PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG V: PHÂN BIỆT CÁC NGHIỆP QUẢ TẠO THÀNH TAM GIỚI. CHỈ RÕ CÁC
CẢNH GIỚI TU CHỨNG VÀ CÁC CHƯỚNG NGẠI
VII. PHÂN BIỆT CÁC ẤM MA (tt)
E. PHẠM VI CỦA HÀNH ẤM
Kinh: “Anan,
thiện nam tử kia, tu Tam Ma Đề, khi Tưởng Ấm hết rồi thì những mộng tưởng
bình thường của người ấy tiêu diệt. Thức, ngủ là một, tánh Giác Minh rỗng
lặng như hư không trong trẻo, không còn những sự tướng tiền trần thô
trọng. Xem những núi sông, đất liền của thế gian như gương soi sáng, đến
không chỗ dính, đi không dấu vết, rỗng thọ chiếu ứng, rõ ràng không còn
các tập khí, chỉ thuần một tính Tinh Chân.
“Căn nguyên
của Sanh Diệt từ đó phơi lộ ra, thấy được mười hai loài chúng sanh mười
phương, rõ hết các loài. Tuy chưa thông suốt manh mối của mỗi chúng sanh
nhưng đã thấy cái cơ sở sanh diệt chung, giống như bóng dã mã, vùn vụt
lăng xăng sơ tượng hiện ra, làm cái then chốt phát sanh của Phù căn trần.
Đây gọi là phạm vi của Hành Ấm.
“Nếu cái nguồn
gốc của những chớp nhoáng lăng xăng đó nhập vào tánh lặng trong bản lai,
những tập khí nguồn gốc lặng trong thành một phiến, như sóng mòi diệt hóa
thành nước đứng, thì gọi là Hành Ấm hết. Người đó liền vượt khỏi Chúng
Sanh Trược. Xét lại nguyên do, cội gốc là Vọng Tưởng u ẩn.
“Anan, ông nên
biết rằng các thiện nam tử được sự Chánh Tri trong Tam Ma Đề thì Chánh Tâm
đứng lặng sáng suốt, mười loài Thiên Ma không còn được dịp khuấy phá, mới
được cứu xét cùng tột cái cội gốc sanh loại. Nơi cái cội gốc sanh loại,
nguồn gốc sự sống bày lộ ra. Xét cái cội nguồn máy động lăng xăng tròn
khắp giản phác u ẩn kia ở trong Tánh vốn toàn vẹn lại mống tâm so đo suy
diễn, thì người đó rơi lọt vào hai thứ luận Vô Nhân.
“Một là, người
đó thấy cái gốc vốn không có Nhân. Vì sao thế? Người đó đã phá lộ hoàn
toàn được cơ quan của Sanh Diệt, nương theo tám trăm công đức của Nhãn
Căn, thấy được trong tám muôn kiếp tất cả chúng sanh đều do dòng nghiệp
lực mà xoay vần, chết đây sanh kia. Chỉ thấy chúng sanh luân hồi trong đó,
ngoài tám muôn kiếp thì mờ mịt không thấy gì, bèn khởi tâm suy diễn rằng
những loài chúng sanh mười phương trong thế gian này trước tám vạn kiếp
không có Nhân, mà tự có. Do sự suy diễn này, bỏ mất Chánh Biến Tri, rơi
lạc vào ngoại đạo, mê lầm Tánh Bồ Đề.
“Hai là, người
đó thấy cái ngọn không có Nhân. Vì sao thế? Người đó nơi sự Sanh Diệt đã
thấy cội gốc, biết rằng người sanh người, rõ chim sanh chim, quạ xưa nay
đen, hộc xưa nay trắng, người, trời thì thân đứng, súc sanh thì thân
ngang, màu trắng không phải do tẩy mà thành, màu đen chẳng phải do nhuộm
mà ra. Suốt tám muôn kiếp không hề dời đổi, sống hết đời này cũng lại vẫn
vậy, mà mình xưa nay chẳng thấy Bồ Đề, làm sao có chuyện thành tựu Bồ Đề,
rồi cho rằng tất cả sự vật ngày nay đều vốn không có Nhân.
“Do so đo suy
diễn như vậy, bỏ mất Chánh Biến Tri, rơi lạc vào ngoại đạo, mê lầm Tánh Bồ
Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Nhất, lập ra luận Vô Nhân.
Thông rằng:
Tưởng Ấm chưa hết thì khi thức bám lấy hình tướng, khi ngủ thành ra mộng
mị, bởi thế đuổi theo bóng dáng tiền trần thô trọng. Tưởng Ấm đã hết, bên
trong giữ lấy sự yên tĩnh, vắng vẻ, thức ngủ là một, sự giác minh rỗng
lặng như gương soi sáng, tuy không có dấu vết tới lui, vẫn còn có bóng
dáng quang minh, vẫn còn là việc bên phía pháp trần. Trước đây, tiền trần
ám che quấy nhiễu, chỉ tùy sanh diệt mà trôi lăn, chẳng thấy cái gốc
nguồn, nay đã rỗng thọ chiếu ứng, chỉ thuần một tính Tinh Chân, Sanh diệt
đã dừng, do đó mà cái căn nguyên hiển lộ, thấy được cái cơ sở Sanh Diệt
chung, miên miên mật mật, đổi dời vi tế, ấy là sóng lăn tăn mà không gió.
