PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG
MỤC HAI: AN LẬP CÁC THÁNH VỊ
VII. THẬP ĐỊA
Kinh: “Anan,
người thiện nam đó trong Đại Bồ Đề, khéo được thấu suốt. Giác thông với
Như Lai, suốt hết cảnh giới Phật, gọi là Hoan Hỉ Địa.
Thông rằng:
Nói Đại Bồ Đề đó chính là “Một đường hướng thượng”, chỗ quan yếu của mệnh
mạch Chư Phật. Nơi đây mà thấu suốt, đắc đại triệt ngộ, “Thấy các tướng
chẳng phải tướng, bèn thấy Như Lai”. Đã thấy Như Lai, nên suốt hết cảnh
giới Phật.
Cảnh giới Phật
thì chỉ Phật cùng với Phật mới có thể thông suốt cùng tột, đó là cảnh giới
không thể nghĩ bàn. Lấy ba Đế [Không, Giả, Trung] viên dung để tương ưng
cũng chưa cùng tột. Trung Đạo thuần chân dường như không khác Bồ Đề, nhưng
biết cái Trung Đạo chẳng an trụ, đó là Đại Bồ Đề vậy. Địa vị Hoan Hỉ Hạnh
ở trước đầy đủ vô lượng diệu đức, mười phương đều tùy thuận, lấy chỗ công
đức mà nói, nên thuộc về Hạnh. Ở đây bèn thấu suốt Vô Thượng Bồ Đề, vượt
phàm vào Thánh, đã rảo bước trong cảnh Phật, đã lên quả vị nên gọi là Địa.
Bắt đầu được
sự hoan hỉ của Pháp, hỉ là do thấu suốt, đắc không có gì chướng ngại, mà
thật là đắc không chỗ đắc, hỉ không chỗ hỉ, chẳng phải là cái hoan hỉ của
thế tình có thể suy lường nổi.
Quan Thiêm
Phán Lưu Kinh Thần, nhỏ tuổi nhờ có tài mà ra làm quan, đối với Phật Pháp
chưa có tin. Nhờ gặp thiền sư Chiếu Giác Tổng chỉ dẫn nên say mê Tổ Đạo.
Khi đến kinh
sư, ra mắt thiền sư Huệ Lâm Xung, gặp lúc vị tăng hỏi Tổ Tuyết Đậu: “Như
sao là bổn nguyên Chư Phật?”
Đáp rằng: “Sắc
lạnh ngàn núi”.
Lời dứt, có
tỉnh ngộ.
Hơn năm trời
chờ bổ nhậm, ông tham học với Ngài Thiều Sơn Cảo. Khi sắp đi nhậm chức, từ
giã Ngài, Ngài căn dặn rằng: “Ông cứ thế mà dụng tâm, lo gì chẳng ngộ. Về
sau hoặc có cái cảnh giới phi thường, hoan hỉ vô lượng thì thu thập cho
mau. Nếu thu thập được liền thành pháp khí. Nếu thu thập chẳng được, liền
có bệnh chẳng an mà thành cái lỗi lầm thất tâm đó”.
Chẳng bao lâu
ông lại đến kinh sư, theo thiền sư Chánh Giác Dật mà thưa hỏi nhân duyên.
Tổ Dật nói:
“Người xưa nói “Bình thường tâm là Đạo”. Nay ông trong mười hai thời phóng
quang động địa, chẳng tự biết lấy, lại hướng ngoài chạy rông tìm kiếm,
ngày càng lạ càng xa!”
Ông càng thêm
nghi, chẳng hiểu.
Một đêm vào
thất, Tổ Dật đem chỗ trong Truyền Đăng Lục: “Quốc Vương Hương Chí hỏi Tổ
Ba La Đề Tôn Giả: “Cái gì là Phật?” Tổ Đề nói: “Tánh Thấy là Phật”, ra mà
hỏi ông.
Ông không nói
năng được, càng nghi dữ. Bèn về chỗ ngủ, ngủ say.
Đến canh năm,
tỉnh giấc, vừa chợt nhớ lại thì thấy đủ thứ tướng lạ, trong ngoài thông
suốt, sáu căn chấn động, trời đất cùng quay, như mây mở trăng hiện, vui
không gì hơn. Bỗng nhớ lại lời dặn dò của Tổ Thiền Sơn khi từ biệt mà nén
lại, đợi đến sáng mới thuật lại chỗ biết được.
Ông nói:
“Chẳng cần thực hành ư?”
Tổ Dật nói:
“Cái ấy là việc gì mà lại nói đến thực hành?”
Ông lặng im
khế hợp.
Về sau, có
viết Phát Minh Tâm Địa Tụng tám bài, và thiên Minh Đạo Dụ Nho để cảnh tỉnh
thế gian.
Như chỗ chứng
của Ông Lưu, đối với Sơ Địa chưa biết ra sao, nhưng cái hoan hỉ phi thường
là đã chẳng cô phụ sự thọ ký của Ngài Thiều Sơn. Cũng là việc hiện thân Tể
Quan mà đến đó ư?
Kinh: “Tánh
Khác nhập vào Đồng, tánh Đồng cũng diệt, gọi là Ly Cấu Địa.
Thông rằng: Ở
trước thì Tâm, Phật hai cái đều Đồng, số lượng tiêu diệt là chỉ quy về một
cái Tánh Thiện của ta mà luận. Nay thì tánh Khác nhập vào Đồng là nêu bày
chúng sanh, quốc độ đồng một Tánh đây. Rắn, rồng lẫn lộn, phàm Thánh xen
nhau, đó là cảnh giới của Bồ Tát. Nếu chẳng giác thông suốt ý chỉ chẳng dơ
chẳng sạch của Như Lai thì chưa dễ thấu đạt chỗ này. Nếu thấy Tánh chúng
sanh là khác, tức thấy chúng sanh dơ. Nay đã nhập vào Đồng là đã lìa cái
dơ của bờ mé dơ vậy. Nếu thấy chúng sanh tánh Đồng thì tánh Đồng chưa mất,
ấy là pháp dơ. Nay tánh Đồng cũng diệt mất, tức là lìa cái dơ của bờ mé
sạch vậy. Cái Ly Cấu Địa này là chỗ tôn trọng trong địa vị Bồ Tát: dứt lìa
cái dơ của bờ mé thanh tịnh, trở về Bản Thể vốn không dơ của Như Lai, chứ
chẳng phải lấy sự lìa cái dơ của bờ mé dơ mà có thể bàn đến.
Nhà sư hỏi Tổ
Thụy Nham : “Như sao là Phật?”
Đáp : “Trâu
đá”.
Hỏi : “Như sao
là Pháp?”
Đáp : “Trâu đá
con”.
Hỏi : “Như vậy
tức chẳng đồng ư?”
Đáp : “Hợp
chẳng được”.
