Viên càng phát ra
Chân Diệu”. Cái chỗ Chân Tín cách nhau xa hẳn với con đường tri giải vậy.
Kinh: “Chân
Tín sáng rõ, hết thảy viên thông. Ba thứ Ấm, Xứ, Giới không thể ngăn ngại.
Như vậy cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai tất cả tập khí bỏ thân,
thọ thân đều hiện ra trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ tưởng
không quên mất, gọi là Niệm Tâm Trụ.
Thông rằng:
Niệm Tâm Trụ ở trong Thập Tín này là Túc Mạng Thông. Trước có nói “Cấm
Giới thành tựu, sáu Căn thanh tịnh không cần Thiên Nhãn, xem thấy mười
phương túc mạng thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm, cũng lần lần ra
khỏi ngăn ngại” Ở đây, cả quá khứ, vị lai trong vô số kiếp đều có thể
tưởng nhớ, ắt viên thông sáng rõ. Đây là trong Chân Tín phát khởi, Tánh
Không đâu chẳng toàn khắp, nên suốt thông không đâu chẳng thấu đến. Đây là
đã chứng Chân nên địa vị “Tương Tự” chẳng thể sánh được. Không chứng Chân
thì Ấm, Xứ, Giới làm ngăn ngại, nên không thể thông suốt. Nay nắm giữ cái
tâm rỗng sáng; căn, cảnh chẳng dính nhau, lâu ngày thì Chân Diệu một mình
bày lộ, siêu vượt lên căn, cảnh. Do đó, tất cả tập khí do Tư Hoặc kết
thành như quá khứ bỏ thân, vị lai thọ thân đều rõ ràng trước mắt, mà không
quên mất.
Cái Niệm Tâm
vốn thuộc sanh diệt, nay lấy Chân Tín mà nắm giữ nó thì niệm cũng an trụ,
tức niệm tức Chân, lấy Chân, Vọng dung nhau thành một. Túc Mạng Thông từ
bậc A La Hán cho đến cõi Phi Phi Tưởng, các ngoại đạo thì biết trước sau
đến tám vạn kiếp. Nhưng vô số kiếp tức là A Tăng Kỳ kiếp thì ngoài Phật
không ai chứng được. Xứ này, người biết quá khứ thì cũng đã có, còn người
biết vị lai thì không nhiều.
Thiền sư Huệ
Trung ở núi Ngưu Đầu nghe thiền sư Uy ra đời bèn đến thăm.
Thiền sư Uy
vừa thấy, nói rằng: “Sơn chủ đến vậy”.
Ngài Huệ Trung
cảm ngộ, ở lại hầu hạ.
Sau này, Huệ
Trung xin đi các nơi tham học.
Một hôm, thiền
sư Uy thấy cây Lăng Tiêu nơi Viện Cụ Giới gặp mùa Hạ nên héo úa. Có người
muốn chặt đi, Ngài bảo: “Đừng chặt, khi Huệ Trung về, nó sẽ sống lại!”
Sau, Ngài Huệ
Trung trở về, quả như lời nói, bèn giao Sơn Môn cho Huệ Trung.
Lại như Ngài
Linh Thọ, suốt hai mươi năm không có Thủ Tòa. Ngài thường nói: “Thủ Tòa
của ta đã sanh rồi! Thủ Tòa của ta đang chăn trâu! Thủ Tòa của ta đang
hành cước !”
Một hôm, bảo
đánh chuông, ra ngoài tam môn tiếp đón vị Thủ Tòa. Đại chúng ra đón thì
quả là Ngài Vân Môn đến, bèn mời thẳng vào liêu Thủ Tòa.
Mở gói hành lý
xong, trình thơ cho Tổ Linh Thọ, viết rằng: “Đây là vị Thủ Tòa trong chùa,
con mắt của trời, người”.
Ngài bèn mời
Tổ Vân Môn khai đường.
Hai vị tôn túc
trên, có thể nói là đắc Niệm Tâm Trụ.