Dã mã là bụi lăng xăng, vùn vụt là chớp nhoáng vậy. Hành Ấm vi tế giống
như bụi lăng xăng khi mặt trời chiếu qua khe cửa. Vùn vụt chớp nhoáng thì
rõ là không có tướng trụ, chợt sanh chợt diệt, không còn ảnh tướng nặng nề
nên gọi là lăng xăng sơ tượng (thanh nhiễu). Bốn Đại, cái lăng xăng sơ
tượng là căn nguyên của phù căn tứ trần, thể của nó vốn không, là cái then
chốt phát sanh, thật là ở chỗ này. Dính che tánh lặng trong mà phát khởi,
thì có sáu Căn. Từ người, trời cho đến trùng, kiến, không loài nào không
có bốn Đại, sáu Căn, nên cái lăng xăng sơ tượng của bốn Đại là cơ sở Sanh
Diệt chung của mười hai loài chúng sanh. Đây gọi là phạm vi của Hành Ấm.
Nếu thông đạt
được biệt tướng thì có thể thấy mối manh của chúng sanh, Huệ Phước chẳng
đồng đều vì do nhiều đời tích tập chủng tử mà phát hiện ra. Đó thuộc về
phía Thức Ấm, cho nên mới đến Hành Ấm thì không có lăng xăng, nên nói là
nguyên tánh. Cái chỗ không thể không bị nhiễu loạn ấy là do tập khí nhiều
đời vậy, nên gọi là tập khí nguồn gốc. Tập khí không thể làm lặng đứng tập
khí, chỉ có tánh về nguồn thì có thể lắng trong, dùng cái tánh lắng trong
mà lắng đứng tập khí nguồn gốc thì sự trôi lăn dứt hết, như không có gió
thì sóng lăn tăn diệt, liền hóa thành nước đứng vậy. Nước đứng yên cho đến
chỗ lắng trong chẳng chao động thì gọi là Hành Ấm hết, người ấy liền siêu
việt Chúng Sanh Trược.
Chúng Sanh
Trược nghĩa là sanh diệt chẳng dừng, dòng nghiệp thường trôi dời. Nay cái
chẳng dừng đã dừng, chỗ thường trôi dời ấy chẳng trôi dời nữa, hầu như vào
Diệt Tận Định, nên là siêu việt. Nhưng Hành Ấm âm thầm dời đổi, chưa từng
là Giác Ngộ, lấy cái Vọng Tưởng u ẩn làm gốc. Ở chỗ u nhàn ẩn mật mà phá
trừ được, chẳng phải là người triệt ngộ thì không thể làm nổi. Người đó
thức ngủ là một, đó là được Chánh Tri, cũng như ở trước, Động tĩnh chẳng
dời, nhớ quên như một, trụ ngay chỗ ấy mà vào Tam Ma Đề, cùng một đường
mạch. Dùng đó làm tầng bậc phát ngộ thì nên, còn nắm giữ mà cho là thật
chứng thì không nên.
Bởi thế, Tưởng
Ấm hết thì chánh tâm lặng sáng, các tà lự tự chúng không từ đâu mà sanh,
ắt mười loại Thiên Ma cũng không có cơ duyên gì để vào. Thiên Ma chưa từng
rời tà tưởng mà hiện được thần biến, nay Tưởng Ấm hết sạch, xem xét thấy
cái cội nguồn lay động u ẩn giản phác là đã vào cõi trời Vô Tưởng vậy.
Thiên Ma của sáu cõi trời Dục Giới chẳng thể trộm thấy được.
U ẩn giản phác
là vốn không có chỗ động. Lăng xăng tròn khắp là động mà chưa từng động
vậy, nên gọi là cội nguồn máy động. Cái cội nguồn máy động tuy là tròn
khắp mà chẳng là sanh diệt, nên ở đây mà suy diễn thì đều là ở trong sanh
diệt mà suy diễn ra sự Vô Nhân vậy.
Một là, thấy
cái gốc vốn không có Nhân, chẳng ngộ được nghiệp duyên thiện ác là duy
Thức tạo ra. Chỉ bằng vào cái sanh tướng tạm thời không có mà cái Hành Ấm
trôi chảy chẳng ngừng, ở trong Định này phát ra Túc Mạng Thông, thấy trong
tám vạn kiếp chúng sanh luân hồi như chiếc vòng không có đầu mối, bèn cho
chúng sanh là không có Nhân, tự nhiên mà có. Ngoài tám vạn kiếp mờ mịt
không thấy gì, nên chẳng biết Bồ Đề là Chánh Nhân vậy.
Hai là, thấy
cái ngọn không có Nhân, chẳng ngộ được nghiệp quả thiện ác là do Tâm chiêu
cảm. Chỉ cậy vào sức thần thông có thể thấy sau tám vạn kiếp, mà cái tướng
chưa dời đổi của nghiệp quả lâu dài, bèn cho rằng người, vật, đen, trắng,
dọc, ngang xưa nay như vậy, chẳng phải do tu mà được, nên không biết Bồ Đề
là cực quả.
Mê lầm tánh Bồ
Đề thì chẳng gọi là Chánh Tri. Chỉ biết trước sau tám vạn kiếp thì chẳng
gọi là Biến Tri. Ngoại đạo Mạt Già Lê nói rằng khổ vui của chúng sanh
không do hành vi mà được, đều tự nhiên như vậy, chính là kiến giải này.
Hai cái thuyết Vô Nhân này chỉ thấy đến chỗ Thức Thứ Bảy không có gốc, nên
sự truyền tống vào Thức Thứ Tám tạm ngừng mà sanh ra sự so đo này. Vì Thức
Thứ Bảy bên trong chỉ nương theo Thức Thứ Tám, sanh mà không có gốc, nên
cho là gốc vốn không Nhân. Vì Thức Thứ Bảy bên ngoài chỉ nương theo Thức
Thứ Sáu, nên cho là vô dụng, bèn bảo là ngọn không có Nhân. Chỉ thấy sự
trôi chảy không ngừng của Thức Thứ Bảy, bèn cho rằng tự nhiên như vậy.