Hỏi : “Vì sao
hợp chẳng được?”
Đáp : “Không
có cái Đồng để đồng với thì hợp cái gì?”
Lại có nhà sư
hỏi Tổ Tào Sơn : “Tuyết phủ ngàn núi, vì sao đỉnh cô chót ấy chẳng trắng?”
Tổ Sơn nói :
“Phải biết có cái khác trong cái khác”.
Hỏi : “Như sao
là khác trong khác?”
Tổ Sơn nói :
“Chẳng sa vào màu sắc các núi”.
Tổ Thụy Nham
khéo nói cái Đồng, Tổ Tào Sơn khéo nói cái Khác. Hợp hai tắc trên mà xem,
ắt biết tánh Khác nhập vào Đồng thì không có cái Đồng nào để đồng. Lìa dơ
thì thành khác, hóa ra là Khác ở trong Khác. Ở đây há có thể lấy sự nông
cạn mà nhìn vào được ư?
Kinh : “Thanh
tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra, gọi là Phát Quang Địa.
Thông rằng :
Như tấm gương tròn lớn bụi bặm không còn, đã gọi được là thanh tịnh, nhưng
chẳng phải thanh tịnh cùng tột vì còn Pháp Cấu [Sự dơ do chấp Pháp]. Pháp
Cấu đã lìa, cái Sở Tri Chướng sạch, rồi sau cái sáng suốt của Bổn Giác
sanh ra, từ Định phát Huệ, tự có một phần ánh sáng rực rỡ, chẳng phải sự
Giác Chiếu tầm thường có thể so sánh. Bài kệ ở trước đã nói: “Tịnh cực,
sáng thông suốt. Lặng chiếu trùm hư không”, cảnh giới như thế thì mỗi mỗi
đều tự sáng tỏ, vật vật đều tự suốt thông, há chỗ ấy còn có sự lờ mờ ư?
Tổ Động Sơn
hỏi Ông Mật Sư Bá: “Làm gì thế?”
Đáp : “Cầm
kim”.
Tổ Sơn nói:
“Việc cầm kim ra làm sao?”
Đáp : “Mỗi kim
đều như nhau”.
Tổ Sơn nói :
“Hai mươi năm đồng hành, lại nói lời thế ư?”
Ông Mật hỏi:
“Còn trưởng lão thì thế nào?”
Tổ Sơn nói:
“Đại địa lửa phát!”
Ngài Thiên
Đồng nêu rằng:
“Đại địa lửa phát
Trong chẳng dung sợi tóc
Nam Hải, Côn Lôn
Trời lạnh chẳng mang vớ
Tổ
Tổ truyền nhau
Một thứ dơ uế!”.
Đó là chỉ ra
cái Chân Ngộ đã phát, liền cùng Phật, Tổ tâm tâm ấn nhau. Cái Phát Quang
Địa này chẳng thể dễ dãi đàm luận.
Hòa Thượng Ẩn
Sơn có bài kệ:
“Ba gian nhà lá xưa nay ở
Một đạo thần quang, vạn cảnh nhàn
Chớ đem phải quấy ra xét tới
Phù sinh xuyên tạc, há tương quan?”.
Chỗ Ngài nói
chẳng phải là “Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra” đó ư?
Kinh: “Sáng
suốt cùng tột, Giác đầy khắp, gọi là Diệm Huệ Địa.
Thông rằng:
Sáng suốt đã cùng tột, Giác đã đầy khắp, giống như đống lửa lớn, đụng vào
là cháy thiêu, cả thảy bóng duyên (duyên ảnh) đều thiêu tuyệt. Không chỉ
nói là Huệ mà nói Diệm Huệ [Huệ Cháy Sáng] là Huệ đến tột mức vậy. Cái ấy
chẳng thể gần, tức là Bát Nhã Trí.
Như con trùng
rất nhỏ nhặt, chỗ nào cũng đậu vào, nhưng không thể đậu trên ngọn lửa cháy
sáng. Cái thức lự [Tâm luân hồi] chốn chốn đều duyên ra, nhưng không thể
duyên ra trên Trí Bát Nhã, nên gọi là Diệm Huệ Địa.
Tổ Bàn Sơn
thượng đường: “Cái tâm-nguyệt một mình tròn vẹn kia, ánh sáng nuốt muôn
tượng. Ánh sáng chẳng phải chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn. Ánh sáng và
cảnh đều mất, đó là vật chi?”
Tổ Động Sơn
riêng nói rằng: “Ánh sáng và cảnh chưa mất, đó là vật gì?”
Tổ Bửu Phước
đem ra hỏi Ngài Trường Khánh: “Theo hai vị thì rốt cuộc chưa tuyệt hết,
vậy làm sao tuyệt hết đây?”
Ngài Trường
Khánh lặng im giây lâu.
Tổ Phước nói:
“Rõ ràng ông hướng vào trong hang quỷ mà sanh nhai!”
Ngài Khánh
hỏi: “Ông lại làm sao?”
Tổ Phước nói:
“Hai tay đỡ con trâu nước cao quá đầu gối!”
Ngài Thiên
Đồng nêu ra rằng: “Đều mất, chưa mất, đoạt người, đoạt cảnh. Vì sao Tổ Bảo
Phước không chịu Ngài Trường Khánh? Thái bình vốn do tướng quân đem lại,
chẳng để tướng quân thấy thái bình”.
Theo chỗ thấy
của Tổ Bửu Phước thì Diệm Huệ Địa cũng không cho yên níu, huyền lại càng
huyền vậy.
Kinh: “Hết
thảy có Đồng, có Khác không thể đến được, gọi là Nan Thắng Địa.
Thông rằng:
Trí của bậc chưa vào Địa gọi là Khác, Trí của bậc Đăng Địa gọi là Đồng,
tức như trong chỗ vốn Đồng lại có Đồng, Khác. Lìa dơ (Ly Cấu) là thanh
tịnh, mà thanh tịnh cùng tột thì sáng suốt sanh ra. Phát ra ánh sáng (Phát
Quang) là sáng suốt, mà sáng suốt cùng cực thì Giác đầy khắp. Chưa đến hết
mười phần thì còn có Đồng và Khác để nói; đã đến hết mười phần thì không
còn Đồng, Khác để chỉ ra. Như vàng đã có màu như cũ thì đâu còn thêm bớt,
theo đâu mà chỉ ra đó là Đồng, nương đâu mà chỉ ra đó là Khác? Đã không có
cái Khác để chỉ, tức phàm tình không thể đến. Đã không có cái Đồng để chỉ,
tức Thánh giải không thể đến.
Phàm tình có
thể đến, ắt cái phàm được hơn thắng. Thánh giải có thể đến, ắt cái Thánh
được hơn thắng. Nay thì hết thảy Đồng, Khác, Thánh, Phàm, Trí, Lự đều
chẳng thể đến. Cái đến đã không có thì cái gì vượt thắng đây ? Nên gọi là
Nan Thắng Địa.
