PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG
MỤC HAI: AN LẬP CÁC THÁNH VỊ
V. THẬP HỒI HƯỚNG
Kinh: “Anan,
người thiện nam ấy đầy đủ thần thông, thành tựu Phật sự rồi, thuần khiết
tinh chân, xa các lỗi nạn. Hiện độ chúng sanh mà diệt dứt các tướng hóa
độ. Quày tâm vô vi hướng lối Niết Bàn, gọi là Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng
Sanh, Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng.
Thông rằng:
Mười Hạnh đã đủ, hiện trần, hiện sát, Một là Vô Lượng, Vô Lượng là Một, đó
là Thần Thông. Hay thành tựu quy tắc của mười phương Chư Phật, đó là Phật
sự. Thuần khiết tinh chân chỉ một cái Chân Thật duy nhất, trong sạch không
phiền não, xa lìa các lỗi nạn ngăn ngại, có thể nói là người tự độ vậy. Cứ
thế mà một đường nhắm hướng Vô Vi thì gọi là người rõ xong, cho nên đảm
đương việc độ thoát chúng sanh. Giả sử khi độ chúng sanh mà hình tướng hóa
độ chưa diệt tức là bám mắc vào Ngã, Nhân, Chúng Sanh, Thọ Giả. Cho nên
phải diệt dứt những sự làm vẻ có cứu độ, quày cái tâm vô vi của ta, hướng
về hết thảy chúng sanh kia mà cùng bước vào con đường Niết Bàn Tịch Diệt.
Tự chứng Niết Bàn, Tánh vốn Vô Vi. Hiện dẫn dắt chúng sanh hướng bước chốn
Niết Bàn cũng chỉ là Vô Vi. Nên suốt ngày độ thoát chúng sanh mà thật
không có tướng độ nào để đắc. Nếu thấy có người để cứu độ liền dính lấm
hữu vi, trái ngược với đường Niết Bàn Tịch Diệt, chẳng trở về được cội gốc
quyết định chẳng sanh chẳng diệt vậy. Nên diệt dứt các tướng hóa độ tức
gọi là Ly Chúng Sanh Tướng Hồi Hướng. Tướng độ thoát còn không có, tướng
chúng sanh nào đâu có được?
Có nhà sư hỏi
Tổ Hoàng Bá: “Phật có độ chúng sanh chăng?”
Tổ Bá nói:
“Thật không có chúng sanh để Như Lai độ. Ngã chẳng thể đắc, phi ngã nào
đâu để đắc? Phật, chúng sanh đều chẳng thể đắc”.
Nhà sư hỏi:
“Hiện có ba mươi hai tướng cho đến việc độ chúng sanh, sao nói được là
không?”
Tổ Bá nói:
“Phàm hễ có tướng đều là hư vọng. Như thấy các tướng chẳng phải tướng liền
thấy Như Lai”.
Ông Sơn Nhân
tên Sử hỏi thiền sư Khuê Phong: “Các kinh đều nói độ thoát chúng sanh, mà
chúng sanh tức phi chúng sanh thì cớ sao phải nhọc nhằn độ thoát?”
Tổ Phong đáp:
“Chúng sanh nếu là thật có thì độ thoát hẳn là nhọc nhằn. Còn đã tự nói
“Tức phi chúng sanh” thì nào chẳng khác độ mà không độ”.
Hợp hai chuyện
trên là đủ để chú giải đoạn kinh này.
Lại như Nam
Nhạc Huệ Tư đại thiền sư khi nghe Ngài Chí Công sai người đến bảo rằng:
“Sao chẳng xuống núi giáo hóa chúng sanh mà cứ một mực làm kẻ “Đưa mắt
trông mây” là sao?”
Ngài nói: “Ba
đời Chư Phật bị một cái miệng của ta nuốt ráo thì còn chỗ nào có chúng
sanh để độ nữa?”
Ngài Bảo Giác
Nhất tụng rằng:
“Mắt nhìn hơi khói, nằm mây trắng
Kể
gì dưới núi có càn khôn
Từ
đâu lại có chúng sanh độ?
Một miệng, ba đời Phật, nuốt luôn”.
Ni sư Nhàn Lâm
An tụng rằng:
“Một miệng nuốt luôn Phật, chúng sanh
Mảy may chẳng lập, mới rành rành
Đầu cây (gậy) khêu dậy vầng nhật nguyệt
Khua động tam thiên núi biển mờ”.
Như đại sư Huệ
Tư [Sơ Tổ Thiên Thai tông] thật đắc Ly Chúng sanh Tướng Hồi Hướng vậy. Há
chỉ chứng địa vị Thiết Luân mà thôi ư?
Kinh: “Hoại
diệt cái có thể hoại diệt, xa lìa các sự lìa, gọi là Bất Hoại Hồi Hướng.
Thông rằng:
Hoại diệt cái có thể hoại diệt tức là lìa chúng sanh tướng. Xa lìa các sự
lìa tức là chỗ lìa tướng cũng lìa bỏ. Hoại diệt các tướng là Sở Không, xa
lìa sự lìa là Năng Không. Năng Sở đều Không mà Bản Giác chẳng hoại, nên
gọi là Bất Hoại Hồi Hướng. Nói là Bất Hoại để mà phân biệt với cái Ngoan
Không của Nhị Thừa và Đoạn Kiến của ngoại đạo. Tuy hoại diệt các tướng mà
cái Bất Hoại vẫn thường tồn, thế mới là Bất Hoại Hồi Hướng vậy.
Chân thiền sư
hỏi Bổn Tịnh thiền sư: “Đạo đã vô tâm thì Phật có tâm chăng? Phật và Đạo
là một hay là hai?”
Tổ Tịnh nói:
“Chẳng một, chẳng hai”.
Thiền sư Chân
hỏi: “Phật độ chúng sanh vì là có tâm. Đạo chẳng độ chúng sanh vì là vô
tâm. Một độ, một chẳng độ sao lại không hai?”
Đáp rằng: “Nếu
nói Phật độ chúng sanh, Đạo thì không độ: đó là Đại Đức vọng sanh nhị
kiến. Như sơn tăng thì chẳng thế. Phật là hư danh, Đạo cũng vọng lập, cả
hai đều không thực, toàn là giả danh. Trọn trong một cái giả, làm sao phân
hai?”
Hỏi: “Phật và
Đạo nếu là giả danh thế ngay khi lập danh đó là ai lập? Nếu có người lập
sao lại nói không?”