Kinh: “Diệu
Viên thuần Chân, Chân Tinh phát hóa ra, các tập khí vô thủy thông thành
một Tinh Minh. Chỉ nhân Tinh Minh ấy tiến đến chỗ Chân Tịnh, gọi là Tinh
Tiến Tâm.
Thông rằng: Từ
Chân Tín lần vào nên có thể tưởng nhớ. Từ Thuần Chân lần vào nên được cái
Tinh Minh. Chân hay chuyển hóa cái Vọng thì Chân Tinh phát hóa là không
thể nghĩ bàn, nên tập khí từ vô thủy hóa thành Tinh Minh. Ở trước nói “Tập
khí hiện tiền”, đến đây hóa thành Tri Giác Vô Thượng vậy. Tịnh mà đối với
nhiễm thì chưa là Chân Tịnh. Chẳng dơ, chẳng sạch mới là Chân Tịnh. Nhân
dùng cái Tinh Minh này tiến đến Chân Tịnh, ấy là muốn dẹp bằng dấu vết của
cái “Thông thành một Tinh Minh” mà đều chuyển hóa hết vậy. Sự chuyển hóa
này chẳng thể làm được thì sự Tiến cũng chẳng Tinh vậy.
Nhà sư hỏi Tổ
Hoàng Bá: “Thế nào là Tinh Tiến?”
Tổ Bá nói:
“Thân tâm chẳng khởi, đó là Tinh Tiến mạnh mẽ đệ nhất. Vừa khởi Tâm hướng
ngoài tìm cầu thì gọi là “Vua Ca Lợi ưa đi săn bắn”. Tâm chẳng đi rong ở
ngoài tức là “Tiên nhơn nhẫn nhục”. Thân tâm đều không, đó là Phật đạo”.
Kinh Pháp Cú
nói: “Nếu khởi tâm Tinh Tiến, đó là vọng chứ chẳng phải Tinh Tiến. Nếu Tâm
thường chẳng vọng, đó là Chân Tinh Tiến”.
Ngài Thiên
Thai Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa ở núi Nam Nhạc đến chỗ phẩm Dược Vương:
“Đó là Chân Tinh Tiến, đó gọi là Chân Pháp cúng dường Như Lai”, ngay đó
ngộ nhập Pháp Hoa Tam Muội, được gọi là Toàn Đà La Ni, thấy Pháp Hội Linh
Sơn rõ ràng chưa tan.
Đây có thể nói
là tập khí vô thủy thông thành một Tinh Minh vậy. Hẳn là tiến đến chỗ thân
tâm đều Không, mới gọi là Chân Tịnh. Lìa ngoài Chân Tịnh mà riêng cầu
chuyện tinh tiến đó là vọng vậy.
Kinh: “Tâm
Tinh hiện tiền, thuần dùng Trí Huệ, gọi là Huệ Tâm Trụ.
Thông rằng:
Càn Huệ Địa ở trước sao không gọi là Huệ Tâm Trụ? Trước nói: “Nắm giữ Tâm
rỗng sáng”, là còn có nắm giữ vậy. Đây nói: “Tâm Tinh hiện tiền”, tức là
cái nắm giữ đã chuyển hóa rồi vậy. Trước nói: “Thuần là Trí Huệ”, tức còn
mang lấy cái “Là”. Đây nói: “Thuần dùng Trí Huệ”, tức đâu đâu cũng là cái
dùng của Trí Huệ, đều mất cái Là vậy.
Chỗ này nếu
chẳng phải Tinh Minh rõ suốt, linh quang hiển hiện thì chưa dễ nói ra
được. Ban đầu thì nói có cái Trí Huệ ấy. Đến chỗ thuần là Trí Huệ thì có
mà an trụ rồi, lại tiến thêm một bước.