Đức Phật nói:
“Nếu như có một pháp hơn cả Niết Bàn, ta cũng nói là như mộng huyễn”.
Niết Bàn như
thế là Pháp Tối Nan Thắng vậy.
Tổ Lâm Tế đến
Ngài Phụng Lâm.
Ngài hỏi: “Có
chuyện nhờ nhau, hỏi được chăng?”
Tổ Tế nói:
“Sao lại khoét thịt làm vết thương?”
Ngài Lâm nói:
“Biển trăng ngần không ảnh. Cá (lội) chơi riêng tự mê!”
Tổ Tế nói:
“Biển trăng đã không ảnh, cá (lội) chơi sao lại mê?”
Ngài Lâm nói:
“Xem gió nhìn sóng dậy. Ngắm trăng mặc buồm trôi”.
Tổ Tế nói: “Cô
luân [Vầng đơn độc] độc chiếu non sông lặng. Hú dài một tiếng đất trời
sầu”.
Ngài Lâm nói:
“Cứ đem “Ba Tấc” sáng trời đất. Một câu gặp chuyện (lâm cơ) nói ra xem”.
Tổ Tế nói:
“Đường gặp kiếm khách nên trình kiếm. Chẳng phải nhà thơ chẳng tặng thơ”.
Ngài Lâm bèn
thôi.
Tổ Tế bèn tụng
rằng:
“Đại đạo bặt đồng
Tùy ý Tây Đông
Lửa đá chẳng kịp
Điện quang không thông”.
Tổ Quy Sơn hỏi
Ngài Ngưỡng Sơn: “Lửa đá chẳng kịp, điện quang không thông thì từ xưa Chư
Thánh lấy gì mà vì người?”
Ngài Ngưỡng
nói: “Ý Hòa Thượng thế nào?”
Tổ Quy rằng:
“Chỉ có lời nói, toàn không thực nghĩa”.
Ngài Ngưỡng
nói: “Chẳng phải vậy”.
Tổ Quy nói:
“Vậy ông thế nào?”
Ngài Ngưỡng
nói: “Quan chẳng cầm kim, riêng thông xe ngựa”.
Đại để, Lâm Tế
cùng Phụng Lâm tương kiến, tuy là điển quang, lửa đá không thể thí dụ cho
nổi, mà Ngưỡng Sơn lại cho là riêng thông xe, ngựa. Chính đó là chỗ nói là
“Ngộ thì Ca Diếp chẳng che giấu, chẳng ngộ thì Như Lai có mật ngữ” vậy.
Cái chỗ “Hết
thảy Đồng, Khác không thể đến được” này nếu chẳng phải khế ngộ chân thực
thì ai rõ được chỗ Nan Thắng của nó ư?
Kinh: “Tánh
Chân Như vô vi thanh tịnh bày lộ rõ ràng, gọi là Hiện Tiền Địa.
Thông rằng:
Đồng, Khác chẳng đến được, không thể tạo tác. Đã không tạo tác, đó là Chân
Như. Tánh Chân Như này, nơi mê chẳng giảm bớt, nơi ngộ chẳng tăng thêm.
Chỉ vì Tình Kiến ô nhiễm mà chẳng bày lộ rỡ ràng. Duy chỉ thanh tịnh cùng
tột, sáng suốt cùng tột liền “tròn vo vo, sáng rỡ rỡ, trong leo lẻo” không
thể cầm nắm. Cái thể tịch diệt liền được hiện tiền, nên gọi là Hiện Tiền
Địa.
Ngài Đại An
sắp qua đất Hồng Châu, trên đường qua khỏi huyện Thượng Nguyên thì gặp một
ông già bảo rằng: “Ông sang Nam Xương sẽ có chỗ đắc”.
Ngài An bèn
đến Tổ Bá Trượng, làm lễ mà hỏi: “Kẻ học nhơn muốn cầu biết Phật, cái ấy
là gì?”
Tổ Trượng nói:
“Thật như cỡi trâu lại tìm trâu!”
Ngài An ngay
nơi lời nói có tỉnh ngộ, hỏi rằng: “Biết được rồi thì như thế nào ?”
Tổ Trượng nói:
“Cũng giống cỡi trâu về nhà”.
Ngài An nói:
“Chưa rõ trước sau giữ gìn thế nào?”
Tổ Trượng
rằng: “Như người chăn trâu cầm roi trông coi, khiến chẳng động đến lúa mạ
của người”.
Ngài Đại An từ
đó lãnh nhận ý chỉ, chẳng còn tìm kiếm, sau kế pháp trụ trì ngọn Quy Sơn.
Ngài thượng
đường, nói: “Hết thảy các ông đều tìm đến An này, để tìm kiếm cái gì thế?
Như muốn làm Phật, chính ông tự là Phật. Vác Phật chạy qua nhà người, khác
nào con nai khát nước đuổi theo bóng nắng, bao giờ mới được tương ưng đây?
Ông muốn làm Phật, chỉ việc không có những thứ điên đảo, bám níu, vọng
tưởng, ác giác, dơ sạch là cái tâm chúng sanh, thì đó bèn là Sơ Tâm Phật
Chánh Giác. Còn hướng đi đâu nữa mà toan tính? Bởi thế mà An này ở Quy Sơn
ba mươi năm, ăn gạo Quy Sơn, đi phân Quy Sơn mà chẳng học thiền Quy Sơn.
Chỉ trông coi một con trâu đực, nếu lạc đường vào cỏ liền nắm mũi kéo lui,
vừa phạm đến lúa mạ người liền roi vọt ngay, đã lâu điều phục. Khá thương
kiếp sanh ra chịu lời lẽ của người, như nay hóa thành con trâu trắng bày
lộ rỡ ràng, thường ngay trước mặt, suốt ngày bày hiện sờ sờ ra đó, đuổi
chẳng chịu đi.
“Này các ông,
mỗi người đều hiện đang tự có vật báu vô giá, từ cửa mắt phóng ánh sáng
soi suốt đất đai, sông núi. Nơi cửa tai phóng ánh sáng, gồm góp hết thảy
tiếng vang lành dữ. Sáu cửa như thế, ngày đêm thường phóng ra ánh sáng rực
rỡ, cũng gọi là Phóng Quang Tam Muội.
“Ông chẳng tự
biết giữ lấy, nó hiện ẩn trong thân tứ đại, giúp giữ trong ngoài, khiến
chẳng nghiêng ngã. Ví như người mang nặng qua cầu độc mộc, nó khiến khỏi
trợt chân. Hãy nói đó là vật gì kham giữ mà được như thế? Lại không có mảy
tơ để có thể thấy! Há chẳng nghe Hòa Thượng Chí Công nói: “Trong ngoài tìm
kiếm rốt lại không. Trên cảnh rộn ràng toàn thực có”. Trân trọng!”