Đáp: “Phật và
Đạo nhân tâm mà lập. Suy cho cùng cái tâm lập ra này thì cũng là không. Cả
hai đều chẳng thực, biết như mộng huyễn liền tỏ ngộ cái Bổn Không. Gượng
lập hai danh Phật, Đạo đó là kiến giải hàng Nhị thừa”.
Nhơn đó nói
bài kệ Vô Tu Vô Tác rằng:
“Thấy Đạo mới tu Đạo
Không thấy lấy gì tu?
Tánh Đạo như hư không
Hư
không chỗ nào tu?
Xem khắp kẻ tu hành
Bươi lửa tìm bọt nước
Hãy xem hình gỗ múa
Dây đứt cả thảy ngừng”.
Hình gỗ múa
rối có thể hoại diệt, nhưng người làm cho hình gỗ múa rối chẳng thể hoại
diệt, nên khi tướng chúng sanh hoại thì đó là hư không chẳng hoại, chứ
chẳng phải lìa ngoài cái tướng bị hoại diệt mà riêng có cái gọi là chẳng
hoại. Ngay hoại là chẳng hoại, nên gọi là Bất Hoại Hồi Hướng.
Kinh: “Bản
Giác lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác của Phật, gọi là Đẳng
Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.
Thông rằng:
Hành tướng có thể hoại diệt, nhưng cái Biết sự hoại diệt thì chẳng hoại.
Cái lìa có thể lìa, nhưng cái Biết sự lìa thì chẳng có lìa. Đây là Bổn
Giác vậy. Lặng trong hợp vào lặng trong, Thức tức là Trí, cũng có thể gọi
là lặng trong như nhiên.
Chỗ này nói
“Bản Giác lặng trong như nhiên” thì chẳng phải là chỗ không dao động của
Thức lặng yên vậy. Chỉ vì cái Bổn Giác này chẳng phải là Thức, nên có thể
ngang bằng cái Giác của Phật. Tình phàm Thánh giải tất cả tiêu tan, chỉ
còn một cái Chân thật, nên có thể bằng ngang với tất cả Chư Phật. Tuy
ngang với cái Giác của tất cả Chư Phật, nhưng không phải là Đẳng Giác vì
còn sự hồi hướng trong đó, còn có sự tiến đến ở trong đó, nên gọi là Đẳng
Nhất Thiết Phật Hồi Hướng.
Tổ Hoàng Bá
nói: “Bậc Thanh Văn là do âm thanh mà đắc ngộ nên gọi là Thanh Văn. Chỉ là
chẳng rõ Tự Tâm, ở trên Thanh Giáo [Giáo pháp dạy bằng lời nói] khởi ra
hiểu biết, hoặc do thần thông, hoặc nhờ tướng tốt, ngôn ngữ vận động, nghe
có Bồ Đề Niết Bàn, trải qua ba tăng kỳ kiếp tu thành Phật Đạo, đều thuộc
về đạo Thanh Văn, gọi là Thanh Văn Phật. Độc chỉ ngay đây tức thời rõ suốt
Tự Tâm, xưa nay là Phật, không một pháp khá đắc, không một Hạnh để tu, đó
là Vô Thượng Đạo, đó là Chân Như Phật.
“Này người học
Đạo, chỉ sợ một niệm có: liền cách xa Đạo. Niệm niệm Vô Tướng, niệm niệm
Vô Vi, tức đó là Phật. Này người học Đạo, như muốn thành Phật thì tất cả
Phật Pháp đều chẳng dùng đến chuyện học, độc chỉ học không cầu, không bám
mắc. Không cầu thì tâm chẳng sanh, không bám mắc thì tâm chẳng diệt. Chẳng
sanh chẳng diệt, tức đó là Phật.
“Tám vạn bốn
ngàn pháp môn để đối với tám vạn bốn ngàn phiền não,, đó chỉ là cửa dẫn
dắt giáo hóa, vốn thật chẳng có pháp nào. Lìa tức là pháp; biết lìa, đó là
Phật. Chỉ lìa tất cả phiền não thì liền chẳng có pháp nào để đắc”.
Nếm được mùi
vị “Biết lìa là Phật” của Tổ Hoàng Bá thì rõ ràng cái ý kinh “Bản Giác
lặng trong như nhiên, Giác ấy bằng cái Giác của Phật”.
Lại như Ngài
Huệ Siêu hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Như sao là Phật?”
Tổ Nhãn nói:
“Ông là Huệ Siêu”.
Vị tăng hỏi Tổ
Sơ Sơn: “Như sao là Phật?”
Tổ Sơn nói:
“Sao chẳng hỏi cái lão già Sơ Sơn?”
Như lời đáp ấy
là quá chừng nhiều. Thảy cốt đề tỉnh Bản Giác, thì ngay đây bình đẳng với
Phật.
Kinh: “Tinh
Chân phát sáng, địa như Phật Địa, gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.
Thông rằng:
Cái Tinh Chân của Bản Giác chẳng phải chỉ là linh nhiệm sáng suốt vững bền
mà thôi, lại có thể phát sáng rải bày, bước đi để thành Địa Vị. Địa Vị như
Phật Địa, đối với Trị Địa Trụ ban đầu thật khác xa vậy. Có cái Thể của
Chân Như toàn khắp pháp giới như thế thì cũng cùng ngay cái Dụng của Chân
Như toàn khắp pháp giới như thế. Cho nên, cái Giác của Phật cùng khắp tất
cả chỗ thì cái Hành của Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ. Có chỗ chưa khắp
thì chẳng phải là Phật Địa. Đây chỉ mới có thể như Phật chứ chưa có thể là
một với Phật, nên gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng.
Vị tăng hỏi Tổ
Lâm Tế : “Thế nào là Tam Nhãn Quốc Độ?”
Tổ Lâm Tế nói:
“Ta cùng ông vào trong quốc độ Tịnh Diệu, mặc áo thanh tịnh, thuyết nói
Pháp Thân Phật. Lại vào trong quốc độ Vô Sai Biệt, mặc áo không sai biệt,
thuyết nói Báo Thân Phật. Lại vào trong quốc độ Giải Thoát, mặc áo quang
minh, thuyết nói Hóa Thân Phật. Tam Nhãn Quốc độ này đây đều là Y Báo biến
hóa. Theo các kinh luận gia thì lấy Pháp Thân làm căn bản, Báo Thân, Hóa
Thân là Dụng. Chỗ thấy của sơn tăng thì Pháp Thân chẳng mượn đến lời nói.
Bởi thế cổ nhân nói “Thân (Pháp, Báo, Hóa) y theo nghĩa mà luận, Độ căn cứ
nơi Thể mà luận”. Pháp Tánh Thân, Pháp Tánh Độ rõ ràng là pháp kiến lập.
