PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG
MỤC BA: CHỈ DẠY TÊN KINH
Kinh: Bấy giờ
Ngài Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: “Phải gọi tên kinh
này là gì? Tôi cùng chúng sanh phụng trì như thế nào?”
Phật bảo Ngài
Văn Thù Sư Lợi: “Kinh này tên là Đại Phật Đảnh Tất Đát Đa Bát Đát Ra, Vô
Thượng Bảo Ấn, Thập Phương Như Lai Thanh Tịnh Hải Nhãn”.
Thông rằng: Từ
chỗ ban đầu phân biệt chọn lựa hẳn Chân, Vọng, tuyên bày Tánh Chân Thắng
Nghĩa trong Thắng Nghĩa, là Kiến Đạo Phần. Từ chỗ muốn do cửa mà vào nhà
rực rỡ của Thiên Vương, lựa chọn hai mươi lăm Viên Thông, cho đến phụng
trì thần chú Phật Đảnh là Tu Đạo Phần. Lại từ chỗ phàm phu rốt đến Đại
Niết Bàn, chỉ rõ con đường chân chánh tu hành vô thượng là Chứng Quả Phần.
Ý chỉ lớn lao của bộ kinh đủ rồi vậy. Nên Ngài Văn Thù nhân đấy mà thưa
hỏi.
Đã hỏi tên
kinh tức là phải phụng trì mà thành phần Lưu Thông, cớ sao có những điều
chưa phát huy ra hết mà lại hỏi tên kinh ? Bởi vì, năm mươi lăm vị của con
đường Bồ Đề Chân Chánh đó thật là nhân chánh, quả chánh. Chỉ là chẳng rõ
Chân Tâm, tu tập lầm loạn nên mới có luân chuyển các nẻo địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, Tu La, người, Trời vậy. Hai mươi lăm Viên Thông đều trong
Tam Ma Địa, vốn không có chuyện Ma. Chỉ bởi chẳng biết Chân Tâm, tu tập
lầm loạn nên mới có năm mươi thứ Ấm Ma, đều là chỗ nói “Nếu quán khác đi,
gọi là Tà Quán”. Đoạn sau sẽ kê rõ số mục.
Kinh này, tuy
nhân Ngài Anan thưa hỏi, mà lấy Thần Chú Phật Đảnh nêu bày Pháp Môn Vô
Thượng. Bởi thế, Đại Bạch Tán Cái [Cây Dù Trắng Trùm Khắp] này, thể nó bao
trùm hết thảy, siêu tình, lìa kiến, tức là Như Lai Tạng Tâm Ấn vậy. Soi
chiếu cùng tột biển vô biên cõi Phật, sạch trong tuyệt không mảy bụi, tức
là con mắt pháp Kim Cương vậy. Ấn nói là Vô Thượng, vì chẳng phải là Tối
Thượng Thừa thì không thể Ấn được. Nhãn nói là thanh tịnh vì nếu còn một
mảy bụi thì chẳng soi trùm được. Ấn, gọi là Bảo vì vốn thường trụ chẳng
hoại. Nhãn, gọi là Biển, ắt bao trùm vô tận. Thần Chú bất khả tư nghì này
tức là cái Tánh bất khả tư nghì vậy. Tánh cùng Chú bình đẳng, bất khả tư
nghì, há có hai được ư!
Tổ Phong Huyệt
ở Trình Châu Nha thượng đường, nói: “Tâm Ấn Tổ Sư giống như then chốt của
con trâu sắt. Đi thì ấn đứng, đứng thì ấn phá. Chỉ như chẳng đi, chẳng
đứng thì ấn là phải hay không ấn là phải?”
Khi ấy có
Trưởng Lão Lư Ba bước ra, nói: “Tôi có then chốt của con trâu sắt, xin
thầy đừng ráp thêm ấn vào!”
Tổ Huyệt nói:
“Quen câu kình nghê đầm lặng rộng
“Lại than ếch nhái bì bõm bãi cát bùn”.
Ông Lư Ba đang
lưỡng lự suy nghĩ thì Tổ Huyệt quát: “Trưởng Lão, sao chẳng nói đi?”
Lư Ba định
nói, Tổ Huyệt đánh một cây phất tử: “Lại nhớ được thoại đầu ư, thử nói
xem!”