Có nhà sư đến
hỏi Ngài Đại Ninh Khoan: “Như sao là trâu trắng sờ sờ?
Ngài Khoan lấy
đũa gắp lửa khươi trong lò, nói: “Hiểu ư ?”
Nhà sư nói:
“Dạ, chẳng hiểu”.
Ngài nói: “Đầu
chẳng thiếu, đuôi chẳng dư”.
Hai vị tôn túc
trên nói việc tánh thanh tịnh bày lộ rõ ràng một cách vui khoái, đáng cùng
nhau lên Hiện Tiền Địa vậy.
Kinh: “Cùng
tột bờ cõi Chân Như, gọi là Viễn Hành Địa.
Thông rằng:
Thanh tịnh chưa cùng tột, sáng suốt chưa cùng tột, cái Đồng, Khác có thể
đến thì chẳng thể gọi là bờ cõi Chân Như. Đồng, Khác đã mất, sanh diệt đã
diệt, Chân Như vô vi đã bày lộ rõ ràng đã lâu, trong ngoài rỗng suốt, tột
mười phương thế giới đều là bờ cõi Chân Như, khắp hư không, đầy Pháp Giới,
toàn thể trình bày hiển lộ thì chẳng chỉ có hiện tiền mà thôi vậy.
Lý vốn không
bờ mé, cái bờ cỏi không bờ mé kia mới là bờ cõi Chân Như. Chân Như không
bờ mé thì hành cái Hành của Chân Như, há có xa gần ư ? Gọi đó là Viễn Hành
là để rõ rằng sức người chẳng thể đến được.
Hễ cái mà hành
có thể đến được thì tuy tích lũy qua năm tháng, cũng chẳng gọi là Viễn
[Xa]. Chỉ cái mà hành không thể đến được mới gọi là Chân Viễn. Giống như
thí dụ của Trang Tử, ở nước Kiến Đức, trông ra chẳng thấy bến bờ, đi khắp
mà không chỗ cùng tột. Tiễn đưa người đi, đều đến bến bờ rồi lui, từ đây
người xa vậy. Thí dụ đủ hình dung cái Địa này.
Có nhà sư hỏi
Thượng Lam Hòa Thượng: “Đồng tử Thiện Tài sau khi ra mắt đức Văn Thù, vì
sao lại qua phương Nam?”
Ngài nói: “Học
ở nơi nhập thất. Biết mới khắp suốt thông”.
Nhà sư hỏi:
“Đến thành Tô Ma vì sao Đức Di Lặc trở lại bảo ra mắt Đức Văn Thù?”
Ngài nói: “Đạo
rộng không bờ, gặp người bất tận”.
Ngài Đầu Tử
nêu ra rằng: “Đạo không mê, ngộ; Pháp chứng do thầy. Chẳng trụ Thánh,
phàm; trang nghiêm diệu hạnh. Bởi thế Văn Thù khiến đi lên núi Tu Di, bờ
biển gặp thầy, chợ triền lễ bạn. Hoặc núi đao, phường điếm, tù tội, cung
ma. Hoặc đồng nữ, đồng nam, Cù Di Thánh Hậu. Di Lặc khảy móng tay, Phổ
Hiền đích thân chiêm ngưỡng. Trở lại ra mắt Văn Thù lại có chuyện gì đây?
Tin thì biết: khắp nơi là bạn, đạo rộng không bờ, chẳng mờ dấu sáng, khắp
chốn cùng tột nhiệm mầu. Này các nhân giả, lại biết chăng còn có một người
mà vì sao Thiện Tài chẳng đến ra mắt (tham)? Thử nói đó là người nào?”
Giây lâu, Ngài
nói:
“Đầy đầu tóc bạc lìa hang núi
Khuya tối xuyên mây vào chợ triền”.
Tụng rằng:
“Mặt trời lên không, khắp thấp cao
Chi nhánh Côn Luân các sông vào
Núi xuân mây gió hòa vô tận
Nhạn bỏ về Nam đất trời sầu”.
Đây có thể làm
khuôn mẫu của Viễn Hành Địa, vì thấu suốt hết thảy pháp, cùng tột bờ cõi
Chân Như vậy.
Kinh: “Một Tâm
Chân Như gọi là Bất Động Địa.
Thông rằng:
Cùng tột bờ cõi Chân Như, phóng ra thì khắp cùng vũ trụ. Một Tâm Chân Như,
cuốn lại thì không vết. Hành không vết tích, đó gọi là Viễn Hành. Đã cùng
tột bờ cõi Chân Như tức là tròn vẹn cái thể, ứng hiện muôn loài mà Chân
Như chẳng động.
Cái Bất Động
Địa này là trong chỗ Viễn Hành mà thấy vốn chẳng động vậy. Bờ cõi (tế)
chính là Tâm, Tâm chính là bờ cõi. Mé (tế) trước, mé giữa, mé sau, ba bờ
mé đều bất khả đắc. Quá khứ, hiện tại, vị lai, ba tâm đều bất khả đắc. Rốt
đây toàn một Chân Như thì có cái gì là đi, gì là dừng, gì là động, gì là
bất động ư ? Tuyệt không động tịnh, thế mới có thể nói là Chân Bất Động
vậy.
Thiền sư Đông
Kinh Tuấn ban đầu ra mắt Tổ Đầu Tử.
Tổ hỏi: “Đêm
qua ngụ chốn nào?”
Ngài Tuấn nói:
“Đạo tràng bất động”.
Tổ nói: “Đã
nói bất động, do gì đến đây?”
Ngài Tuấn nói:
“Đến đây há có động sao?”
Tổ nói: “Thì
vốn ngụ chỗ chẳng dính bám”.
Bèn im lặng
hứa khả cho.
Tổ Tịnh Từ
Phật Hạnh thượng đường, nói: “Nhạn qua trời không, ảnh lồng nước lạnh.
Nhạn không có ý để lại dấu vết, nước không có tâm lưu giữ bóng hình. Được
là như thế mới nên mua giày cỏ du phương. Bởi vậy, mới nói “Động thì bóng
liền hiện, biết tức thì băng sanh” Còn chẳng động, chẳng biết thì thật ở
trong Nước Chết [Ngoan Không]. Ông Lão Tiến Phúc [Phật] xuất đầu chẳng
được thì hãy để đó, thế ông A Dục Vương ngày nay lại làm sao?”
Hướng đạo, chớ
đi đường dưới núi
Quả nhiên vượn
hú tiếng đoạn trường.
Bất Động Địa
đây cần phải tự thân thấu đến một lần mới được. Chẳng thế thì mấy ai không
ngồi trong Nước Chết mà làm kế sống!