Trong thiền
môn thuần dùng Trí Huệ, duy chỉ có một tay Lâm Tế thật khó gặp một người
thứ hai. Ngài thường nói: “Sơn tăng chốn này đoán định ba thứ Căn Khí: như
hàng căn khí trung hạ đến, ta bèn đoạt Cảnh nó mà chẳng trừ Pháp nó. Nếu
là hàng căn khí trung thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp đều đoạt. Như có người
căn khí thượng thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp, Người đều đoạt. Như có người
kiến giải xuất cách đến thì sơn tăng chốn đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng
cần Căn Khí. Các Đại Đức, đến trong ấy mà chỗ nỗ lực của học nhơn chẳng
thông rõ phong đại, lửa đá, chớp xẹt tức qua liền vậy. Người học mà con
mắt định nếu động, liền mất giao thiệp. Tâm nghĩ tức sai, động niệm tức
trái! Có người nào rõ biết, chẳng lìa trước mắt. Các Đại Đức, các ông mang
bát phẩn, vác con chạy nhà người, cầu Phật, cầu Pháp tức nay cùng cái gì
chạy tìm thế? Các ông chẳng biết nó chăng? Sống sờ sờ ra đó, chỉ cái chẳng
bám níu. Ôm lấy chẳng tụ, vứt đi chẳng tan. Tìm cầu liền mất xa, không cầu
là trước mắt”.
Linh âm phó
chúc bên tai, như chẳng có tin uổng nhọc trăm năm lần lữa. Như tin được
“Sống sờ sờ ra đó” thì với Huệ Tâm Trụ đâu có xa!
Kinh: “Nắm giữ
Trí sáng, lặng trong cùng khắp, lặng lẽ nhiệm mầu thường lắng đọng, gọi là
Định Tâm Trụ.
Thông rằng: Đã
thuần dùng Trí Huệ thì Huệ Tâm thường trụ, sao lại còn dùng sự nắm giữ?
Nói nắm giữ ý là quên cơ bỏ trí. Trí Huệ thường dùng, dùng tức ứng vật,
bèn ở trong thể lặng trong chẳng được Tổng Trì. Nay gom lại ánh sáng rực
rỡ, giữ mà chẳng dùng. Như Tổ Lâm Tế nói: “Kiếm xuy mao dùng xong cần mài
ngay!”, tức là trong Tánh Diệu Trạm được Tổng Trì vậy.
Tổng Trì tánh
chẳng động thì thường lắng đọng. Phàm, tánh lặng trong, bản nhiên thanh
tịnh, toàn khắp pháp giới, vốn không động lay, lặng mà chẳng phải lặng,
chẳng đồng với tĩnh-chết, nước đọng, nên gọi là Tịch Diệu.
Cái Định Tâm
Trụ này là “Khi Định thì Huệ ở tại Định”, hoàn toàn chẳng liên can gì với
cái thuyết “Trước Định sau Huệ, trước Huệ sau Định” do sức người tu trì.
Ngài Trí Hoàng
ban đầu ra mắt Ngũ Tổ, sau đó ở trong am ngồi thiền suốt hai mươi năm.
Ngài Huyền
Sách, đệ tử của Lục Tổ, đến thăm, hỏi rằng: “Ông ở đây làm gì vậy?”
Đáp : “Nhập
định”.
Ngài Sách nói:
“Ông nói nhập định, là có tâm nhập hay không có tâm nhập? Nếu không tâm
nhập thì tất cả vô tình cỏ cây, ngói đá cũng là đắc định. Nếu có tâm nhập
thì tất cả hữu tình các loài hàm thức cũng đều đắc định”.
Ngài Hoàng
nói: “Chính khi tôi nhập định chẳng thấy có tâm “Có-Không”.
Huyền Sách
nói: “Chẳng thấy có cái tâm Có-Không, đó là thường định, nào có xuất nhập!
Nếu có xuất, có nhập ắt chẳng phải là Đại Định”.
Trí Hoàng
không đáp được.
Giây lâu hỏi
rằng: “Thầy ông là ai?”
Ngài Sách đáp:
“Thầy tôi là Lục Tổ”.
Trí Hoàng hỏi:
“Ngài Lục Tổ lấy gì làm thiền định?”