Lư Ba định mở
miệng, Tổ Huyệt lại đánh một phất tử.
Ông Mục Chủ
nói: “Phật Pháp cùng Vương Pháp là một thứ”.
Tổ Huyệt nói:
“Thấy cái gì nào?”
Ông Mục Chủ
nói: “Cần đoạn chẳng đoạn, lại chiêu thêm loạn!”
Tổ Huyệt bèn
xuống tòa.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Then chốt trâu sắt, ấn trụ ấn phá
Suốt khỏi đỉnh Tỳ Lô mà đi
Lại đến ngồi đầu lưỡi hóa Phật
Phong Huyệt thử xem, Lư Ba rớt té
Đầu gậy hét rồi: Điện quang, lửa đá
Rờ
rỡ rõ ràng, ngọc trên mâm
Nháy mắt, nhăn mày: lại than lỗi”.
Lại Ngài Mân
Súy sai sứ giả đưa Ông Châu Ký đến Tổ Bửu Phước.
Tổ Phước
thượng đường, nói: “Đi thì ấn trụ, trụ thì ấn phá”.
Nhà sư nói:
“Chẳng đi chẳng trụ, dùng ấn làm gì?”
Tổ Phước bèn
đánh.
Nhà sư nói:
“Như thế thì ở trong hang quỉ núi đều nhân vì ngày hôm nay vậy”.
Tổ im lặng.
Hợp hai tắc
trên mà xem thì Vô Thượng Bảo Ấn, Lửa đá, Điện quang tức là lầm lỗi vậy.
Há có thể suy nghĩ tính toán ư? Cho nên chẳng phải là Hải Nhãn Thanh Tịnh
thì không đủ để thấy!
Kinh: “Cũng
gọi tên là Cứu Hộ Thân Nhân, độ thoát Anan cùng Tánh Tỳ Kheo Ni trong hội
này, đắc Bồ Đề Tâm, nhập Biến Tri Hải”.
Thông rằng:
Phật Đảnh Thần Chú thật không thể nghĩ bàn, khiến cho Tánh Tỳ Kheo Ni lòng
dâm liền khô cạn, cứu hộ Ngài Anan khỏi bị phá giới, cũng đã là lạ lùng.
Như Tánh Tỳ Kheo Ni mới đầu đắc quả A Na Hàm, rồi chứng đạo A La Hán, bèn
ngộ tánh dâm vốn không, đã được ra khỏi ràng buộc, thể nhập Chánh Biến
Tri. Bồ Đề Tâm thuộc về Chánh Tri, vì rõ chuyện bổn phận vậy. Ở trong ấy
chọn rõ chân vọng, gạn lọc để tu sửa điều trị, thì hết thảy nhân quả chẳng
còn nghi hoặc, là thuộc về Biến Tri [Biết Khắp]. Ông Anan đã được Pháp
Thân, đắc Bồ Đề Tâm, nay trong tất cả điên đảo, lầm loạn tu tập, đều không
gì chẳng thông suốt; đó là thể nhập Biển Khắp Biết vậy. Thế đó, rõ được
Một thì vạn sự xong. Chỉ ở nơi Chân Tâm không hoa mắt thì biến thái của
thế gian, chỗ nào mà chẳng suốt thông, vì tất cả do Tâm tạo vậy.
Thiền sư Nham
Đầu Khoát trải qua mùa Hạ ở nhà Ông Cam Chí.
Một hôm, đang
cầm cây kim thì Ông Chí ở ruộng về cầm cái mai đứng sát trước Ngài. Tổ
Khoát cầm kim làm thế đâm móc.
Ông Chí vội
vàng vào nhà, mặc áo muốn ra lạy tạ ơn.
Bà vợ hỏi: “Có
chuyện gì thế?”
Ông Chí nói:
“Chẳng được nói!”
Bà vợ nói:
“Cần biết chỗ biết của ông”.
Ông Chí kể lại
chuyện lúc nãy.
Bà la lên:
“Chuyện ách yếu này ba mươi năm sau, phải biết một phen uống nước là một
phen mắc nghẹn!”
Cô con gái
nghe cha nói ra, bèn nói: “Mới biết tánh mạng người ta khắp đại địa đều bị
một đầu mũi kim của Thượng Tọa xuyên suốt!”