Kinh: “Phát
cái Dụng Chân Như, gọi là Thiện Tuệ Địa.
“Anan, các vị
Bồ Tát đó từ đây về trước công hạnh tu tập đã xong, công đức viên mãn.
Cũng gọi Địa này là Tu Tập Vị.
Thông rằng: Từ
Tâm Chân Như phát cái Dụng Chân Như. Đó là Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí, Nhất
Thiết Trí, Tứ Vô Ngại Trí diễn nói vô lượng a tăng kỳ các nghĩa không có
cùng tận. Làm đại pháp sư khắp độ sanh linh, Trí Bi đồng vận dụng, ứng
thời hợp tiết, nên gọi là Thiện Huệ.
Diệm Huệ Địa ở
trước thì chỉ nói “Ánh sáng rực rỡ của chính mình”, nay Thiện Huệ Địa thì
lấy thiện pháp ban bố cho người, hiển bày cái Dụng của Huệï nên chẳng
đồng.
Từ Viễn Hành
Địa đến Bất Động Địa thì đã chứng Tịch Diệt, Vô Công Dụng Đạo sao còn gọi
Địa này là Tu Tập Vị? Vì sau Thập Địa công đức viên mãn mà so ra thì còn
thiếu đôi phần nên gọi Địa này là Tu Tập Vị. Nghĩa là bắt đầu phát cái
Dụng của Huệ, chưa quên cái Huệ, so với Pháp Vân Địa trùm khắp không thiếu
không dư, thì hình như còn khoảng cách vậy. Lại nữa, đây tu mà không tu,
tập mà không tập, như thuyền sắp đến bờ, sào, chèo chẳng dùng mà vẫn còn
trong sự vận hành vậy.
Ngài Ngưỡng
Sơn một hôm đang nằm, mộng thấy vào nội viện của Đức Di Lặc, mọi vị trí
đều đủ người, chỉ có tòa Thứ Hai còn trống. Ngài Ngưỡng Sơn bèn đến ngồi.
Có một vị Tôn
Giả bạch chùy [Đánh bản], nói: “Nay là Đệ Nhị Tòa thuyết pháp”.
Ngài đứng lên
bạch chùy, nói: “Đại thừa pháp, lìa Tứ Cú, tuyệt Bách Phi, nghe kỹ, nghe
kỹ!”
Đại chúng giải
tán.
Khi tỉnh dậy,
Ngài kể lại cho Tổ Quy Sơn nghe.
Tổ nói : “Ông
đã vào Thánh Vị”.
Ngài bèn làm
lễ.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng :
“Mộng về được dịp thăm kỳ cựu
Bên phải chư Thánh ngồi thật đông
Từ
bi chẳng sụt, đánh bản kêu
Thuyết pháp Vô Úy, sư tử rống
Tâm an như biển, lượng chứa như đấu
Mắt cá giao lệ rơi, ruột trai phanh lòi ngọc
Lời mộng ai hay lộ cơ ta
Ông lão nên cười việc bày xấu nhà mình
Lìa “tứ cú” tuyệt “bách phi”
Cha con thầy Quy bệnh hết chữa!”.
Ngài Ngưỡng
Sơn trong mộng phát cái Dụng Chân Như, nào mượn tu tập. Tổ Quy Sơn tự mình
ấn chứng cho. Do đó mà biết: Nhân Vị thì đã liễu, còn Tín Vị không đủ nói
vậy.
Kinh: “Bóng Từ
mây Diệu trùm biển Niết Bàn, gọi là Pháp Vân Địa.
Thông rằng:
Công đức Trí Huệ viên mãn, không còn tự lợi, thuần ròng lợi tha nên bóng
mát của đại từ đầy ắp khắp Pháp Giới. Vô Tâm, Vô Duyên mà ứng với tâm
duyên tất cả. Ban rải lợi ích thấm nhuần mà vốn tịch diệt không tạo tác.
Như mây trùm trải vô tâm, che khắp tất cả.
Bảo rằng mây
Diệu tức cái Diệu của Tánh Giác diệu minh. Từ vốn là tự Diệu, chẳng mượn
tu tập nên gọi là che trùm biển Niết Bàn vậy. Tự Tánh Niết Bàn, vốn không
sanh diệt, mây từ của biển Giác xứng Tánh mà khởi ra, cũng không sanh
diệt. Tất cả chúng sanh vốn ở trong Niết Bàn, lại khiến chúng sanh chứng
quả Niết Bàn: như thế mà che, như thế mà trùm, không thiếu không dư mới có
thể xưng là Diệu vậy.
Pháp mà thí dụ
như mây vì Pháp vốn vô tâm. Mây mà tương hệ với Pháp thì tức mây tức Pháp,
nên chẳng nói là cái Dụng của Huệ mà chỉ nói là mây. Vì đã hồn đồng tạo
vật, chẳng còn cái Thấy có hai.
Pháp Vân Địa
này gần với Phật Địa, gọi là quán Đảnh Bồ Tát Vị.
Đức Lục Tổ
khai thị đại chúng rằng: “Này các thiện tri thức, nếu muốn thể nhập pháp
giới thậm thâm cùng Bát Nhã Tam Muội, hãy tu hạnh Bát Nhã, trì tụng kinh
Kim Cang Bát Nhã liền được thấy Tánh. Phải biết kinh này công đức vô lượng
vô biên, trong kinh rõ ràng tán thán không thể nói hết. Pháp môn đây là
Tối Thượng Thừa, vì người đại trí mà nói, vì người thượng căn mà nói.
Người ít căn, ít trí nghe qua sanh lòng chẳng tin. Vì sao thế?
“Ví như rồng
lớn làm mưa ở cõi Diêm Phù Đề thì thành, ấp, xóm làng thảy đều trôi hết
như cỏ lá trôi dạt, nhưng mưa ở biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt. Như
người Đại Thừa, như người Tối Thượng Thừa nghe thuyết kinh Kim Cang thì
Tâm khai tỏ ngộ. Do đó mà biết Bổn Tánh tự có Trí Bát Nhã, tự dùng Trí Huệ
thường quán chiếu, không mượn nhờ văn tự. Ví như nước mưa, chẳng phải từ
trời mà có, nguyên là do rồng tạo ra, khiến hết thảy chúng sanh, hết thảy
thảo mộc, hữu tình, vô tình đều đã thấm nhuần. Trăm sông, ngàn suối đều
vào biển cả, hợp làm một thể. Bản Tánh chúng sanh tức là Trí Huệ Bát Nhã
cũng lại như thế.