Huyền Sách
đáp: “Thầy tôi nói rằng: “Cái Diệu Trạm Viên Tịch, thể dụng như như. Năm
Ấm vốn Không, sáu Trần chẳng có. Chẳng xuất chẳng nhập, chẳng định chẳng
loạn. Tánh thiền không trụ, lìa trụ thiền tịch. Tánh thiền vô sanh, lìa
sanh thiền tưởng. Tâm như hư không, cũng không có cái lượng hư không””.
Ngài Trí Hoàng
nghe nói vậy, bèn đến ra mắt Lục Tổ, kể lại hết sự việc.
Lục Tổ nói:
“Quả đúng như vậy. Ông chỉ Tâm như hư không, chẳng giữ không kiến, ứng
dụng không ngại, động tĩnh vô tâm, tình phàm Thánh mất, Năng Sở đều tiêu.
Tánh Tướng như như, không lúc nào mà chẳng là Định”.
Trí Hoàng ngay
đó đại ngộ, cái tâm sở đắc trong hai mươi năm trọn chẳng có ảnh hưởng gì.
Đêm ấy ở Hà Bắc [Chỗ ở của Ngài Trí Hoàng], quan dân nghe trên không có
tiếng nói “Hoàng Thiền Sư ngày nay đắc Đạo!”
Ngài trở về Hà
Bắc khai hóa cho bốn chúng.
Lại có vị tăng
hỏi thiền sư Hiển Đoan: “Lắng đọng lặng trong thì như thế nào?”
Tổ Đoan nói:
“Chẳng phải là chỗ an thân lập mạng của thầy Xà Lê”.
Hỏi: “Như sao
là chỗ an thân lập mạng của học nhân này?”
Đáp : “Mây có
thế ra núi, nuớc không tiếng vào khe”.
Ngay đây hiểu
được thì hằng vắng lặng mà chẳng lìa hằng tỏ soi. Đủ biết Định Huệ là pháp
môn không hai vậy.
Kinh: “Ánh
sáng của Định phát ra vào sâu tánh sáng, chỉ có tiến chớ không lui, gọi là
Bất Thối Tâm.
Thông rằng: Do
Huệ vào Định, Định ấy chân chánh. Do Định phát sáng, cái sáng đó thâm sâu.
Cái sáng không do định lực sanh thì nông cạn, không có gốc nên chẳng thể
vào sâu. Nay Định Huệ giúp nhau nên tánh sáng càng thấu suốt, có chỗ nhỏ
nhiệm nào mà chẳng soi, có chỗ mật nhiệm nào mà chẳng tột, cho nên có thể
tìm đường hướng thượng. Tiến tới không thôi, chỉ có tiến không có lui, đủ
để thấy ánh sáng ấy là sâu xa vậy. Nếu có chút chẳng sáng thì phải có ý
thối lui. Địa vị chẳng thối này do Vô Minh từ vô thủy bị đào thải gần hết,
không thể bị chao động lầm lạc, cho nên chẳng thể lui sụt vậy.
Ngài Càn Phong
thượng đường rằng: “Pháp Thân có ba loại bệnh, hai loại ánh sáng. Mỗi mỗi
cần phải thấy suốt mới hiểu việc về nhà ngồi yên. Cần biết lại còn có
hướng thượng nhất khiếu nữa”.
Ngài Vân Môn
bước ra hỏi: “Người trong am cớ sao không biết chuyện ngoài am?”
Tổ Phong ha hả
cười lớn.
Vân Môn thưa :
“Đó cũng là chỗ nghi của kẻ học nhơn này.”
Tổ Phong nói :
“Ông là cái tâm hạnh nào đó?”
Vân Môn nói :
“Cũng xin Hòa Thượng giải quyết cho”.
Tổ Phong nói :
“Ngay đây cần cái gì thêm nữa mới hiểu chỗ ngồi yên?”
Ngài Vân Môn
cất tiếng: “Dạ, dạ”.
Ngài Thiên
Đồng nêu ra rằng: “Ngồi kẹt, bệnh hết thuốc chữa. Dùng kẹt, ánh sáng chẳng
thấu thoát. Dầu cho tung hoành ngang dọc, toàn chuyển nhất-cơ cũng là chưa
biết còn một cái Hướng thượng nhất khiếu. Còn được cái địa vị ngồi yên đấy
chăng? Rốt cùng, sương trăng tối, mặc nhiên rớt đầu khe”.