Lạ thay, lạ
thay! Nào ngờ trên mũi kim may của Tổ Nham Đầu có đủ Đại Phật Đảnh Tát Đát
Đa Bát Đát Ra Thần Chú, khiến cho cả nhà Ông Cam Chí trong khoảng sát na
nhất thời đắc Bồ Đề Tâm, vào Biến Tri Hải vậy.
Kinh: “Cũng
tên là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa.
Thông rằng:
Chú ngữ không thể giải thích, đó là mật ngữ của Như Lai. Một đường hướng
thượng, ngàn Thánh chẳng truyền, cũng là bí mật của Như Lai vậy. Đã bảo là
bí mật há có chỗ để Tu, có chỗ để Chứng ư? Phàm có Tu, có Chứng đều thuộc
về Bất Liễu [Chẳng rõ ràng, chẳng rốt ráo]. Độc chỉ không Tu, không Chứng
mới là Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy. Đã không thể lấy Tu Chứng mà được, ắt phải
là mật ngộ, một niệm huân tu thiện nghiệp vô lậu, chẳng lấy cái Trí mà
biết, chẳng lấy cái Thức mà hay. Phàm có tri thức tức là hữu lậu, chẳng
được là mật. Lấy cái mật này làm nhân, như trì chú... ấy gọi là Bất Tư
Nghì Huân Tu vậy. Cái Bất Tư Nghì này làm Nhân, ắt chứng Quả Bất Tư Nghì.
Như Lai, đó là chẳng thể nghĩ bàn. Đã chứng Như Lai, thì chỗ nào chẳng tỏ
suốt ư?
Tổ Triệu Châu,
nhân có vị ni hỏi: “Như sao là mật mật ý?”
Tổ Châu lấy
tay phất.
Vị ni nói :
“Hòa Thượng còn có Cái Ấy, nhé!”
Tổ Châu nói :
“Ấy, chính ngươi lại có Cái Ấy, đó!”
Ngài Từ Thọ
Thâm tụng rằng:
“Mật mật, thâm thâm, ý tột cùng
Bao người lầm lạc giữa hư không
Sư
cô nếu hiểu lay tay đó
Chắc nát tâm can cũng đoạn trường!”.
Hòa Thượng Đức
Sơn Viên Minh dạy chúng rằng: “Cho đến hết rồi, dầu có được miệng của ba
đời Chư Phật treo trên vách thì vẫn còn có một người ha hả cười lớn. Nếu
rõ người này, việc tham học xong ngay!”
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Ôm nắm chỗ quan yếu
Gió mài, mây quét, nước lặng, trời thu
Chớ cho vảy gấm không mùi vị
Liềm trăng câu hết cả sông Thương”.
Ngài Đầu Tử
nêu ra rằng: “Tuy là như vậy, nhưng Đức Sơn quả giống như “Cất hết trăng
trời Sở. Vẫn còn sao đất Hán””.
Tụng rằng:
“Đôi mày vào tối nẻo gập gềnh
Trời lặn nương lều tạm sống yên
Cũng tợ nửa đêm người gỗ ngủ
Khỏi học Thuấn nhường chịu ở rừng
Phải hay hoa rụng can gì mộc (cây)
Không cẳng vừa đi sớm gặp đường
Sáng qua gió nổi Trường An đạo
Nguyên đó Côn Lôn tiến quốc đồ”.
Các công án
như thế cũng không thể đo lường được. Nếu rõ mật ngữ này thì việc tham học
bèn xong!
Kinh: “Cũng
gọi là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà La
Ni Chú”.
Thông rằng: Về
Viên Giáo thì không gì bằng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Về Đốn
Giáo thì không gì bằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Về Phật Mẫu Thần Chú,
không gì bằng Chú Đại Chuẩn Đề. Nay kinh Lăng Nghiêm gồm có cả, có thể gọi
là pháp môn Cực Viên, Cực Đốn, Cực Bất Khả Tư Nghì vậy. Đại là thường
khắp, chỉ Pháp Thân. Phương là nắm trọn, chỉ Bát Nhã. Quảng là rộng trùm,
chỉ Giải Thoát. Ba đức Lý, Trí và Dụng đầy đủ, thế chẳng gọi là Viên sao ?