“Này các thiện
trí thức! Người căn ít nghe qua Đốn Giáo này đây thì cũng như cỏ cây, căn
tánh nhỏ mà bị mưa lớn ắt đều nghiêng ngã, chẳng thể tăng trưởng. Người ít
căn cũng như vậy đó, vốn có Trí Bát Nhã không khác gì người đại trí, vậy
cớ sao nghe pháp chẳng tự khai ngộ? Bởi vì tà kiến nặng nề ngăn ngại, gốc
rễ phiền não sâu dày. Giống như đám mây lớn che mặt trời, nếu không được
gió thổi đi thì ánh sáng mặt trời chẳng hiện.
“Cái Trí Bát
Nhã vốn không có lớn, có nhỏ. Chỉ vì tất cả chúng sanh tâm họ mê ngộ chẳng
đồng. Mê lầm cái Tâm, ở ngoài mà thấy, tu hành tìm Phật, chưa ngộ Tự Tánh
tức là căn ít. Như khai ngộ Đốn Giáo, chẳng chấp vào bên ngoài mà tu, chỉ
trong Tự Tâm thường khởi chánh kiến, trần lao phiền não thường chẳng có
thể nhiễm dính, tức là Thấy Tánh.
“Này các thiện
trí thức, trong ngoài chẳng trụ, đến đi tự do, hay trừ tâm bám nắm, thấu
suốt không ngại. Thường tu hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã vốn không có
gì sai khác”.
Đức Lục Tổ
chẳng biết một chữ mà thuyết pháp như mây, như mưa. Lại có thể phân biệt
chỗ khác nhau của căn khí lớn, nhỏ nơi người nghe pháp, cũng đủ bổ sung
chỗ chưa nói rõ thêm về Bậc Thập Địa vậy.
VIII. ĐẲNG GIÁC VÀ DIỆU GIÁC
Kinh: “Như Lai
ngược dòng, còn vị Bồ Tát như thế thuận dòng mà đến. Ranh giới của Giác
thể nhập vào nhau, gọi là Đẳng Giác.
“Anan, từ Tâm
Càn Huệ đến Đẳng Giác rồi, cái Giác này mới được Sơ Càn Huệ Địa trong Tâm
Kim Cương.
Thông rằng:
Quyền Trí (Hậu Đắc Trí) của Như Lai, xuống tùy theo cơ cảm nên ngược dòng
mà ra. Thực Trí của Bồ Tát (Căn Bản Trí) lên mà hợp với Giác Tâm nên thuận
dòng mà vào. Kinh Anh Lạc nói: “Đẳng Giác chiếu tịch, Diệu Giác tịch
chiếu”, tức là nghĩa này. Ranh giới của hai Giác nên gọi là nhập vào nhau.
Thể nhập vào nhau tức là tiếp hợp với dòng nước pháp của Như Lai vậy. Bèn
ở chỗ này gọi là Đẳng Giác Vị, tức nói cái Giác cùng Như Lai bình đẳng
không sai khác, chỉ chưa cùng tột trong chỗ Diệu đó thôi. Tức thời từ biển
Đại Tịch Diệt ngược dòng mà ra, Diệu đồng khắp vạn vật, mới gọi là Diệu
Giác.
Sơ Càn Huệ Địa
trong Tâm Kim Cương tức là Tâm Càn Huệ ở trước, sao đến đây mới được ư?
Chưa cùng dòng nước pháp tiếp hợp thì chỉ mới có cái Không Kiến về Thể. Đã
cùng dòng nước pháp tiếp hợp mới là chứng nghiệm cái Thật. Như ánh sáng
của trăng non đã lộ ít nhiều hình tướng tròn sáng, vốn chẳng phải thiếu
kém, rồi đến lưỡi liềm, rồi đến trăng rằm mới đầy đủ tướng tròn sáng. Đó
cũng chỉ là tướng tròn sáng lúc mới đầu, chẳng phải là hai vậy.
Kim Cương là
nói do phá tan các pháp mà có tên. Các pháp có thể phá hoại, độc chỉ cái
Huệ Kim Cương này không thể phá hoại. Ở trước là muốn tu tập cái Sơ Càn
thuần là Trí Huệ, Trí Huệ đó không hai, chỉ có cái khô [Càn] là không cùng
tận. Từ địa vị Thứ Mười trở về trước, cứ lấy một địa để phá hoại một địa,
cho đến khi không có một pháp nào để đắc, nên nói: “Cái Giác này mới được
Sơ Càn Huệ Địa trong Tâm Kim Cương”. Kinh Niết Bàn nói “Phát tâm và rốt
ráo, hai cái chẳng khác nhau”, là nói chỗ này ư?
Nhà sư hỏi Tổ
Hoàng Bá: “Tâm xưa nay đã là Phật lại còn tu Lục Độ Vạn Hạnh không?”
Tổ Hoàng Bá
nói: “Ngộ ở nơi Tâm, chẳng liên quan gì Lục Độ, Vạn Hạnh. Lục Độ, Vạn Hạnh
là chuyện bên phía tiếp vật độ sanh của Pháp Hóa Độ. Giả sử Bồ Đề, Chân
Như, Thực Tế, Pháp Thân giải thoát cho đến Thập Địa, Thánh Vị, Tứ Quả cũng
đều là pháp môn Hóa Độ, chẳng liên quan gì đến Phật Tâm. Tâm tức là Phật,
bởi thế trong tất cả độ môn thì Phật Tâm là Đệ Nhất. Chỉ không có hết thảy
các tâm phiền não, sanh tử... thì chẳng dùng chi các pháp Bồ Đề, Giải
Thoát... Bởi thế, nói rằng “Phật thuyết tất cả pháp để độ cho tất cả tâm
của mình. Mình không có tất cả tâm thì đâu dùng tất cả pháp”.
“Từ Phật đến
Tổ, đều chẳng luận bàn việc gì khác. Độc chỉ luận Nhất Tâm, cũng gọi là
Nhất Thừa. Bởi thế, mười phương cầu Chân Thật thì không còn Thừa nào khác.
Chỉ những người Chân Thật đó mới không lạc vào cành lá rườm rà. Thế nên ý
này khó tin!”
Đức Đạt Ma qua
đất này, đến hai nước Lương, Ngụy chỉ có một mình Khả đại sư thầm kín tin
lấy Tự Tâm, ngay nơi lời nói liền trực nhận tức Tâm là Phật, thân tâm đều
không, ấy là Đại Đạo. Đại Đạo xưa nay bình đẳng, do vì tin sâu trọn hết
sanh linh đồng một Chân Tánh. Tâm với Tánh chẳng khác nhau, tức Tánh tức
Tâm. Tâm chẳng khác Tánh, gọi đó là Tổ. Bởi thế nói rằng “Khi nhận được
Tâm Tánh có thể nói là không thể nghĩ bàn. Chính cái Tâm chẳng khác Tánh
ấy gọi đó là Tổ”.