Quốc độ y-thông là nắm tay không, là chiếc lá vàng để dối gạt trẻ nít.
Trái tật lê, củ ấu sừng hột khô queo thì tìm nước gì đây? Ngoài tâm không
pháp, trong còn chẳng thể đắc thì cầu vật gì?
Thiền sư Thiên
Y Hoài thượng đường: “Vô biên cõi Phật, đây kia chẳng cách hở mảy lông.
Hãy nói Bất Động Như Lai thế giới Diệu Hỷ thuyết pháp gì đó? Bao đời xưa
nay thủy chung chẳng lìa Đương Niệm. Vậy như trong một hội tối sơ Phật Oai
Âm Vương độ người nhiều ít? Như thật là người suốt khắp thử nói xem!”
Giây lâu, Ngài
nói: “Đường đi khó! Đường đi khó! Đầu núi muôn tầm ông tự thấy!”
Bởi thế, ngộ
Pháp Tánh Thân, Pháp Tánh Độ cốt yếu là quay về Vô Vật [Xưa nay không một
vật của Ngài Huệ Năng], đó là Chân Phật Địa. Nếu có chỗ đắc thì đã có nơi
chốn, làm sao “Đến khắp tất cả chỗ [Chí nhất thiết xứ]”?”
Kinh: “Thế
giới, Như Lai hỗ tương, dung nhập, được không chướng ngại, gọi là Vô Tận
Công Đức Tạng Hồi Hướng.
Thông rằng:
Thế giới tức là Chân Như Pháp Giới, thuộc Tướng Phần. Như Lai tức là Chân
Như Bản Thể, thuộc Kiến Phần. Kiến Phần và Tướng Phần vốn đồng một nguồn
nên tuy Căn Trần phân minh, mà đây kia vẫn là dung nhập. Nêu Kiến Phần thì
Tướng Phần ở ngay trong đó. Nêu Tướng Phần thì Kiến Phần ở ngay trong đó.
Tức Kiến không gì chẳng phải là Tướng, tức Tướng không gì chẳng phải là
Kiến. Thế nên, Thế Giới, Như Lai hỗ tương dung nhập. Vốn không chướng ngại
mà chẳng khỏi có chướng ngại, là cái thấy chưa dung thông vậy.
Tinh chân phát
sáng đến khắp mọi chốn nhưng vẫn còn ở mọi nơi chốn thấy có hai. Nay hỗ
tương dung nhập, tinh chân là tất cả mọi chốn, tất cả chốn chính là tinh
chân. Tâm, cảnh trọn dung thông, cả hai không ngăn ngại. Lý chẳng ngại Sự,
Sựï chẳng cản Lý, đầy ắp tất cả chỗ, nên gọi là Vô Tận Công Đức Tạng.
Vô Lượng Công
Đức của mười Hạnh trước chỉ đủ đức ở thân, còn Vô Tận Công Đức Tạng này là
kho công đức không cùng, dùng mà chẳng hết, lấy ra chẳng cạn, ấy là chỉ
cái Biển Tạng Thức Như Lai vậy. Hầu như ngang bằng với Hư Không Tạng Bồ
Tát, thân và cõi dung nhập mà hay rộng làm Phật sự, tùy thuận chúng sanh.
Ngài Ngũ Tổ
Diễn thượng đường rằng: “Ngàn núi bày xanh, bến liễu rủ vàng, lão tiều ca
hát, ngư ông nhảy múa, sênh phách rộn ràng, chim hát líu lo, người đẹp
phấn hồng, công tử phong lưu, mỗi mỗi đều vì các ông mà phát tỏ cái thượng
thượng cơ, mở ra Chánh Pháp Nhãn. Nếu hướng trong ấy mà tiến cử được thì
Kim Sắc Đầu Đà [Ngài Ca Diếp] không chỗ dung thân. Nếu chẳng am hiểu, ăn
cháo, nhai cơm, chịu cho ông bảy hang tám lỗ [Thất xuyên bát huyệt]!”
Lại như Ngài
Pháp Đăng nói bài kệ:
“Ai tin Thiên Chân Phật?
Hưng Bi khắp vạn đường
Bờ
xưa, hoa Liêu nở
Cò
trắng đứng bãi vàng
Sương rơi sân cỏ mọc
Mây thâu, lạnh trăng khe
Mỗi mỗi : nơi bày chỉ
Tử
tế, hãy nhìn xem”.
Đây là Thế
Giới, Như Lai chung thành một phiến. Theo đây mà ngộ nhập gọi là Chân Giải
Thoát. Dùng công đức này tiếp dẫn chúng sanh, vì thế giới vô tận nên công
đức cũng là vô tận.
Kinh: “Ở nơi
đồng với Phật Địa, trong ấy mỗi mỗi sanh nhân thanh tịnh. Nương nhân ấy mà
phát huy, giữ lấy đạo Niết Bàn, gọi là Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi
Hướng.
Thông rằng:
Đồng Phật Địa, đồng thanh tịnh, đồng Niết Bàn sao lại nương nơi nhân mà
phát huy mỗi mỗi chẳng đồng? Đó là do các thiện căn đã trồng trong những
đời trước, mỗi cái do sự huân tập mà có đặc tánh riêng. Tánh thiện tuy
bình đẳng mà do căn (rễ) nảy mầm, nương Nhân chứng Quả mà muôn vật chẳng
đồng. Dầu chẳng đồng vẫn không ngại sự tự tu tự ngộ, chứng lấy Niết Bàn.
Đúng là chẳng cần cố chấp một pháp môn, mỗi mỗi phải đều theo một lối.
Nói tùy thuận
nghĩa là tùy theo căn cơ mà tiếp dẫn, chứ chẳng miễn cưỡng làm chỗ không
thể được. Đây mới là quyền nghi lớn để độ khắp chúng sanh vậy.
Ngài Tuyết
Phong ở nơi Tổ Động Sơn làm đầu bếp.
Một hôm, đang
đãi gạo, Tổ sơn hỏi: “Đãi cát bỏ gạo, hay đãi gạo bỏ cát?”
Ngài Phong
rằng: “Cát gạo đồng thời bỏ”.
Tổ nói: “Đại
chúng lấy gì ăn?”
Ngài Phong bèn
đậy bồn gạo lại.
Tổ nói: “Theo
cái nhân duyên của ông thì hợp với Đức Sơn”.
Về sau quả nối
pháp Tổ Đức Sơn.
Ngài Đầu Tử
nêu ra rằng: “Này đại chúng! Tổ Động Sơn nói như vậy là đạo lý gì thế? Tuy
là một sắc Càn Khôn, khốn nỗi núi cao sông rộng. Bởi thế lão dã này nói
“Công phu chẳng tới, chẳng vuông tròn. Ngôn ngữ không thông chẳng phải bà
con””.