Hoa sen mọc lên từ bùn dơ mà chẳng nhiễm. Diệu Liên Hoa Vương tức là hoa
Ưu Đàm Bát, khác với loại thế gian trồng vậy.
Trong khoảnh
khắc gảy móng tay nhập Tri Kiến Phật, đó là hy hữu, chẳng phải là Đốn thì
không thể đảm đương. Viên ấy, Đốn ấy chỉ việc gì thế ? Việc ấy không thể
nghĩ bàn, tức gọi là Thần Chú của Tâm vậy. Mười phương Như Lai nhờ Chú Tâm
này đắc thành Vô Thượng Chánh Biến Tri Giác, cho đến sau khi diệt độ cùng
nhờ Chú Tâm này mà phú chúc việc Phật Pháp v.v... Thì há chẳng phải là chỗ
từ đó mà ra của mười phương Chư Phật ư ? Nên có thể gọi đó là Phật Mẫu
Thần Chú đắc Đại Tổng Trì vậy. Hợp cả ba cái thì Giáo Pháp của cả Đại Tạng
Kinh đều gồm đủ.
Tổ Thanh
Nguyên Hành Tư một hôm hỏi Ngài Thạch Đầu rằng: “Có người nói “Lãnh Nam có
tin tức””.
Ngài Đầu nói:
“Có người chẳng nói “Lãnh Nam có tin tức””.
Tổ Nguyên nói:
“Nếu thế thì Đại Tạng, Tiểu Tạng từ đâu mà đến?”
Ngài Đầu nói :
“Đều từ trong ấy hết!”
Tổ bằng lòng.
Tổ Vân Môn mở
lời rằng: “Nháy mắt ngang cả mười phương, trên lông mày suốt đến càn khôn,
dưới suốt đến suối vàng. Núi Tu Di lấp nghẹt cuống họng của ông. Có ai
hiểu không? Ai mà hiểu được thì đem dẫn xứ Chiêm Thành đánh nhau với xứ
Tân La!”
Ngài Diệu Hỉ
nói: “Là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú hay trừ tất cả khổ, chân thật không hư. Các ông có rõ Vân Môn không?
Há chẳng nghe nói “Tam đài (tam quán) cần phải chính ông thúc giục”.
Tổ Vân Môn,
Diệu Hỉ quả là người trong hội, tuyên nói lại Chú Tâm, chỉ ra cảnh giới
không thể nghĩ bàn. Ai mà diệu khế ý chỉ này, tự cai quản giữ lấy mà thành
Phật không sai!
Kinh: “Cũng
tên là “Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm”. Ông
hãy phụng trì”.
Thông rằng:
Muôn Hạnh của Chư Bồ Tát đều đầy đủ, cho đến tất cả Sự rốt ráo kiên cố thì
gọi là Quán Đảnh Bồ Tát. Vị Bồ Tát này sắp thành Diệu Giác thì ở trên cõi
trời Sắc Cứu Cánh hiện ra tòa Đại Bửu Liên Hoa Vương rộng lớn trăm vạn a
tăng kỳ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Bồ Tát muốn lên tòa này trước hết ở
trong thân phóng hiện mười đạo quang trăm báu, chiếu soi loài hữu tình,
sau cùng từ cửa đỉnh đầu phóng ánh sáng nhập vào chân Chư Phật. Khi ấy,
Chư Phật từ nơi mặt phóng ra quang minh trăm báu chảy tuôn rót vào đảnh
đầu của vị Bồ Tát ấy, thẳng đến nguồn tâm. Ở đây, chỉ lấy ánh sáng tuôn
chảy tương giao hòa nhập mà gọi là Quán Đảnh, thọ lãnh chức vụ Phật.
Ở trước, có
nói “Ranh giới của Giác thể nhập vào nhau” tức là cảnh tượng này. Nếu từ
địa vị Diệu Giác thì chẳng còn lời nói, duy từ Quán Đảnh trở xuống thì
cùng chương cú. Như ánh sáng giao nhập nhau, chương cú cũng không có. Ở
trong chỗ không có chương cú mà có chương cú, nên mới gọi là chỗ này là
“Diệu Trạm Tổng Trì, Thủ Lăng Nghiêm Vương, đầy đủ muôn hạnh, một đường
Diệu Trang Nghiêm siêu xuất của mười phương Như Lai” vậy.