Có thể thấy
rằng khi cái cảnh tượng Ranh giới Giác Ngộ thể nhập vào nhau thì mọi thềm
bậc trước kia hoàn toàn không liên quan gì nữa, chỉ là Nhất Tâm, cùng Phật
không khác.
Kinh: “Lớp lớp
như vậy, đơn hay kép mười hai địa vị, mới cùng tột Diệu Giác, thành Vô
Thượng Đạo.
Thông rằng:
Đơn có bảy địa vị, đó là Càn Huệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất, Đẳng Giác
và Diệu Giác.
Kép có năm địa
vị, đó là Tín, Trụ, Hạnh, Hướng và Địa.
Mỗi địa vị lại
có mười bậc nên gọi là kép. Lớp lớp như vậy, tiệm tu tiệm chứng, gồm tất
cả mười hai tầng bậc mới đến Diệu Giác mà thành Vô Thượng Đạo. Nên bậc
Đẳng Giác vẫn còn ở địa vị Thứ Mười Một nên chưa cùng tột, chỉ có địa vị
Thứ Mười Hai mới cùng tột vậy.
Cái Diệu này
há có thêm cho Càn Huệ ư? Thật ra chỉ là Càn Huệ nhưng chà xát lau chùi
cho rực rỡ trong trẻo thì hiển bày cái Diệu. Hiệp Luận nói: “Ba đời Chư
Như Lai trao truyền cái pháp thức tu chứng cho tất cả Bồ Tát: Chọn lựa lực
dụng sâu cạn, phân biệt các chỗ sai biệt của các địa vị. Bắt đầu từ Thập
Tín nhưng vì cái Tín này còn thuộc sanh diệt nên phải trụ tâm, bèn lập ra
Thập Trụ. Lại vì Trụ còn thiếu vốn liếng để phát khởi cái Dụng của phương
tiện nên thành tựu hạnh tâm, bèn lập ra Thập Hạnh. Lại vì Hạnh này mới chỉ
tự lợi, chưa phổ cập đến chúng sanh, nên bày việc Hồi Hướng, bèn lập ra
Thập Hồi Hướng”.
Từ Thập Tín
cho đến Trụ, Hạnh, Hồi Hướng là địa vị Tam Hiền. Lại từ Tam Hiền thì lên
Sơ Địa, vì Đại Từ Đại Bi phát sanh, được nuôi dưỡng sum xuê tươi tốt cho
thành tựu mà có tên là Địa. Ở Sơ Địa mới cho là chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn,
cho đến hết Thập Địa, do công hiệu mài xát, tôi luyện các tập khí còn sót
bèn đồng đẳng với Chân Như Bản Giác, nên gọi là Đẳng Giác. Giống như Kinh
Dịch nói “Cùng Thần tri hóa” vậy. Đến khi nhập Diệu Giác thì chỉ Một mà
thôi, không có tướng nào nữa. Như chỉ nói là Thần thôi vậy.
Chỗ đặc biệt
của kinh này là trước Thập Tín có thêm Càn Huệ Địa; trước Thập Địa lại
thêm Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất Địa.
Kinh Hoa
Nghiêm, ở Thập Trụ nói là chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Các kinh khác thì nói
chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn ở Thập Địa. Tất cả còn ở trong số năm mươi lăm địa
vị. Đức Thế Tôn ở chỗ này bèn lập ra ba món tiệm thứ, chứng Vô Sanh Pháp
Nhẫn. Ba món tiệm thứ là phương tiện an lập, ra ngoài số năm mươi lăm kia.
Ý của Đức Thế Tôn là muốn khai thị theo phàm phu để có thể thật chứng Pháp
vậy.
Tổ Hoàng Bá
nói với Ông Bùi Hưu rằng: “Phật cùng chúng sanh thật không sai khác. Chỉ
vì chúng sanh bám tướng cầu ngoài. Càng cầu càng thêm mất, đem Phật mà tìm
Phật, lấy Tâm mà bắt Tâm, cùng kiếp hết đời, rốt chẳng thể được. Chẳng
biết là dứt nghĩ quên suy thì Phật tự hiện tiền. Tâm đây chính là Phật.
Phật tức là chúng sanh. Khi là chúng sanh, Tâm đây chẳng giảm. Khi là
Phật, Tâm đây chẳng thêm. Cho đến hằng sa công đức, Lục Độ, Vạn Hạnh vốn
tự sẵn đủ, chẳng nương mượn tu để có thêm. Gặp duyên thì bày trải, hết
duyên thì lặng yên.
“Nếu chẳng
quyết định tin đây là Phật mà muốn bám tướng tu hành để cầu công dụng, đó
đều là vọng tưởng, cùng với Đạo tự trái. Tâm đây tức là Phật, chẳng có
Phật nào khác, cũng chẳng có Tâm nào khác. Tâm này sáng sạch, dường như hư
không, không có một điểm tướng mạo. Khởi tâm, động niệm liền trái Pháp
Thể, tức liền bám tướng. Từ vô thủy đến nay không có Phật bám tướng! Tu
Lục Độ, Vạn Hạnh muốn cầu thành Phật tức là thứ lớp. Từ vô thủy đến nay
không có Phật thứ lớp! Chỉ ngộ Nhất Tâm, rốt không chút pháp gì khá đắc,
đó là Chân Phật.
“Phật cùng
chúng sanh, Một Tâm không khác. Giống như hư không, không xen tạp, không
hư hoại. Như mặt trời chiếu khắp bốn thiên hạ. Khi mặt trời lên cao, sáng
khắp thiên hạ, hư không chẳng hề sáng. Khi mặt trời lặn, tối khắp thiên
hạ, hư không chẳng hề tối. Cảnh sáng cảnh tối tự lấn đoạt nhau, cái tánh
của hư không rỗng nhiên chẳng đổi. Tâm của Phật cùng chúng sanh cũng như
thế. Nếu xem thấy Phật cho là cái tướng trong sạch, sáng rỡ, giải thoát;
xem thấy chúng sanh cho là tướng dơ bẩn, tối tăm, sanh tử, khởi cái thấy
hiểu như vậy thì trải qua hằng sa kiếp rốt cuộc chẳng nắm được Bồ Đề, vì
bám tướng vậy. Độc chỉ Nhất Tâm đây, ngoài ra chẳng có vi trần pháp nào có
thể đắc. Tức Tâm là Phật!”
Nhiệm mầu
thay! Nhiệm mầu thay! Chẳng phải Tổ Hoàng Bá thật chứng Diệu Giác, không
rơi vào tầng bậc thì làm sao thông suốt như thế? Đã lời dạy này mà lưu
lại, để gần với ý chỉ Viên Đốn của kinh này bởi cả hai chẳng ngại nhau
vậy.
Kinh: “Các thứ
Địa này đều dùng Trí Kim Cương quán sát Như Huyễn mười thứ ví dụ sâu xa.