Bèn thay thế,
nói: “Đãi cát bỏ gạo, đãi gạo bỏ cát: Cây quế trường sanh không ảnh, trải
qua sương tuyết kết trái đều”.
“Đại chúng lấy
gì ăn: Chim Kim Phụng hái bông ngậm chẳng hết, Ngọc Sô [Chim giả bằng
ngọc]ăn nhụy lá tươi hoài”.
Tụng rằng:
“Hiện đầy bình bát: không một vật
Há đồng Hương Tích hóa đồ ngon
Nhật nguyệt xoay hoài soi chẳng thấu
Người gỗ múa tay hướng lò hồng”.
Ngài Đầu Tử
rất rành ý chỉ của Tổ Động sơn, biện biệt rất rõ ràng.
Có nhà sư hỏi
Ngài Ngũ Tổ Diễn: “Thế nào là chuyện nhà Lâm Tế?”
Tổ Diễn nói:
“Kẻ phạm tội ngũ nghịch nghe sấm sét!”
Hỏi : “Thế nào
là chuyện nhà Vân Môn?”
Đáp : “Cờ hồng
sáng lòe”.
Hỏi : “Thế nào
là chuyện nhà Quy Ngưỡng?”
Đáp : “Dẹp cái
bia ngang lối xưa”.
Hỏi : “Thế nào
là chuyện nhà Tào Động?”
Đáp : “Đem thơ
chẳng tới nhà”.
Nhà sư làm lễ.
Tổ Diễn nói:
“Sao chẳng hỏi chuyện nhà Pháp Nhãn?”
Đáp: “Để lại
cho Hòa Thượng”.
Tổ Diễn nói :
“Người đi tuần phạm tội đi đêm”.
Ở đây, thiện
căn của năm Tông, mỗi Tông đều có chỗ khế hợp riêng. Chẳng phải chỉ có Tổ
Động Sơn chỉ dạy Ngài Tuyết Phong đến Tổ Đức Sơn mà thôi.
Từ Tổ Huệ An ở
Tung Sơn chỉ cho Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến ra mắt Đức Lục Tổ, Tổ Thạch
Đầu chỉ Ngài Dược Sơn ra mắt Đức Mã Tổ, rồi Đức Mã Tổ chỉ Ngài Đơn Hà đến
Ngài Thạch Đầu đều là tùy thuận thiện căn bình đẳng, khiến nương nơi nhân
mà phát huy, giữ lấy đường Niết Bàn. Nào có từng cố chấp theo riêng một
pháp môn để chứng Cực Quả đâu?
Kinh: “Chân
Căn đã thành, mười phương chúng sanh đều là Bản Tánh của mình. Tánh tròn
vẹn tựu thành, không bỏ sót một chúng sanh, gọi là Tùy Thuận Đẳng Quán
Nhứt Thiết Chúng Sanh Hồi Hướng.
Thông rằng:
Thiện căn là cái thiện căn ai cũng sẵn đủ. Nương thiện căn này, giữ lấy
đường Niết Bàn thì thiện căn hóa thành Chân Căn vậy. Không còn cái Thiện
nào để chỉ ra, độc chỉ một cái Chân Thật, Thể Tánh viên dung toàn khắp
Pháp Giới, nên chúng sanh mười phương đều là Bản Tánh của mình. Bản Tánh
đã tròn vẹn, đã tự thành tựu, nên gọi là Viên, không ngại mà hội với chúng
sanh thành một Thể, nhưng cũng chẳng bỏ mất tướng chúng sanh. Chúng sanh
chưa hẳn mỗi mỗi đều thành tựu, nhưng Tánh ta tròn vẹn thì không một chúng
sanh nào chẳng phải là Phật Tánh. Bởi thế Tánh tròn vẹn thông suốt tựu
thành, cho đến không bỏ sót một chúng sanh nào cả.
Sự Tùy Thuận
Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng Sanh này thì chẳng kể người, vật, thiện, ác...
dưới đến các loài xuẩn động hàm linh đều có Phật Tánh. Không chỉ tùy thuận
bình đẳng thiện căn mà thôi, như Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, gặp ai cũng
lễ lạy mà nói : “Tôi chẳng dám khinh các người. Các người đương nhiên sẽ
thành Phật”, thật hợp ý chỉ này.
Thiền sư Dục
Vương Dụ thượng đường: “Trọn khắp đại địa là con mắt của Sa Môn, khắp mười
phương là ánh sáng của tự mình. Vậy thì cớ sao ở Đông Phất Du Đãi đánh
trống thì Tây Cù Da Ni chẳng nghe? Nam Thiệm Bộ Châu đốt đèn, Bắc Uất Đơn
Việt vẫn tối. Dù cho hướng vào trong ấy nói được đầy đủ thì vẫn còn ở
trong bóng dáng mà làm kế sanh nhai!”
Ngài rung cây
phất tử, nói: “Trăm thứ tạp nhạp nát rồi, sao là một đường thoát thân?”
Ném cây phất
tử đi, nói: “Hãy tham! Chuyện này mà chẳng thực tham, thực chứng, làm sao
trộm thấy tin tức của Chân Căn?”
Ngài Tuyết
Phong dạy rằng: “Ở đình Vọng Châu đã cùng các ông tương kiến rồi! Ở đỉnh Ô
Thạch đã cũng các ông tương kiến rồi! Trước tăng đường đã cùng các ông
tương kiến rồi vậy!”
Khi ấy, có nhà
sư bước ra hỏi: “Trước tăng đường hãy để đó, còn đình Vọng Châu, đỉnh Ô
Thạch chỗ tương kiến là thế nào?”
Tổ Phong hốt
nhiên lui về phương trượng.
Đây là thấy
được thì mới tin mười phương chúng sanh đều là Bổn Tánh của mình.
Kinh: “Tức cả
thảy pháp, lìa cả thảy tướng. Cả Tức và Lìa đều không chỗ dính mắc, gọi là
Chân Như Tướng Hồi Hướng.
Thông rằng: Ở
trước, nói “Lìa cả thảy tướng, tức cả thảy pháp” ấy là nơi tướng mà lìa
tướng, vẫn còn có tướng của pháp vậy. Ở đây, nói “Tức cả thảy pháp, lìa cả
thảy tướng” ấy là nơi pháp mà lìa pháp, quên mất cả pháp tướng vậy. Có Tức
có Lìa thì tuy không có pháp tướng nhưng chẳng phải không có cái không
pháp tướng, đó cũng còn là sự trừ bỏ pháp tướng. Ở đây thì đồng đều là
không có, mảy tơ hết sạch, chỉ một Chân Thể như như bất động. Đó gọi là
Chân Như Tướng, chẳng thể lấy các thứ tướng như Tướng, Pháp Tướng cho đến
sự trừ bỏ Pháp Tướng mà so sánh được.