Thầy Kính
Thanh hỏi Tổ Linh Vân: “Hỗn độn chưa phân thì thế nào?”
Tổ Vân nói:
“Cây lộ trụ mang thai!”
Thầy Thanh:
“Phân rồi thì thế nào?”
Tổ Vân nói:
“Như điểm mây trong bầu trời”.
Thầy Thanh:
“Thế thì bầu trời có bị chấm không?”
Tổ Vân không
đáp.
Thầy Thanh
rằng: “Như thế thì cả hàm linh chẳng có đến vậy?”
Tổ Vân cũng
không đáp.
Thầy Thanh:
“Ngay đây được ròng trong không một điểm thì thế nào?”
Tổ Vân nói:
“Vẫn còn là cái chân thường trôi chảy”.
Thầy Thanh:
“Như sao là chân thường trôi chảy”.
Tổ Vân: “Tương
tự gương thường sáng”.
Thầy Thanh:
“Hướng thượng lại có việc gì chăng?”
Tổ Vân: “Có”.
Thầy Thanh:
“Như sao là việc hướng thượng?”
Tổ Vân : “Đập
vỡ gương rồi; cùng ông tương kiến!”
Ngài Thiên
Đồng nêu ra rằng: “Phân với chưa phân: khung cửi ngọc ban đêm động. Điểm
với chẳng điểm: thoi vàng trong tối vất. Dầu là một sắc vàng ròng trong,
chưa được mười phần yên ổn. Hãy nói đập vỡ gương rồi hướng về đâu tương
kiến? Có hiểu chăng?
“Thỏ ngọc mất rồi trời thu sáng
Nước trong rồng thoát cốt tức thời”.
Cái chân
thường trôi chảy nhặt nhiệm này vừa vặn phù hợp với Hành Ấm, Tương tự
gương thường sáng, cũng là Gương soi sáng của Kinh không khác. Nếu đập vỡ
gương đi mà tương kiến, như rồng nơi nước trong thoát cốt mà ra thì chuyển
ngay thành Trí vậy. Đâu phải chỉ phá Hành Ấm mà thôi ư?
Kinh: “Anan,
trong Tam Ma Đề đó, các thiện nam tử chánh tâm lặng trong, Ma không còn cơ
hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn
giản phác u ẩn thường máy động kia, trong Tánh Viên Thường lại khởi lên so
tính thì người ấy sa vào bốn cái Luận Biến Thường.
“Một là, người
ấy xét cùng tánh của Tâm Cảnh, cả hai đều không có Nhân. Tu tập biết được
trong hai vạn kiếp mười phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều là xoay
vần, chưa hề tan mất, nên chấp đó là Thường.
“Hai là, người
ấy xét cùng nguồn gốc tứ Đại, thấy bốn Đại thường trụ. Tu tập biết được
trong bốn vạn kiếp, mười phương chúng sanh, chỗ có sanh diệt đều nằm trong
bản thể thường hằng, chưa hề tan mất, nên chấp đó là Thường.
“Ba là, người
ấy xét cùng sáu Căn, trong Tâm, Ý và Thức của Mạt Na Thức chấp thọ thì
thấy cái gốc gác nguyên do tánh vẫn thường hằng. Tu tập biết được trong
tám vạn kiếp, tất cả chúng sanh xoay vần chẳng mất, bản lai thường trụ.
Xét cùng cái tánh chẳng mất đó, chấp ấy là Thường.
“Bốn là, người
ấy đã hết Tưởng Ấm, cái lẽ sanh diệt không còn, sự trôi chuyển dừng lặng,
tâm tưởng sanh diệt nay đã vĩnh viễn diệt dứt. Trong lý tự nhiên thành ra
cái chẳng sanh diệt. Do tâm so tính mà chấp đó là Thường.
“Do những sự
Chấp Thường ấy, bỏ mất Chánh Biến Tri, sa vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ
Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Hai, lập ra những luận Viên Thường.
Thông rằng:
Lập ra luận Vô Nhân là vì thấy Đoạn, lập ra luận Viên Thường là do thấy
Thường. Suy ra Cũng Đoạn cũng Thường, chẳng phải Đoạn, chẳng phải Thường
đều không ra khỏi tà kiến Đoạn-Thường. Cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại
cho đến cội nguồn máy động thì thấy nó hư rỗng mà càng phát ra, động mà
chẳng cùng, bèn chấp là Thường. Từ rộng đến hẹp, từ thô đến tinh, đại khái
có thứ lớp : Một là, thông đạt rằng năm Ấm, bốn Đại, Tâm Cảnh cả hai đều
không có Nhân mà tự có, tuần hoàn chẳng mất. Hai là, chỉ thấy cái tánh của
bốn Đại thanh tịnh, có thể thành cái Sắc Ấm của chúng sanh, thể thường bất
biến. Ba là, chỉ thấy Tâm Thức, sáu Căn nương vào Thức Thứ Bảy Mạt Na,
chấp thọ là Tâm, chấp thọ là Ý, chấp thọ là Thức. Bổn nguyên của các thứ
này là Hành Ấm. Chúng sanh tuy có tuần hoàn mà Hành Ấm chẳng mất, thì cái
Thức Thứ Bảy này là tánh thường trụ. Như nhìn nước chảy xiết mà cho là
đứng yên. Đây chính là Vô thủy đến nay, nguồn sanh tử. Người si lại gọi
Bổn Lai Nhân.