Vân Môn thật
là người trong cửa, còn chẳng biết việc ngoài cửa bởi vì đắc “Địa vị ngồi
yên”. Nếu chưa đến chỗ phần hạn của Vân Môn thì phải hướng về câu nói của
Tổ Càn Phong nhai nhấm một phen mới rõ đường mạch chân thật của Bất Thối
Tâm.
Kinh: “Tâm an
nhiên tiến tới, giữ gìn chẳng mất, giao tiếp với khí phần của mười phương
Như Lai, gọi là Hộ Pháp Tâm.
Thông rằng:
Định Huệ dung nhau vào bất sanh diệt. Tâm mà không cái tâm, tiến mà không
chỗ tiến. Một niệm tương ưng, không có tạo tác nên nói là an nhiên. Chưa
đến chỗ an thì còn mượn sự nỗ lực gìn giữ. Đã đến chỗ an thì gìn giữ chẳng
mất vậy.
Nói rằng chẳng
mất là chẳng mất vật gì? Giữ gìn là giữ gìn việc gì? Đây là mạng mạch của
Chư Phật, xuyên suốt mười phương. Nay ta đã được Tổng Trì, ắt mạng mạch
của Chư Phật là ở ta, tinh thần có thể thông nhau, khí phần tự nhiên giao
tiếp. Khí phần của ta giao tiếp với Phật, đó là ta hộ trì Chánh Pháp của
Như Lai. Khí phần của Phật giao tiếp với ta, đó là Phật hộ trì Chánh Pháp
của ta. Đến chỗ này thì Tư Hoặc về ba cõi hết sạch, ấy là Chánh vị của sáu
Căn thanh tịnh vậy. So với Đại Phẩm là tương đương với Phật Địa, nên nói
là “Chỗ hộ niệm của Chư Phật”.
Xưa, Đức Lục
Tổ giặt áo trên tảng đá bỗng có một nhà sư đến lễ bái, bạch rằng : “Tên là
Phương Biện, người xứ Tây Thục, mới rồi ở Nam Ấn mộng thấy Tổ Sư Đạt Ma
phú chúc rằng “Phương Biện hãy qua ngay Trung Thổ, ta truyền Chánh Pháp
Nhãn Tạng từ Đại Ca Diếp và y Tăng-Già-Lê nay đã đến đời Thứ Sáu ở Thiều
Châu Tào Khê, ông đến đó mà chiêm lễ”. Phương Biện này từ xa đến mong được
thấy y bát của Tổ Sư truyền lại”.
Lục Tổ bèn đưa
cho xem.
Đây là một
chứng nghiệm về khí phần giao tiếp.
Ngài Phong
Huyệt ban đầu đến Tổ Hoàng Long.
Tổ Long hỏi :
“Sừng đá xuyên đường mây, ý nghĩa ấy thế nào?”
Ngài Huyệt
đáp: “Ráng hồng lồng tượng ngọc. Ngăn che chiếu đầu sông”.
Tổ Long nói :
“Theo nhau đến vậy”.
Ngài Huyệt
nói: “Hòa Thượng nói nho nhỏ!”
Ngài Đầu Tử
tụng rằng:
“Chỗ tối châu ngời vô giá treo
Đêm khuya định nắm mộc nhân [Người gỗ] xeo
Ai
ngờ lại bị trâu bùn thấy
Nuốt trọn ráng hồng sóng biếc theo”.
Nhà nghề gặp
nhau thì chưa từng chẳng lấy sự hộ trì trân trọng mà khuyên gắng. Chỗ này
cũng có thể thấy tâm hộ pháp của chư vị vậy.
Kinh: “Giữ gìn
tâm giác sáng có thể dùng diệu lực xoay Từ Quang của Phật lại nơi mình và
hướng về Phật mà an trụ, như hai tấm gương ánh sáng đối nhau, trong ấy các
bóng nhiệm mầu trùng trùng tương nhập, gọi là Hồi Hướng Tâm.