Chỗ nói “Lìa
cả thảy tướng” tức xem sự lìa Tướng chúng sanh là nhiệm mật. Chỗ nói “Cả
hai đều không dính mắc” tức xem sự xa lìa các thứ Lìa là nhiệm mật. Đến
đây thì Sở Tri Chướng đã được trong sạch, cái Chân Tánh hiện tiền, đến
không từ đâu, đi không về đâu, vốn tự như như, nên gọi là Chân Như.
Thiền sư Dục
Vương Dụ thượng đường: “Khi hành bặt mất dấu của hành, khi thuyết không có
vết của thuyết. Hành, thuyết mà có chỗ đến ắt có đích sanh ra thì tên liền
tới. Hành, thuyết chưa sáng rõ ắt mũi kiếm linh quyết đoán vạch rõ. Dù cho
thuyết không có sấm lậu, hành chẳng mê nơi chốn thì vẫn còn vướng mắc ở
xác thân. Nếu là đại bàng cánh vàng thì vút lên trăm ngàn do-tuần. Nếu là
ngựa Thần Câu thập ảnh thì ruổi nhanh bốn phương tám cõi, chẳng cần thứ
lớp ăn uống, chẳng theo chốn mà chôn thân. Tóm lại, chẳng có dựa nương thì
lại có cái phần dẫm bước, thực hành không nhỉ ? Chốn chốn, mảy mảy, chính
là Bờ Giác!”
Lời dạy này có
thể nói là đắc cốt tủy Chân Như. Chỗ đó mà được siêu thoát bèn khế hợp Như
Như.
Kinh: “Thật
đắc Như Như, mười phương không ngại, gọi là Vô Phược Giải Thoát Hồi Hướng.
Thông rằng: Xa
lìa các tướng, chỉ một Chân Như thì gọi là Vô Phược, không trói buộc. Còn
cái Tướng Chân Như, ấy là còn bị cái Vô Phược trói buộc, chưa thể Vô Ngại,
nên chưa là Chân Giải Thoát.
Thật đắc Như
Như thì ở đâu cũng Như Như, không còn trệ ngại, ngay cái tướng Chân Như
cũng quên mất. Ban đầu trừ bỏ chấp pháp gọi là Hữu Phược Giải Thoát. Nay
trừ bỏ cái không chấp pháp gọi là Vô Phược Giải Thoát. Đã không có Phược
[Trói buộc] để thoát thì còn có Phược nào nữa? Đã không có chỗ trói buộc
thì chỗ nào chẳng Như Như? Cái “Mười phương không ngại” này nếu chẳng đắc
cái Tối Chân trong Chân Như thì chẳng đủ sức để nói vậy.
Ngài Lạc Phổ
ban đầu làm thị giả của Tổ Lâm Tế. Tổ thường giữa chúng khen Ngài rằng:
“Ấy là mũi tên chiếc trong môn hạ Lâm Tế, ai dám đối đầu với mũi nhọn ấy?”
Ngài Lạc Phổ
tự cho là đã đầy đủ, từ giã Tổ đi du phương về Nam.
Tổ Lâm Tế nói:
“Môn hạ Lâm Tế có con lý ngư sạch chút đỉnh, ngoảy đầu quạt đuôi hướng về
phía Nam, chẳng biết hướng về trong hũ dưa muối nhà nào mà chết vùi đây?”
Ngài Lạc Phổ
đi du phương xong đến thẳng Giáp Sơn dựng am, suốt năm không hỏi thăm Tổ
Giáp Sơn. Tổ bèn viết thơ bảo một vị tăng đưa sang. Lạc Phổ tiếp thơ bèn
cất luôn, lại đưa tay đòi nữa, vị tăng không đáp được.
Ngài Lạc Phổ
bèn đánh mà nói: “Về nói y lại cho Hòa Thượng”.
Vị tăng về kể
lại cho Ngài Giáp Sơn, Tổ nói: “Ông tăng ấy mà mở thơ ra thì trong ba ngày
phải đến đây. Còn chẳng mở thơ thì không cứu nổi ông ta rồi”.
Ba ngày sau,
quả Ngài Lạc Phổ đến ra mắt Tổ Giáp Sơn, không lễ bái, ngay trước mặt Tổ
mà đứng.
Tổ Sơn nói:
“Gà nương ổ phụng, chẳng cùng đồng loại. Lui ra!”
Ngài Phổ: “Từ
xa nghe tiếng đến đây, xin thầy tiếp đón một lần”.
Tổ Sơn: “Trước
mắt không có Xà Lê, nơi đây không có Lão Tăng!”
Lạc Phổ bèn
hét: “Một chữ Vô [Không có] cũng chẳng cho lập!”
Tổ Sơn: “Chớ
có hấp tấp vội vàng! Phải biết mây, trăng thì đồng, mà núi, khe mỗi khác.
Cắt đứt đầu lưỡi thiên hạ thì chẳng phải là không có, còn làm sao dạy
người không có đầu lưỡi mở lời?”
Lạc Phổ không
có lời đáp.
Tổ Sơn bèn
đánh. Lạc Phổ bèn khuất phục. Quả nhiên là hướng vào trong hũ dưa muối của
Giáp Sơn mà chết vùi.
Ngài Đầu Tử
nêu lên rằng: “Đến trong ấy, làm sao đây? Nói được một câu thì đồng thân,
cùng mạng, một hơi thở, liền lá cành!”
Rồi nói thay:
“Đôi phụng không mắt đủ năm màu. Vọt lên trời không thấu mây xanh!”
Tụng rằng:
“Người đá không bạn đêm vào núi
Mây lồng đỉnh đỏ áo lục hàn
Hét khai điềm kiếp ba chót đỉnh
Bưng áo vàng [Kim lan] ra, dưới nhật xem”.
Hai câu đầu
tụng ý chỉ: Dứt hết đầu lưỡi người trong thiên hạ, chỗ ẩn thân, mất dấu
vết.
Hai câu sau
tụng ý chỉ: Người không có lưỡi lại mở lời, chỗ mất dấu vết, chớ ẩn thân.
Cái ông Lạc
Phổ lộn xộn, chỉ được một cái hàm thiết, đã bị Tổ Lâm Tế khám phá. Giả sử
không gặp Tổ Giáp Sơn thì cơ hồ bị cái Vô Phược trói buộc mà tống táng một
đời vậy.