Bốn là, nhận
lầm Hành Ấm là lý Tự Nhiên, cho rằng cái tâm tưởng sanh diệt đã diệt hết,
thì chỗ diệt dứt vĩnh viễn đó tự nhiên thành cái chẳng sanh diệt. Vậy là ở
trong sanh diệt mà chấp là chẳng sanh diệt. Ví như thấy hư không bèn cho
là Thường Trụ, chẳng biết hư không cũng có thể diệt. Lại nữa, nhân nơi tâm
mà so tính cho là thường, thì chẳng thể so sánh với cái thấy chân thật cái
Thường vậy.
Bốn cái chấp
này còn chưa thấy được sự trôi chảy thường hằng của Thức Thứ Tám, huống là
chuyển Thức để thấy Tánh Bồ Đề ư?
Thầy Thụy Nham
hỏi Tổ Nham Đầu: “Như sao là lý bổn thường?”
Tổ Đầu nói:
“Động”.
Thầy Nham:
“Khi động thì sao?”
Tổ Đầu: “Chẳng
thấy lý bổn thường!”
Thầy Nham dừng
lại suy nghĩ.
Tổ Đầu nói:
“Chịu thì chẳng thoát căn trần. Không chịu thì mãi chìm sanh tử”.
Thầy Nham lễ
bái.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Viên châu (ngọc) chẳng xoi lỗ
Ngọc khối chẳng phải mài
Đạo nhân vốn quý không góc cạnh
Khẳng định vất đi, căn trần không
Thoát thể vô y, đời tự tại”.
Đây là chỗ xưa
nay thường trụ, thấy cái cực chân. Một chữ Khẳng [Chịu] còn vất bỏ đi,
huống là so đo chấp thọ Thần Ngã để sa vào hang tối Viên Thường, rốt rồi
chìm đắm, há có thể Thường được ư?
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề, các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái
cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, lại khởi tâm so tính ra cái
Ta và cái khác Ta, thì người ấy sa vào bốn Kiến Chấp điên đảo, là những
luận Một phần Vô Thường, một phần Thường.
“Một là, người
ấy xét thấy cái tâm diệu minh lặng nhiên khắp mười phương cõi, cho là Thần
Ngã rốt ráo. Từ đó suy diễn rằng Ta khắp cả mười phương, lặng sáng chẳng
động, còn tất cả chúng sanh, ở trong tâm Ta tự sanh tự chết. Vậy thì tâm
tánh của Ta gọi là Thường, còn các thứ sanh diệt kia là tánh Vô Thường.
“Hai là, người
ấy không xét xem cái tâm, lại xét xem khắp mười phương hằng sa cõi nước,
thấy chỗ kiếp hoại thì cho là chủng tánh rốt ráo Vô Thường, còn chỗ kiếp
chẳng hoại thì gọi là rốt ráo Thường.
“Ba là, người
ấy xét xem riêng cái Tâm mình, thấy nó tinh tế nhỏ nhiệm giống như vi
trần, lưu chuyển mười phương, tính không dời đổi. Có thể khiến thân này
liền sanh liền diệt. Cho cái tánh chẳng hoại đó là tính Thường của mình,
còn tất cả sự sanh tử từ tánh ấy sanh ra thì gọi là tánh Vô Thường.
“Bốn là, người
ấy biết Tưởng Ấm hết, thấy dòng Hành Ấm, chấp rằng sự trôi chuyển không
ngừng của Hành Ấm là tánh Thường, còn Sắc, Thọ, Tưởng nay đã diệt hết thì
cho là Vô Thường.
“Do sự so tính
Một phần Vô Thường, một phần Thường đó mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm
tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Ba, lập ra những luận Một Phần Thường.
Thông rằng:
Đây là kiến chấp Cũng Thường, cũng Vô Thường vậy. Cái Tâm vốn diệu minh,
khắp cả mười phương cõi chưa từng chẳng phải, chỉ vì chấp đó là Thần Ngã
thì liền chẳng phải vậy. Riêng chấp đó là Ngã, chính là cái Ý Thức chấp
thọ vào Mạt Na Thức, tuy nói là lặng sáng chẳng động mà thật ra trong đó
trôi chảy nhỏ nhiệm, ấy là chủng tử sanh diệt lại chẳng tự hay biết. Đã
lấy cái tâm tánh tạm thời chẳng động mà cho là Thường, lại lấy sự sanh
diệt của tất cả chúng sanh mà cho là Tánh Vô Thường, bèn cái cùng khắp
mười phương ấy hóa ra có hai cái Ngã, há chẳng điên đảo ư?
Không luận Tâm
Tánh, chỉ luận về cõi nước, thì Tam Thiền trở xuống còn chịu Tam Tai nên
cho là Vô Thường. Tứ Thiền trở lên chẳng còn Tam Tai nên cho là rốt ráo
Thường.
Không luận về
cõi nước, chỉ luận Tâm Tánh, thì tánh không dời đổi cho đó là tánh Thường
của mình. Chết đây, sanh kia thì cho là tánh Vô Thường.
Ban đầu, hợp
cái Ta và cái khác Ta gồm lại mà so tính Thường với Vô Thường. Rồi phân
cái Ta và cái khác Ta để mỗi cái cho là Thường, Vô Thường. Rồi lại lấy
Hành Ấm làm cái Ta, Sắc, Thọ, Tưởng làm cái khác Ta. Hành Ấm thường trôi
chuyển, bèn cho là tánh Thường. Sắc, Thọ, Tưởng đã diệt hết thì cho là
tánh Vô Thường. Ở trong Nhất Tâm mà phân ra Thường với Vô Thường, thế là
Tâm có hai vậy. Há chẳng điên đảo ư? Ở đây so với luận Viên Thường ở trước
thì sự không câu chấp ít hơn, nhưng cái Đầu Nguồn (Nguyên Đầu) chẳng rõ
nên đều thuộc về sự so tính lầm lẫn.