Thông rằng:
Xoay Từ Quang của Phật lại là xoay Quả mà hướng về Nhân vậy. Hướng về Phật
mà an trụ là xoay Nhân mà hướng về Quả vậy. Quả, Nhân một niệm khế hợp thì
ánh sáng giao nhau, nhập vào nhau, chỗ nhiệm mầu này khó dùng lời lẽ tỏ
bày. Chỉ có cái diệu lực chứ chẳng liên quan đến công phu. Ánh sáng nhân
tâm Từ mà hiển, chẳng cần phương tiện. Chỗ trụ đồng với Phật, nên không
còn thứ bậc. Bổn Giác và Thủy Giác hai cái Giác dung hòa lẫn nhau, ví như
ánh sáng đối nhau trong hai tấm gương. Có cái diệu lực này mới có diệu ảnh
này. Giữ gìn tâm Giác sáng, không trở lại cái biết hư vọng thì cái Minh
này là Diệu Minh vậy. Diệu Minh minh diệu, một tức tất cả, tất cả tức một,
diệu ảnh trùng trùng dung nhập vào nhau. Nói là diệu ảnh thì chẳng phải
ảnh của tiền trần hay pháp trần. Ở đây, ảnh trộn lẫn trong ánh sáng, ánh
sáng cũng hòa lẫn nơi ảnh, tương tự Một Trí Đại Viên Cảnh vậy.
Xoay Trí Phật
làm trí mình, xoay trí mình về trí Phật, tâm tâm chế nhau, gần như đồng
với Phật há chỉ có khí phần giao tiếp thôi ư!
Tổ Quy Sơn một
hôm bảo các học trò trình ra chỗ hiểu biết.
Tổ nói: “Ngoài
Thanh-Sắc, cùng ta thấy nhau”.
Ngài Ngưỡng
Sơn qua ba lần trình lời đều nói: “Như hai mặt kính soi nhau, trong đó
không có hình tượng”.
Tổ Sơn nói:
“Lời này chân chánh nhưng ta phải mà ông chẳng phải, vì đã sớm lập hình
tượng rồi”.
Ngưỡng Sơn lại
hỏi Tổ: “Con tinh thần tối tăm, đối đáp vụng về. Chưa rõ Hòa Thượng khi ở
với Sư Ông Bách Trượng trình lời ra sao?”
Tổ Quy Sơn
nói: “Khi ở với Tiên Sư Bách Trượng, ta trình lời như vầy : “Như trăm
nghìn gương sáng soi hình tượng, bóng sáng chiếu nhau, trần trần, sát sát,
mỗi mỗi chẳng mượn nhau””.
Ngài Ngưỡng
Sơn liền lễ tạ.
Hai vị tôn túc
khéo nói Lăng Nghiêm. Một đằng như hai tấm gương ánh sáng đối nhau. Một
đằng như diệu ảnh trùng trùng tương nhập. Hợp lại mà nói, ý nghĩa mới đầy
đủ.
Tổ Tuyết Phong
thượng đường: “Cần rõ việc này, như gương xưa trên đài, (người) Hồ đến Hồ
hiện, Hán đến Hán hiện”.
Ngài Huyền Sa
ra khỏi chúng, nói: “Bổng gặp gương sáng đến thì thế nào?”
Tổ Phong nói:
“Hồ, Hán đều ẩn”.
Ngài Huyền Sa
nói: “Gót chân lão Hòa Thượng còn chưa chấm đất!”
Biết được vì
sao Ngài Huyền Sa không chịu lời Tổ Tuyết Phong thì biết ngay chỗ Ngài
Ngưỡng Sơn lễ tạ Tổ Quy Sơn vậy.
Kinh: “Tâm
quang thầm xoay lại, được chỗ thường lắng đọng Vô Thượng Diệu Tịnh của Chư
Phật, an trụ vô vi, được không bỏ mất gọi là Giới Tâm Trụ.