Kinh: “Tánh
Đức viên thành, hạn lượng về Pháp Giới diệt mất, gọi là Pháp Giới Vô Lượng
Hồi Hướng.
Thông rằng: Từ
Chân Như Tánh phát khởi cái Đức Dụng. Ba Đức Lý, Trí, Hạnh đều tròn vẹn.
Lý, Sự vô ngại, Không, Có đều chẳng phải. Thành tựu thuần nhiên Một Tánh,
rốt ráo không còn dấu vết. Ở trước nói “Đến tất cả chỗ” là dường còn cái
thấy có hạn lượng [Theo chỗ có sự vật], nên Pháp Giới Tánh chưa lìa hữu
lượng. Nay hạn lượng về Pháp Giới diệt mất [Cõi Pháp dứt hết sự vật], nên
gọi là Vô Lượng [Không có sự vật].
Tổ Phật Quả
Khắc Cần gặp cư sĩ Trương Vô Tận, đàm luận ráo riết về yếu chỉ kinh Hoa
Nghiêm.
Tổ nói: “Cảnh
giới hiện lượng của Hoa Nghiêm thì Lý, Sự toàn chân. Ngay ban đầu đã không
có giả pháp, bởi thế, ngay Một mà Muôn, rõ Muôn là Một, Một trở lại Một,
Muôn trở lại Muôn, mênh mông không cùng. Tâm, Phật, chúng sanh cả ba không
sai biệt. Cuốn, mở tự tại, vô ngại viên dung. Chỗ này tuy là tột lý, nhưng
rốt cuộc cũng là không gió mà nổi sóng vòng vòng!”
Cư sĩ này
không lãnh hội nổi, lúc lắc cái giường ngồi.
Tổ Khắc Cần
bèn hỏi: “Đến chỗ này thì cùng với ý Tổ Sư từ Tây sang là giống hay khác?”
Cư sĩ : “Dạ,
giống”.
Tổ Cần nói:
“Hãy được cái chỗ không có giao thiệp”.
Cư sĩ có sắc
giận.
Tổ Cần nói:
“Chẳng nghe Vân Môn nói “Núi sông đất đai không mảy tơ lầm lỗi”. Đó còn là
chuyển cú. “Chẳng thấy một sắc” mới là một nửa đề. Còn phải biết cái toàn
đề của thời tiết hướng thượng. Các Tổ Đức Sơn, Lâm Tế há chẳng phải là
toàn đề đấy sao?”
Cư sĩ bèn gật
đầu đồng ý.
Hôm sau lại
bàn về Sự Pháp Giới, Lý Pháp Giới cho đến Sự Lý Vô Ngại Pháp Giới.
Tổ Khắc Cần
lại hỏi: “Đây có thể nói thiền chăng?”
Cư sĩ đáp:
“Chính nên nói Thiền vậy”.
Tổ cười nói:
“Chẳng phải! Chính vì còn trong cái suy lường về Pháp Giới nên hạn lượng
về Pháp Giới chưa diệt mất. Nếu vào đến Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới, hạn lượng
về Pháp Giới diệt mất, mới nên nói Thiền! Như sao là “Phật
là que cứt khô”? Như sao là “Phật là ba cân gai”? Thế nên Tổ Chân Tịnh có
kệ rằng:
“Sự Sự vô ngại
Như ý tự tại
Tay nắm đầu heo
Miệng tụng tịnh giới
Lướt khỏi nhà thổ
Chưa trả nợ rượu
Đầu ngã tư đường
Mở
banh túi bố !”.
Cư sĩ : “Chỗ
luận bàn tuyệt thay! Há dễ được nghe ư?”
Như diệu nghĩa
này, chẳng bàn luận sâu xa như vậy thì không thể giãi bày hết yếu chỉ.
Mười địa vị
Hồi Hướng ở trên là hồi Chân, hướng Tục, hồi Trí hướng Bi khiến Chân - Tục
viên dung, Trí - Bi bất nhị. Đến đây hạn lượng, tình kiến đều đã hồn hóa,
mới có thể đăng địa, chứng quả Bồ Tát vậy.
VI. TỨ GIA HẠNH
Kinh: “Anan,
người thiện nam đó tu hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh ấy rồi, tiếp đến
thành tựu bốn thứ Gia Hạnh Diệu Viên: tức lấy Phật Giác dùng làm tâm mình,
như ra mà chưa ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt cái cây, gọi là Noãn
Địa.
Thông rằng:
Bốn mươi mốt tâm ở trên, từ Càn Huệ đến Mười Hồi Hướng lần hồi sửa trị,
lần hồi điều phục, đào thải phàm tình, đã thành cùng cực thanh tịnh. Nhưng
Thánh vị khó lên, Thánh quả khó chín muồi. Đến miếng đất này, Thần không
thể xét đến, “Hóa chẳng thể giúp tăng trưởng. An nhiên mà thong dong, chờ
cái tự nó đến mà thôi vậy.
Đức Thế Tôn
nhiều kiếp tu hành, suốt thấu rõ ràng chỗ huyền vi, ở đây lại lập ra bốn
thứ Gia Hạnh Diệu Viên. Giữa khoảng sắp thành tựu và chưa thành tựu, quả
thực là có bốn địa vị này, chẳng phải là Phật nhãn thì ai mà biện biệt ra
được?
Ở trước, nói
“Giác bằng cái Giác của Phật”, ấy là ở trong tâm rõ ràng mà chưa thể dùng
được. Đến đây thì “Lấy Phật Giác dùng làm tâm mình”, đưa lên xem ngắm mà
chẳng ra, giống như dùi cây cho ra lửa mà cây chưa cháy, nên gọi là Noãn
[Noãn: ấm] Địa. Lửa có ra thì cũng vô tâm, dùi lâu thì cây tự cháy. Giác
mà dùng thì cũng vô ý, Định lâu thì Huệ tự hiện, trong khoảng ấy chẳng để
cho sức người góp vào vậy.
Tổ Thúy Nham
Chân thượng đường, nêu lên bài tụng của Tổ Long Nha rằng: “Học đạo như dùi
lửa, thấy khói chưa thể ngừng, chờ đến Kim Tinh hiện, về nhà mới đến nơi!”
Và bài tụng của Tổ Thần Đỉnh rằng: “Học Đạo như dùi lửa, thấy khói có thể
dừng, chớ chờ Kim Tinh hiện, cháy cẳng lại cháy đầu!”