Quốc sư Huệ
Trung hỏi nhà sư: “Phương nào đến?”
Đáp rằng:
“Phương Nam đến”.
Quốc sư rằng:
“Tri thức phương
Nam
dạy người như thế nào?”
Nhà sư đáp:
“Tri thức phương kia chỉ bày cho người học Đạo ngay đây tức Tâm tức Phật.
Phật là nghĩa Giác. Hiện nay các ông hẳn sẵn đủ cái tánh của thấy, nghe,
hay, biết. Cái Tánh này đây thiệt hay nhướng mày, nháy mắt, vận dụng tới
lui khắp ở trong thân. Chạm đầu, đầu biết; chạm chân, chân hay nên gọi là
Chánh Biến Tri. Lìa ngoài cái ấy không còn Phật nào khác. Thân này thì có
sanh diệt, còn Tâm Tánh vô thủy đến nay chưa từng sanh diệt. Thân sanh
diệt thì như rồng thay cốt, rắn đổi da, người ra nhà cũ. Tức thân là Vô
Thường, Tánh ấy là Thường vậy. Lời dạy phương Nam đại khái là thế”.
Quốc sư nói:
“Nếu vậy, thì khác gì Tiên Ni ngoại đạo đâu? - Họ nói rằng : Trong thân
này của ta có một Thần Tánh. Tánh này hay biết đau, ngứa. Khi thân hoại
rồi, cái Thần ắt ra đi, như nhà bị cháy thì chủ ra. Nhà thì vô thường, chủ
nhà thì thường.
“Xét xem như
vậy, thì tà chánh chẳng biện, gì là phải đây? Ta từng du phương, thấy
nhiều loại này, gần đây lại càng thịnh hành. Nhóm lại năm, ba trăm chúng,
mắt thấy mơ hồ, bảo đó là “Tông Chỉ Nam Phương”. Lấy cuốn Đàn Kinh kia mà
sửa đổi, thêm thắt lộn xộn, bỏ tiêu Thánh ý, làm cho lầm loạn người hậu
học, há thành lời chỉ dạy ư ? Khổ thay cho Tông Chỉ nhà ta lấp vùi đó vậy.
Nếu cho thấy, nghe, hay, biết là Phật Tánh thì lẽ ra Đức Tịnh Danh chẳng
có nói “Pháp lìa thấy, nghe, hay, biết. Nếu hành thấy, nghe, hay, biết thì
chỉ là thấy, nghe, hay, biết chẳng phải thật là cầu pháp””.
Nhà sư lại
hỏi: “Kinh Pháp Hoa Liễu Nghĩa khai Phật Tri Kiến, đó lại là tại sao?”
Quốc sư rằng:
“Đấy nói “Khai Phật Tri Kiến, chẳng nói Bồ Tát, Nhị Thừa”, thì há có thể
lấy chuyện si mê điên đảo của chúng sanh mà cho là đồng Tri Kiến của Phật
ư?”
Thầy Hành
Xương hỏi Đức Lục Tổ: “Đệ tử thường xem kinh Niết Bàn mà chưa hiểu nghĩa
Thường với Vô Thường. Xin thầy giải thích cho”.
Tổ nói: “Vô
Thường đó, tức là Phật Tánh vậy. Hữu Thường đó, tức là hết thảy các pháp
thiện, ác của tâm phân biệt vậy”.
Bạch rằng:
“Chỗ nói của Hòa Thượng rất trái với kinh văn”.
Tổ nói: “Ta
truyền tâm ấn Phật, đâu dám trái kinh Phật”.
Bạch rằng:
“Kinh nói “Phật Tánh là “Thường”, Hòa Thượng lại nói là “Vô Thường”. “Các
pháp thiện ác cho đến Bồ Đề Tâm đều là Vô Thường”, Hòa Thượng lại nói là
“Thường”. Thế là trái nhau, khiến cho học nhơn này càng thêm nghi hoặc”.
Tổ nói: “Kinh
Niết Bàn ta đã nghe ni cô Vô Tận Tạng đọc tụng một lần, bèn giảng nói cho
nghe, không một chữ, một nghĩa nào chẳng hợp với kinh văn. Đến nay vì ông
cũng không nói khác”.
Bạch rằng:
“Chỗ biết của học nhân cạn cợt tối tăm, mong Hòa Thượng chỉ bày tường
tận”.
Tổ nói: “Ông
biết không? Phật Tánh nếu Thường thì còn nói gì các pháp thiện ác, vì cho
đến cùng kiếp cũng chẳng có một người nào phát Bồ Đề Tâm, cho nên ta nói
Vô Thường, chính là cái mà Phật nói là Đạo Chân Thường vậy. Lại nữa, tất
cả các pháp nếu Vô Thường thì mỗi vật đều có Tự Tánh, dung chứa sự sanh tử
thì cái tánh Chân Thường có chỗ chẳng cùng khắp, cho nên ta nói Thường,
chính là cái mà Phật nói là nghĩa Chân Vô Thường vậy. Xưa, Phật vì hàng
phàm phu ngoại đạo chấp vào cái Tà Thường, hàng Nhị Thừa ở nơi Thường lại
cho là Vô Thường, cộng lại thành Bát Đảo. Nên trong kinh Niết Bàn Liễu
Nghĩa, phá các Biên Kiến kia mà hiển bày cái Chân Thường, Chân Lạc, Chân
Ngã, Chân Tịnh.