Thông rằng:
Tâm quang thầm xoay lại, hướng về Phật mà an trụ được thường lắng đọng
tịch diệu của Chư Phật, đối cảnh mà chẳng động. Được chỗ Vô Thượng Diệu
Tịnh của Phật thì giao thiệp với trần mà chẳng nhiễm. Đây là Tự Tánh Thiên
Chân Phật, vô vi chân thật vậy. An trụ trong đó thì không tạo không làm,
không chứng không đắc. Phàm có được ắt có mất, không được thì không mất.
Có mất thì cần dùng Giới. Không mất thì đâu cần dùng Giới. Tự Tánh vô vi,
tức đó là Giới. Giới mà không có chỗ Giới, đó là Chân Giới. Giới này tại
tâm quang, chỗ âm thầm xoay lại mà gọi là mật vì không thể lấy ý thức đo
lường, há có thể nói đồng với Giới Luật tầm thường sao? Tức Giới tức Định,
tức Giới tức Huệ, chỉ một thể mà khác danh thôi.
Xưa, Ngài
Thạch Đầu ban đầu đến Tổ Thanh Nguyên tham lễ.
Tổ Nguyên nói
: “Ông chốn nào đến?”
Đáp: “Tào
Khê”.
Tổ Nguyên nói:
“Đem được cái gì đến vậy?”
Đáp : “Chưa
đến Tào Khê cũng chẳng mất”.
Tổ Nguyên nói:
“Nếu như thế, đến Tào Khê làm gì?”
Đáp: “Nếu
không đến Tào Khê, sao biết là chẳng mất”.
Ngài Thạch Đầu
lại nói: “Đại Sư ở Tào Khê có biết Hòa Thượng không?”
Tổ Nguyên nói
: “Nay ông có biết tôi chăng?”
Đáp : “Biết
thì lại làm sao biết được?”
Tổ Nguyên nói:
“Loài có sừng tuy nhiều mà một con kỳ lân là đủ rồi vậy”.
Về sau, Tổ
Dược Sơn một hôm đang ngồi trên tảng đá, Ngài Thạch Đầu hỏi : “Ở trong ấy
làm gì thế?”
Ngài Sơn nói :
“Một vật cũng chẳng làm”.
Ngài Đầu nói :
“Như thế là ngồi chơi (nhàn tọa) vậy”.
Ngài Sơn nói :
“Nếu ngồi chơi tức là làm”.
Ngài Đầu :
“Ông nói chẳng làm là chẳng làm cái gì?”
Ngài Sơn nói :
“Ngàn Thánh cũng chẳng biết”.
Ngài Thạch Đầu
nhân đó dùng kệ ca ngợi rằng :
“Xưa nay cùng ở chẳng hay danh
Nhậm vận cùng nhau chỉ thế hành
Từ
cổ Thánh Hiền còn chẳng rõ
Phàm phu há biết, nhọc lăng xăng”.
Ngài Đơn Hà
tụng rằng :
“Huyền vi cùng tận vốn an nhiên
Nếu cho y rộng tám vạn thiên
Trăng in sông lặng, nào tăm cá
Đâu mệt ông câu thả lưới nôm”.
Xem chỗ nói
“Chẳng làm” của Ngài Dược Sơn, chỗ nói “Chẳng mất” của Ngài Thạch Đầu thì
rốt ráo chẳng thể đo lường hiểu biết, ấy khá mật nhiệm vậy. Có thể qua cửa
ải này bèn được chỗ thường lắng đọng vô thượng diệu tịnh của Phật, có thể
gọi là Giới Tâm Trụ.
Kinh: “Trụ
giới tự tại có thể dạo khắp mười phương, đến đâu tùy nguyện, gọi là Nguyện
Tâm Trụ.