Tổ Chân nói:
“Nếu luận Đốn thì Long Nha quả ở nửa đường! Nếu luận Tiệm thì Thần Đỉnh
mới ngộ ít. Ở đây thì thế nào? Này các nhân giả, năm nay nhiều lá rụng,
chỗ nào quét về nhà?”
Theo chỗ thấy
của Ngài Thúy Nham, cháy chẳng hết thì hiện củi, dùng chẳng hết thì hiện
lửa, thế dùng sự dùi làm chi? Tuy thế, phải là người xuất cách mới xong!
Kinh: “Lại lấy
tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Hình như nương mà chẳng phải nương,
như lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại, gọi
là Đảnh Địa.
Thông rằng:
Chỗ thấy cùng Phật không khác, nhưng còn phải quý trọng hành vi cho tương
xứng. Nếu đã có thể lấy cái Giác của Phật dùng làm tâm mình thì có thể lấy
tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Ở nơi hỗ tương đối đãi mà nói thì vì
còn có cái thấy của Phật, của mình nên hình nhưng nương mà chẳng phải
nương, là thấy có quy tắc của Phật. Hình như nương nơi Phật thì đó chỉ là
quy tắc của mình. Nếu không có chỗ nương, đó là hành vi của Phật không vết
tích. Nay có chút so nghĩ, tính toán, bởi vì lằn vết chưa mất. Giống như
lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại.
Cho là Nương
thì thân ở hư không nên chẳng phải nương vậy. Cho là Chẳng phải nương thì
chân còn dẫm trên đảnh nên chẳng phải là Không nương. Sắp vào chỗ Thần Hóa
mà còn chút đầu lông chưa tiêu dung, nên hình như có ngăn ngại. Kinh Đại
Bát Nhã cho sự chấp trước hư không là Pháp Thân gọi là Đỉnh Đọa, rơi nơi
đỉnh, chính thật tương đương với chỗ này.
Nhà sư hỏi Tổ
Triệu Châu: “Như sao là cô đỉnh Diệu Phong?”
Tổ Châu nói:
“Lão tăng không đáp câu ấy của ông”.
Hỏi: “Vì sao
không đáp câu ấy?”
Tổ Châu nói:
“Ta đáp cho ông, sợ rơi trên đất bằng”.
Ý vị thay! Rõ
ràng đã đáp rồi vậy.
Về sau, hai
Ngài Bửu Phước và Trường Khánh đang dạo núi.
Ngài Bửu Phước
lấy tay chỉ, nói: “Chỉ trong ấy bèn là đỉnh Diệu Phong!”
Ngài Trường
Khánh nói: “Đúng là như vậy thì đáng tiếc cho!”
Có nhà sư kể
lại với Ngài Cảnh Thanh. Ngài Cảnh Thanh nói: “Nếu chẳng phải là bậc Tôn
Công thì thấy sọ khô đầy đồng!”
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng:
“Diệu Phong cô đảnh cỏ dẫy đầy
Nêu được rõ ràng, phó chúc ai?
Chẳng phải tôn công phân đích xác
Sọ
khô đầy đất, mấy ai hay!”.
Tôn Công
Trường Khánh khá tiếc cho chính là sợ rớt trên đất bằng. Nếu rớt nơi đất
bằng mà thương lượng thì trước sọ khô thấy quỷ ma vô số!
Lại như Tổ
Động Sơn hỏi nhà sư: “Chỗ nào đến?”
Đáp: “Dạo núi
đến”.
Tổ Sơn nói:
“Có đến đỉnh chăng?”
Đáp: “Dạ có
đến”.
Tổ Sơn nói:
“Trên đỉnh có người không?”
Đáp: “Không
người nào”.
Tổ Sơn : “Như
vậy chắc chưa tới đỉnh”.
Đáp : “Nếu
chưa tới đỉnh sao biết là không người?”
Tổ Sơn : “Sao
chẳng ở (trụ) lại?”
Đáp : “Tôi
chẳng từ chối ở, chỉ vì Tây Thiên có người chẳng chịu”.
Tổ Sơn nói :
“Vậy mà lâu nay ta lại nghi gã ấy!”
Như nhà sư
này, đến đỉnh chẳng trụ thì còn gì ngăn ngại? Tức là cái hoạn nạn Đỉnh Đọa
còn không có, lo gì tai họa Đất Bằng ư?
Kinh: “Tâm,
Phật cả hai đồng, khéo được Trung Đạo, giống như người biết nhẫn nhịn,
chẳng phải ôm ấp, chẳng phải phát ra, gọi là Nhẫn Địa.
Thông rằng:
Tâm mình và hành vi Phật, cả hai dấu vết đều dung thông, hòa thành một
thể, không còn ngăn ngại. Đã không phải Tức Tâm tức Phật, cũng không phải
Phi Tâm phi Phật, chỉ nói là “Chẳng phải vật”, đó chỗ gọi là Trung Đạo.
Ban đầu thì
ngay chính giữa mà lần vào, cho đến khi Trung Đạo thuần chân. Thứ lớp Tín,
Trụ, Hạnh, Hướng đến đây mới có thể khéo được Trung Đạo. Gọi là Khéo được
thì chẳng phí mảy lông công lực, ấy là đắc cái Không-chỗ-đắc. Đã không chỗ
đắc thì cũng không chỗ thuyết. Như người nhẫn nhịn, đã không ôm ấp lòng
nghi mà cũng không nói ra, chỉ có im lặng ẩn chứa mà thôi, nên gọi là Nhẫn
Địa.
Quan Long Đồ
tên là Vương Tiêu, tự là Quan Phục, một hôm ở chùa Chiêu Giác, nghe tiếng
bản ra thiền mà có tỉnh ngộ.
Bèn hỏi Tổ Nam
Đường: “Tôi có cái chỗ-thấy, bỗng bị người hỏi, lại mở miệng chẳng được,
chưa rõ lỗi ở đâu?”
Tổ Đường nói :
“Lỗi tại có cái chỗ-thấy”.
Tổ hỏi lại :
“Ông đến nhậm chức hồi nào?”
Ông đáp : “Dạ
ngày mồng Bốn tháng Tám năm ngoái”.
Tổ lại hỏi :
“Ông rời nhiệm sở khi nào?”
Đáp rằng :
“Ngày Hai Mươi tháng trước”.
Tổ Đường nói :
“Vậy tại sao nói là mở miệng chẳng được ?”
Ông Tiêu bèn
khế ngộ.
Ông Vương Long
Đồ tương tự chứng Nhẫn Địa, nhờ vài câu của Tổ Nam Đường mà chỗ-thấy liền
mất.