“Ông nay
nghịch với nghĩa kinh, lấy cái Vô Thường đoạn diệt với cái Tử Thường cố
định mà hiểu lầm lời dạy tinh tế viên diệu sau cùng của Phật. Dẫu có xem
cả ngàn lần, phỏng có ích gì?”
Thầy Hành
Xương hốt nhiên đại ngộ, bèn đọc bài kệ:
“Bởi giữ Vô Thường Tâm
“Phật nói Hữu Thường Tánh
“Chẳng biết pháp phương tiện
“Dường lượm sỏi ao xuân
“Giờ chẳng phải thi công
“Mà Phật Tánh hiện tiền
“Chẳng phải thầy trao cho
“Tôi cũng không chỗ đắc”.
Tổ nói: “Giờ
ông đã thấu triệt, nên gọi là Chí Triệt”.
Thầy Hành
Xương lễ tạ, lui ra.
Cái nghĩa
Thường, Vô Thường rất sâu xa như thế này, thì các hàng ngoại đạo cũng chưa
hề mộng thấy.
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy
cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh so tính về phận
vị, thì người ấy sa vào bốn cái luận Hữu Biên.
“Một là, người
ấy so tính cái cội nguồn Sanh Diệt lưu chuyển không ngừng, chấp quá khứ,
vị lai là Hữu Biên, còn cái tâm tương tục là Vô Biên.
“Hai là, người
ấy xét xem trong tám vạn kiếp thì thấy chúng sanh, còn trước tám vạn kiếp
thì bặt không thấy nghe gì, rồi gọi chỗ không thấy nghe gì là Vô Biên, còn
chỗ có chúng sanh là Hữu Biên.
“Ba là, người
ấy cho rằng mình biết cùng khắp là được cái tánh Vô Biên, còn tất cả các
người kia hiện ra trong cái biết của mình mà mình không hề biết cái tánh
biết của họ, vậy thì họ không được cái tâm Vô Biên, chỉ có tánh Hữu Biên.
“Bốn là, người
ấy xét cùng Hành Ấm là Không, dùng chỗ thấy biết của mình mà so lường, trù
tính rằng trong một thân của tất cả chúng sanh đều là nửa phần sanh, nửa
phần diệt, và chấp rằng tất cả sự vật có ra trong thế giới đều một nửa là
Hữu Biên, một nửa là Vô Biên.
“Do sự suy
tính Hữu Biên, Vô Biên này mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Tư, lập ra những luận Hữu Biên.
Thông rằng:
Đây là ở nơi Thường, Vô Thường theo đó mà khởi ra cái Hữu Biên, Vô Biên.
Luận về Thường, Vô Thường thì dùng cái Tánh mà nói, thuộc về Kiến Phần. Về
Hữu Biên, Vô Biên thì dùng phận vị mà nói, thuộc Tướng Phần. Một là, phận
vị ba đời. Hai là phận vị Thấy, Nghe. Ba là, phận vị Ta-Người. Bốn là phận
vị Sanh Diệt. Tất cả đều giới hạn trong phận vị của Hành Ấm mà vọng sanh
ra so tính.
Một là, do
Hành Ấm lưu chuyển không ngừng nên cho sự lưu chuyển là tam tế quá khứ,
hiện tại, vị lai mà gọi là Hữu Biên. Còn cho sự không ngừng là tiếp nối
không có bờ mé, mà gọi là Vô Biên.
Hai là, chỉ so
tính trong chỗ thấy, nghe được chúng sanh trong tám vạn kiếp mà gọi là Hữu
Biên, còn ngoài tám vạn kiếp không thấy, nghe gì nên gọi là Vô Biên.
Ba là, cho
rằng mình biết cùng khắp tất cả chúng sanh, đó là tính Vô Biên, còn Tánh
Biết của chúng sanh có cùng khắp hay không thì chỉ họ tự biết, chứ mình
chẳng hề biết. Vậy chúng sanh bị hạn cuộc nơi sự tự biết, chẳng thể thông
tiếp với mình, nên chỉ có tánh Hữu Biên.
Bốn là, xét
cùng Hành Ấm là Không, thấy rằng trước có mà nay không. Do đó, so tính
rằng Chánh Báo của chúng sanh nửa sanh, nửa diệt, thế giới Y Báo cũng nửa
sanh, nửa diệt. Nửa sanh là Hữu Biên, nửa diệt là Vô Biên.
Bốn cái luận
Hữu Biên này đều không ra khỏi sự tuần hoàn sanh diệt của chúng sanh và
các kiến chấp kiếp hoại hay chẳng hoại nói ở trước, chỉ đặc biệt so tính
về hữu biên và vô biên.
Có nhà sư hỏi
Quốc Sư Huệ Trung (tiếp theo đoạn trước): “Có vị trí thức chỉ bày kẻ học
nhân này rằng: “Chỉ tự biết Tánh. Khi rõ Vô Thường, ném bỏ cái xác phiền
não một bên rồi, cái chỗ cao linh trí tánh, rỗng rang mà lui về, gọi là
giải thoát”. Theo đây thì thế nào?”
Quốc sư nói:
“Trước đã nói rồi, vẫn còn là cái hạn lượng của hàng Nhị Thừa, ngoại đạo.
Nhị Thừa chán ghét sanh tử, ưa thích Niết Bàn. Ngoại đạo cũng nói “Ta có
hoạn nạn lớn, vì ta có thân”, bèn vui về Minh Đế. Tu Đà Hoàn buộc vào tám
vạn kiếp, ba quả kia buộc vào sáu, bốn, hai vạn kiếp. Bậc Bích Chi Phật
trụ trong Không định một vạn kiếp. Ngoại đạo trụ trong Phi Phi Tưởng tám
vạn kiếp. Nhị Thừa hết kiếp còn có thể hồi tâm hướng Đại Thừa, còn ngoại
đạo liền trở lại luân hồi”.