Thông rằng:
Trụ Giới tự tại thì quên luôn cái gì là Giới. Thường lắng đọng nơi Chân
Tịnh, thích gì mà chẳng được, nên có thể đi dạo khắp mười phương, đến đâu
tùy nguyện. Trong Viên Giáo của Thiên Thai Tông, nếu chưa đoạn Vô Minh thì
sanh sang cõi Đồng cư, gọi là Nguyện Sanh, quả là phù hợp với đoạn kinh
này. Thiên Thai Tông lại nói hàng Thập Tín ra khỏi Giả Quán mà làm lợi ích
cho chúng sanh. Đoạn này nói “Dạo khắp mười phương” thì cũng hợp với nghĩa
ấy.
Thiền sư Thủ
Sơn Niệm vào giờ Ngọ, ngày mồng Bốn, tháng Chạp năm Thứ Ba niên hiệu Thuần
Hóa, thượng đường nói bài kệ :
“Năm nay sáu mươi bảy
Già bệnh tùy duyên qua tháng ngày
Năm nay ghi nhớ việc năm sau
Năm sau nhớ rõ sáng hôm nay”.
Đến ngày tháng
của năm sau không sai chạy, thượng đường từ biệt đại chúng, rồi nói bài
kệ:
“Thế giới bạch ngân vàng sắc thân
Tình với vô tình cùng Nhất Chân
Sáng, tối hết rồi đều chẳng chiếu
Mặt trời sau Ngọ trọn bày thân”.
Rồi an tọa mà
tịch.
Đệ tử của Ngài
Phần Dương Chiểu có tình cố cựu với Doãn Lý Hầu ở phủ Long Đức. Hầu sai
người đến chùa Thừa Thiên mời Ngài. Sứ giả ba phen mời không được, bị phạt
nên muốn được Ngài cùng đi.
Ngài cười
rằng: “Cái nghiệp của lão tăng là chẳng ra khỏi chùa ba mươi năm nay rồi.
Nếu đi thì phải có trước sau, cần gì cùng một lúc!”
Rồi bảo thiết
trai, chuẩn bị hành lý và bảo đại chúng: “Lão tăng đi đây, người nào theo
được?”
Một vị tăng
bước ra thưa: “Con theo được”.
Ngài bảo: “Mỗi
ngày ông đi mấy dặm?”
Vị tăng đáp:
“Năm mươi dặm”.
Ngài nói :
“Ông theo ta chẳng được!”
Lại có một vị
tăng bước ra, nói: “Con theo được”.
Ngài bảo: “Mỗi
ngày ông đi mấy dặm?”
Vị tăng đáp:
“Bảy mươi dặm”.
Ngài nói: “Ông
cũng theo ta chẳng được”.
Vị thị giả
bước ra nói: “Con theo được, Hòa Thượng đến đâu con đến đó”.
Ngài bảo: “Ông
theo được đó”.
Nói xong Ngài
bảo với sứ giả rằng: “Tôi đi trước nghe”. Rồi vui vẻ ngồi tịch. Vị thị giả
liền đứng mà tịch.
Đây chẳng phải
là “Đến đâu tùy nguyện” ư? Chẳng phải đã chứng Thập Tín thì chưa dễ đến
chỗ này. Tin là chân thật không hư vọng, vì tương ưng với Thật Tế Lý Địa
vậy. Nên có câu: “Chỉ một sự thật này, dư hai ắt chẳng Chân”. Ban đầu ắt
Dục Ái cạn khô, giữ tâm rỗng sáng rồi sau mới có thể vào Chân Tánh Diệu
Viên. Chân Tánh phát hóa, tập khí nhỏ nhiệm đều dung thông. Lại nhờ Định
Huệ mà giữ gìn, lấy sự Hộ Trì mà tiến tới; xoay Từ Quang của Phật, được
Tịnh Giới của Phật. Từ đó, sanh vào nhà Như Lai, mà chỗ đi tùy nguyện vậy.
Thập Tín chẳng phải là Thập Trụ nhưng tại sao đều gọi là Trụ? Bồ Tát Vô
Trước lập ra mười tám địa vị, phán định địa vị trước sau của kinh Kim
Cương, do đó bậc Sơ Trụ cũng được gọi là Trụ, vì y vào Trí Vô Trụ, vĩnh
viễn chẳng bị thối chuyển, nên được cái tên Trụ. |