Nhưng cũng có
trường hợp đã siêu quá Nhẫn Địa mà chưa thấu thoát. Như Ngài Ngũ Tổ Diễn
được Ngài Phù Sơn Viễn chỉ đến ra mắt Tổ Bạch Vân Đoan. Ngài Ngũ Tổ Diễn
đem chuyện nhà sư hỏi Tổ Nam Tuyền về ngọc ma-ni để xin bày dạy yếu nghĩa.
Tổ Đoan liền quát nạt cho. Ngài Diễn lãnh ngộ, trình bài kệ Đầu Cơ rằng :
“Trước non một mảnh đất đai nhàn
Hầu Tổ chấp tay bạch hỏi han
Tự
bán bao phen rồi mua lại
Vì
thương tùng trúc giỡn gió trong”.
Tổ Đoan đặc
biệt ấn khả, cho làm tri sự trong chùa. Chẳng bao lâu, Tổ Đoan đến nói
rằng : “Có mấy vị thiền khách ở Lư Sơn tới, đều có chỗ ngộ nhập. Bảo y
nói, cũng nói được có mối manh. Nêu nhân duyên hỏi y, cũng bày tỏ được.
Bảo y hạ một câu chuyển ngữ, cũng buông ra được. Chỉ có điều là chưa ở
trong đó”.
Ngài Diễn ở
chỗ này phát đại nghi, tự suy nghĩ rằng: “Đã ngộ rồi thì cũng nói được, rõ
cũng đã rõ, thế sao lại chưa ở trong đó?”
Bèn tham cứu
lâu ngày, bỗng nhiên tỉnh ngộ, lòng tiếc của báu trước kia một phen buông
bỏ hết, chạy đi tìm Ngài Bạch Vân Đoan. Tổ Đoan dậm chân múa tay. Ngài
Diễn cũng cười xòa một tiếng mà thôi.
Tổ Diễn về sau
nói với người ta rằng: “Tôi nhờ đó mà ra khỏi một xác chết, liền rõ được
cái việc chở gió trong”.
Thế nên biết,
mảy tơ chưa hóa thì vẫn còn Lý Chướng. Bốn thứ Gia Hạnh diệu viên như thế,
đâu chỉ có bốn mối ư?
Kinh: “Số
lượng tiêu diệt, sự Mê, Giác và Trung Đạo cả hai đều không danh mục, ấy là
Thế Đệ Nhất Địa.
Thông rằng:
Tâm, Phật cả hai đồng, là đã quên đây, kia; khéo đắc Trung Đạo là đã lìa
hai bên. Nhưng có hai cái đồng nhau, thế là còn tin tức trong đó. Đó là số
lượng, đó là danh mục vậy. Số lượng là chỗ thế nhân có thể đo lường, danh
mục là chỗ thế nhân có thể chỉ ra, tức là chẳng vượt khỏi thế gian.
Phật Thân là
vô vi, chẳng rơi vào số lượng. Tiêu diệt số lượng đo đếm đi thì chẳng có
việc rơi vào vậy. Sao gọi là tiêu diệt ? Cái gì có Đồng, có Khác, có Mê,
có Giác, có Được, có Mất đều thuộc vào số lượng, đều có thể xếp thành danh
mục. Hiện nay độc chỉ khéo đắc Trung Đạo, nên không thể cho đó là Mê, lại
sắp cùng với chỗ sở đắc mà quên mất, nên không thể cho đó là Giác. Chẳng
thể suy đoán, chẳng thể hình dung, chính là chỗ chân thực tiêu diệt mọi số
lượng vậy.
Cái chỗ tình
suy lượng của thế nhân có thể đến, là biết có Phật, biết có Đạo mà thôi.
Nay nói: “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo”, thì chỗ nào đâu mà suy
nghĩ dung thân? Cái chỗ mà danh mục của thế nhân có thể thấy đến là đồng
như vậy, đắc như vậy mà thôi. Nay nói, “Đồng không chỗ đồng, đắc không chỗ
đắc”, thì chỗ nào đâu để trộm thấy cái nhiệm mầu?”
Đến đây thì
Nội Phàm đã hết, sắp vào Thánh vị. Chỉ có Thánh mới biết được Thánh, chẳng
phải ý kiến người đời mà trộm thấy được, vì cao vượt cái cao của người
đời, nên gọi là Thế Đế Đệ Nhất Địa. Nếu vào Thập Địa, đến tột Diệu Giác
thì lại gọi là Xuất Thế Đệ Nhất Địa.
Có nhà sư hỏi
Tổ Động Sơn: “Trong ba Thân, Thân nào chẳng sa vào số lượng?”
Tổ Sơn nói:
“Ta thường ở trong ấy không cách hở”.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Chẳng nhập thế, chưa theo duyên
Kiếp bầu “Không Xứ” có gia truyền
Sông thu gió nhẹ, rau tần trắng
Bến cổ thuyền chiều một giải sương”.
Bài tụng này ở
chỗ chẳng rơi vào số lượng lại càng thân thiết.
Thiền sư Đồng
An Chí kế thừa Tổ Đồng An Phi. Khi sắp thị diệt, Tổ Phi thượng đường nói:
“Trước Đa Tử tháp [Chỗ Phật phân nửa tòa ngồi với Tổ Ca Diếp] toàn con
cháu tuấn tú, việc của năm vị trưởng lão tiền bối là thế nào?”
Nói ba lần,
không ai đối đáp được.
Cuối cùng Ngài
Đồng An Chí bước ra, nói: “Đêm sáng ngoài rèm bày trải vững, muôn dặm vui
ca đạo thái bình”.
Tổ Phi nói :
“Phải là cái tên lừa ấy mới được”.
Sau, khi trụ
trì, có nhà sư hỏi Ngài: “Chỗ hai cơ chẳng đến, cử xướng thế nào?”
Tổ Chí nói:
“Khắp nơi chẳng gặp, trong Huyền chẳng mất”.
Ngài Đơn Hà
tụng rằng:
“Mé kia bờ nọ khó tương phùng
Vô
tư hai chữ cũng không trong
Vầng hồng Tây lặn ngoài kia núi
Luống lưu cô ảnh chiếu khe đông”.
Chỗ này thì
Mê-Giác và Trung Đạo, cả hai đều không chỗ chỉ gọi, chính là chỗ hai cơ
duyên chẳng đến nơi. Nhưng Ngài Đồng An Chí thì hai bên chẳng lập, Trung
Đạo chẳng dừng, sắp Trung Đạo cũng chẳng ở. Thế mới là Chân Tông Vô Trước
[Không dính mắc], trong tông môn là cao tột thứ nhất. Đâu phải chỉ là Thế
Đệ Nhất Địa mà thôi sao? |