Hỏi rằng:
“Phật Tánh một giống hay khác?”
Quốc sư nói:
“Chẳng thể một giống”.
Hỏi rằng: “Sao
vậy?”
Quốc sư nói:
“Hoặc có thứ toàn chẳng sanh diệt, hoặc nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh
diệt”.
Hỏi rằng: “Vì
sao mà giải thích như vậy?”
Quốc sư nói:
“Phật Tánh ngay đây của tôi hoàn toàn không có sanh diệt, Phật Tánh phương
Nam của ông thì nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt”.
Hỏi rằng:
“Phân biệt chỗ nào?”
Quốc sư nói:
“Đây thì thân tâm nhất như, ngoài thân không có gì khác, thế nên toàn vẹn
chẳng sanh diệt. Còn phương Nam của ông thì thân là Vô Thường, Thần Tánh
là Thường, bởi thế mà nửa sanh nửa diệt, nửa chẳng sanh diệt”.
Hỏi rằng: “Cái
sắc thân của Hòa Thượng há đồng được với Pháp Thân chẳng sanh diệt ư?”
Quốc sư nói:
“Sao ông lại vào tà đạo thế?”
Thưa rằng:
“Học nhơn này sao mà vào tà đạo?”
Quốc sư nói:
“Ông chẳng thấy kinh Kim Cương nói “Thấy sắc, cầu thanh đều là hành tà
đạo” ư? Nay chỗ thấy của ông chẳng phải vậy sao?”
Thưa rằng:
“Tôi đã từng đọc giáo lý Đại Thừa, Tiểu Thừa, cũng thấy có nói cái chỗ
Trung Đạo chánh tánh chẳng sanh chẳng diệt, cũng thấy có nói rằng ấm này
diệt, ấm kia sanh, thân có đổi thay mà Thần Tánh chẳng diệt. Đâu có thể
bác bỏ hết giống như hai kiến chấp Đoạn, Thường của ngoại đạo?”
Quốc sư nói:
“Ông học cái đạo chân chánh xuất thế Vô Thượng hay là học hai cái kiến
chấp Đoạn, Thường sanh tử của thế gian? Ông há chẳng thấy Tổ Triệu Công
nói “Nói chân thì ngược tục, theo tục thì ngược chân” ư ? Ngược với Chân
nên mê Tánh mà chẳng quay lại. Nghịch với Tục nên lời nói đạm bạc không
mùi vị. Hạng Trung Căn nghe thì như nhớ như quên. Hạng Hạ Căn nghe thì vỗ
tay mà cười. Nay ông muốn học theo người hạ liệt mà cười Đại Đạo ư?”
Đáp rằng:
“Thầy cũng nói “Tức Tâm là Phật”, bậc trí thức phương Nam cũng nói thế, có
gì là khác đâu? Thầy lẽ ra chớ nên cho mình phải mà họ quấy”.
Quốc sư nói:
“Hoặc là tên khác, thể đồng; hoặc là tên đồng mà thể khác. Bởi đó mà lầm
lộn. Chỉ như Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh thì danh khác mà Thể
đồng. Còn Chân Tâm, Vọng Tâm, Phật Trí, Thế Trí thì tên đồng mà thể khác.
Vì phương Nam lầm đem cái Vọng Tâm mà cho là Chân Tâm : nhận giặc làm con.
Nắm giữ cái Thế Trí mà xưng là Phật Trí, giống như mắt cá mà lầm lộn với
ngọc minh châu. Không thể phụ họa theo được, cần phải phân biệt đúng sai
rõ ràng”.
Hỏi rằng: “Làm
sao lìa được lỗi ấy?”
Quốc sư nói:
“Ông chỉ khéo quan sát rõ ràng trở lại Ấm, Giới, Nhập, Xứ, mỗi mỗi đều tìm
xem tận cùng, còn có được mảy tơ hào nào chăng?”
Thưa rằng: “Rõ
ràng quan sát đó, chẳng thấy có một cái gì khá được”.
Quốc sư nói:
“Ông phá hoại tướng thân tâm ư?”
Đáp rằng:
“Thân tâm tánh lìa, có gì để hoại?”
Quốc sư nói:
“Ngoài thân lại có vật chăng?”
Đáp rằng:
“Thân tâm không có ngoài, đâu lại có vật ư?”
Quốc sư nói:
“Ông phá hoại tướng thế gian ư?”
Đáp rằng: “Thế
gian tướng chính là vô tướng, nào dùng đến chuyện hoại”.
Quốc sư nói:
“Như thế đó, tức lìa lỗi vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói “Một niệm quán khắp vô
lượng kiếp, không đi, không đến, cũng không trụ. Như thế rõ biết sự ba
đời, siêu các phương tiện thành thập lực””.
Đây là chỗ nói
“Tự, Tha chẳng cách hở mảy lông, thủy chung chẳng rời ngay đương niệm”.
Chẳng biết cái kiến giải Hữu Biên, Vô Biên do đâu mà kiến lập?
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái
cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, trong chỗ tri kiến lại khởi
sanh so tính thì người đó sa lạc vào bốn thứ luận hư vọng Biến Kế Điên
Đảo, Bất Tử Càn Loạn.