Cho nên, nói
“Muôn hạnh đầy đủ” mà sau là “Rốt ráo kiên cố”, đó là Tiệm chứ không phải
Đốn. Nói rằng “Tự Tánh kiên cố mà không nhờ muôn hạnh”, đó là Đốn chứ
không phải Tiệm. Chẳng hay biết rằng con đường Diệu Trang Nghiêm này vốn
tự đầy đủ muôn hạnh trang nghiêm, chẳng mượn đến sự trau làm, tất cả vốn
kiên cố. Không phải chỉ có thân tâm trong ngoài đắc Đại Định Lực, mà trong
Bản Tánh trùm khắp pháp giới, núi sông, đất đai, sáng tối, sắc không, tất
cả mọi sự, tất cả mọi Pháp, hiện đây là tịch diệt, vốn trong Đại Định.
Chính đây là Chân Tâm thường trụ, chính đây là Diệu Trạm Tổng Trì, vốn là
Viên Đốn, sẵn sàng đầy đủ. Nên gọi đó là Thủ Lăng Nghiêm kinh.
Chưa đến địa
vị Quán Đảnh Pháp Vương Tử thì sao mà biết được chỗ nhiệm mầu, bởi thế nói
rằng “Ông hãy phụng trì”.
Hòa Thượng
Phật Giám khai thị cho đại chúng.
Ngài kể
chuyện: “Nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu: “Thế nào là nghĩa chẳng biến đổi?”
“Tổ Châu dùng
hai tay làm cách thế nước chảy.
“Nhà sư có chỗ
tỉnh ngộ”.
Ngài lại kể
chuyện: “Nhà sư hỏi Tổ Pháp Nhãn: “Chẳng giữ lấy tướng, như như chẳng
động. Thế nào là chẳng giữ lấy tướng mà thấy chỗ chẳng động đó ?”
“Tổ Pháp Nhãn
nói: “Mặt trời mọc phương Đông, lặn phương Tây!”
“Nhà sư cũng
có chỗ tỉnh ngộ”.
Ngài nói tiếp:
“Ngay nơi đó mà thấy được, mới biết rằng “Khí núi trùm non, bổn lai thường
lặng. Sông nước cuộn chảy, nguyên tự chẳng trôi”. Chưa được như vậy thì
không khỏi lại phải nhiều lời. Thiên xoay trái, Địa chuyển phải, xưa qua
nay lại trải bao lần biến đổi. Mặt trời bay qua, mặt trăng chạy mất vừa
mới ló trên biển lại chìm sau núi xanh. Sóng sông nước mịt mù, Hoài, Tế
[Tên hai con sông] gợn xa xăm, thẳng vào biển cả ngày đêm trôi chảy”.
Rồi lớn tiếng
rằng: “Này Chư Thiền Đức, có thấy như như bất động chăng?”
Hòa Thượng Vân
Cái Trí khai thị cho đại chúng rằng: “Độc chỉ là cái Thân liền kín kiên cố
kia trong tất cả trần bày hiện. Nay đây Vân Cái này nói: Ngàn núi sum xuê,
cầm thú hót kêu, trăm hoa đua nở, muôn cây nảy cành, hết thảy đó là Chư
Phật, mỗi mỗi Chân Như. Các ông dạo chơi non nuớc phải kịp để con ngươi
ngay đó, chớ để bị nó lừa!”
Hai vị tôn túc
ấy, ngay trong tất cả trần cảnh mà nắm ra cái như như chẳng động, cái Thân
chân thật liền kín kiên cố. Ấy là chẳng lìa muôn Hạnh mà đắc rốt ráo kiên
cố, quả là thâm nhập ý chỉ Lăng Nghiêm vậy. Ở chỗ này mà cắn nát được mới
được gọi là phụng trì. Còn bám suông chương cú, chưa biết lối vào thì dù
có trang nghiêm muôn Hạnh, rốt cuộc cũng là chuyện sanh diệt. Trong Tự
tánh kiên cố, Diệu Trạm Tổng Trì sao những cách xa như trời đất vậy ư? |