Trong Xa Ma tha (Chỉ) dùng Tỳ Bà Xá Na (Quán) của Chư Phật mà thanh tịnh
tu chứng, lần lượt tu nhập.
“Anan, như thế
đều dùng ba tiệm thứ tăng tiến, khéo có thể thành tựu năm mươi lăm Vị của
con đường Bồ Đề Chân Thật.
“Làm cái Quán
như vậy, gọi là Chánh Quán. Nếu Quán khác đi gọi là Tà Quán.
Thông rằng:
Mười thứ thí dụ sâu xa là nên Quán rằng:
1. Hết thảy
nghiệp như huyễn;
2. Hết thảy
pháp như bóng hơi nóng [Diệm];
3. Hết thảy
tánh như bóng trăng trong nước;
4. Sắc diệu
như hư không;
5. Tiếng diệu
như vang;
6. Quốc độ
Chư Phật như thành Càn Thát Bà;
7. Phật sự
như mộng;
8. Phật Thân
như ảnh;
9. Báo Thân
như hình tượng;
10. Pháp Thân
như hoá.
Tất cả đều
không thể nắm, bỏ bởi vì tất cả Không vậy. Thâm nhập cái Không này mới gọi
là Thật Tướng. Đây chẳng phải là cái Pháp làm ra nên vốn không hoại diệt.
Nếu khác với cái Quán này tức là pháp sanh diệt. Ở đây không chỉ Quán Pháp
hữu vi như mộng, huyễn, bọt nước, bóng dáng mà cho đến Quán Pháp Thân Phật
cũng như mộng, huyễn, bọt nước, bóng dáng nên là ví dụ thâm sâu.
Quán sát như
thế thì chẳng phải Quán Pháp của Tiểu Thừa có thể so được, mà đó là Diệu
Quan Sát Trí của Như Lai, sẵn đủ Kim Cương Huệ: do Tịch nên Chiếu, do Chỉ
nên Quán. Giống như nước thật trong chẳng nhiễm một chút bẩn, như gương
tột sạch chẳng dung một hạt bụi. Lấy đó mà tu thì tu mà không tu. Lấy đó
mà chứng thì chứng mà không chứng. Nên do Càn Huệ lần lượt thâm nhập cho
đến Diệu Giác, đều chẳng rời cái Trí Kim Cương quán sát này. Địa địa đều
hoại, pháp pháp đều khô [Càn] nên hợp với Diệu Giác.
Thí dụ sâu xa
như thế, thâm nhập như thế, đâu có ra ngoài ba tiệm thứ tăng tiến, nghịch
dòng toàn nhất, chờ đến được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Theo đó tiệm tu, tùy chỗ
hành phát mà an lập Thánh Vị, khéo thành tựu năm mươi lăm địa vị của con
đường Bồ Đề Chân Thật.
Tín, Trụ,
Hạnh, Hướng, Địa là năm mươi, cọng với Càn Huệ và bốn Gia Hạnh là năm mươi
lăm. Không nói đến hai Địa vị Đẳng Giác và Diệu Giác, vì hai Giác chính là
Chân Bồ Đề, là Giác chứ chẳng còn là con đường. Năm mươi lăm địa vị là
nguyên do, là con đường nhập Giác vậy.
Mười phương
Như Lai thành tựu Bồ Đề đều có phương tiện ban đầu là Xa Ma Tha, Tam Ma
Bát Đề, Thiền Na mầu nhiệm. Cho đến Trí Kim Cương Quán Sát, Như Huyễn Tam
Muội thì chỉ Đức Quán Thế Âm là Đệ Nhất. Do đó, năm mươi lăm Vị của con
đường Bồ Đề cũng do trong ba tiệm thứ tăng tiến, ngược dòng toàn nhất. Bắt
đầu là xoay lại cái Nghe, cái phương tiện tối sơ này cũng là Như Huyễn
Quán Sát theo thứ lớp: hết Nghe cũng chẳng trụ, Giác và Sở Giác đều Không;
Không, Sở Không diệt, sanh diệt đã diệt đó là Tịch Diệt Hiện Tiền.
Làm cái Quán
như thế đó là Một đường vào Niết Bàn của mười phương Chư Phật. Nếu Quán
khác đi, chẳng trụ trong mười thứ thí dụ sâu xa của Kim Cang Quán Sát tức
thuộc về sanh diệt, tức là Tà Quán vậy.
Ngài Trừng
Quán [Tổ Thứ Tư Tông Hoa Nghiêm] đời Đường có bài kệ Trụ Địa Tu Chứng:
“Tu tập “không hoa” vạn hạnh
Yên ngồi “trăng nước” đạo tràng
Hàng phục Thiên Ma “gương ảnh”
Chứng đắc Phật Quả “trong mộng””.
Cũng nói lên
vắn tắt mười thứ ví dụ sâu xa.
Tổ Giáp Sơn
thượng đường: “Từ khi có Tổ đến nay, người đời lầm hiểu. Cùng nhau thừa
thọ cho đến nay, cứ lấy lời lẽ của Phật, Tổ làm kiểu mẫu cho người. Nếu mà
như thế tức thành người cuồng, là người không có Trí vậy.
“Kia chỉ bày
dạy rằng: “Ông không có pháp, cái không có pháp đó là Đạo. Đạo không có
pháp gì, không có Phật để thành, không có Đạo để đắc, không có pháp để
nắm, không có pháp để bỏ.
“Bởi thế, lão
tăng này nói rằng: Trước mắt không có pháp, trước mắt là ý. Cái kia chẳng
phải là pháp trước mắt. Nếu hướng về phía Phật, Tổ mà học thì người đó
chưa ở chỗ đầy đủ con mắt. Sao thế? Vì đều thuộc về chỗ nương dựa, chẳng
có tự tại, đó chỉ là gốc rễ sanh tử mang mang, là cái thức tánh trói buộc.
Ngàn dặm muôn dặm tìm cầu thiện trí thức, phải cần đầy đủ cái Chánh Nhãn,
cầu thoát cái Thấy Biết sai dối. Xác định lấy sanh tử trước mắt là thực có
hay là thực không? Ai mà định được, cho người ấy thoát thân! Người thượng
căn nghe xong, rõ Đạo; người trung, hạ căn lại bôn ba theo sóng. Sao chẳng
hướng về trong sanh tử mà định ngay ra? Còn chỗ nào đi mong Phật, mong Tổ
dẹp bỏ Sanh Tử cho nữa bây giờ! Người trí cười vào mũi ông.
Như chưa chịu
hiểu thì nghe bài tụng:
“Nhọc giữ pháp sanh tử
Chỉ hướng phía Phật cầu
Mê
Chánh Lý trước mắt
Khươi lửa tìm bọt sao?”.
Chỗ này có thể
làm cái cân để định Chánh Quán hay Tà Quán vậy. |