“Một là, người
ấy quan sát cái cội nguồn biến hóa, thấy chỗ dời đổi thì gọi là Biến, thấy
chỗ tương tục thì gọi là Thường. Thấy chỗ thấy được thì gọi là Sanh, chỗ
không thấy được thì gọi là Diệt. Chỗ các nhân tương tục, không có gián
đoạn thì gọi là Tăng, chính trong tương tục, chỗ rời nhau ở giữa thì gọi
là Giảm. Chỗ sanh ra của mỗi cái thì gọi là Có, chỗ mất đi của mỗi cái thì
gọi là Không. Dùng lý quán sát tất cả, dụng tâm thấy riêng biệt nhau. Có
người cầu pháp đến hỏi nghĩa lý thì đáp rằng “Ta nay cũng sanh, cũng diệt,
cũng có, cũng không, cũng tăng, cũng giảm”. Trong mọi thời đều nói năng
lộn xộn, khiến cho người nghe lầm loạn chữ nghĩa.
“Hai là, người
ấy quán kỹ cái tâm đắp đổi không nơi chốn, nhân cái Không mà cho là chứng,
có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là Không. Ngoài chữ Không ra
không nói gì cả.
“Ba là, người
ấy quán kỹ cái tâm mỗi mỗi đều có chỗ, nhân cái Có mà cho là chứng, có
người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là Phải. Trừ chữ Phải ra, không
nói gì cả.
“Bốn là, người
ấy chấp cả Có và Không. Cái cảnh đã phân chia như vậy thì cái tâm cũng lộn
xộn. Có người đến hỏi thì đáp rằng : Cũng Có tức là cũng Không, trong cái
Cũng Không chẳng phải là Cũng Có. Tất cả đều càn loạn, không thể nói hết
được.
“Do những so
tính, càn loạn trống rỗng như vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ
Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Năm, lập ra bốn thứ luận hư vọng Biến Kế Điên Đảo, Bất Tử
Càn Loạn.
Thông rằng:
Đây vẫn là kiến chấp Cũng Có cũng Không vậy. Ở trên nói “Thường, Vô
Thường”, “Hữu Biên, Vô Biên” thì còn có phân biệt, chưa đến nổi lộn xộn. Ở
đây thì nói “Tức Thường, tức Vô Thường”, “Tức Hữu Biên, tức Vô Biên” tất
cả đều càn loạn, không thể nói cho cùng. Thật là một thứ lý luận hư vô
hoang đường, quá sức điên đảo vậy.
Theo sự trôi
dời của chỗ Hữu Biên ở trên thì gọi là Biến, chỗ Vô Biên tương tục thì gọi
là Thường, chỗ thấy trong tám vạn kiếp thì gọi là Sanh, chỗ không thấy ở
ngoài tám vạn kiếp thì gọi là Diệt. Lại ở trong chỗ tương tục không gián
đoạn so tính cho là Tăng như mặt trăng mọc đầy dần lên, ở trong chỗ lìa
nhau thì cho là Giảm như mặt trăng khuyết lần lần. Lại ở nơi chỗ sanh ra
của mỗi vật mà gọi là Có, chỗ mất đi mà gọi là Không.
Ở nơi sự sanh
diệt của một cái Hành Ấm mà phân làm tám nghĩa. Dùng lý quán sát tất cả
thì cả hai đều đúng, không thể xác định manh mối, nên trong mọi lúc, nói
năng lộn xộn. Chìm đắm trong Hành Ấm, không thể siêu vượt ra khỏi Hành Ấm
nên bị sự sanh diệt làm trôi lăn vậy.
Lại nữa, do từ
cái Có, Không mà phân ra, ở chỗ niệm niệm diệt mà cho là chứng thì chỉ nói
là Không; còn ở chỗ niệm niệm sanh mà cho là chứng thì chỉ nói là Phải.
Lại nữa, từ Hữu Vô mà hợp lại thì nói “Cũng Có tức là cũng Không, cũng
Không tức là cũng Có, trong cái cũng Có chẳng phải là cũng Không, trong
cái cũng Không chẳng phải là cũng Có”.
Lời nói thì
thấy giống, nhưng so với trước có sai khác.
Ở trước thì
hai bên đều bày ra hết nên không thể xác quyết, còn đây thì chỉ đề ra một
bên mà cả hai bên đều có trong đó. Nói rằng “Cũng Có tức là cũng Không”
thì không chỉ một bề nói Không. Nói rằng “Trong cái cũng Không chẳng phải
là cũng Có” thì không chỉ một bề nói Phải. Chỗ tri kiến lầm lộn, chẳng thể
quyết đoán, mơ hồ lung tung, rốt rồi lầm lạc.
Ngoại đạo cho
rằng trời là thường trụ, gọi là bất tử, cho rằng đáp được chẳng lầm loạn
thì sanh về cõi trời đó. Nếu quả thật chẳng biết mà trả lời thì e thành
càn loạn. Phật quở trách rằng: “Đó thật là nghị luận càn loạn”. Cho nên
gọi là thứ Luận hư vọng “Biến Kế Điên Đảo, Bất Tử Càn Loạn”.
Gọi là Biến
Kế, nghĩa là so tính khắp cả, nào là Có-Không, Sanh-Diệt, Tăng-Giảm,
Thường-Biến, thật vô ích cho sự tu chứng, đều là hý luận cả. Tuy nhiên,
bậc thông suốt nhà nghề thì nói Có cũng được, nói Không cũng được, chốn
chốn đều có nẻo xuất thân.
Nhà sư hỏi Tổ
Triệu Châu: “Con chó lại có Phật Tánh không?”
Tổ Châu nói:
“Có”.
Hỏi rằng: “Đã
có thì sao lại chun vào cái bì da kia?”
Tổ Châu nói:
“Vì vẫn biết mà cố phạm”.
Lại có nhà sư
hỏi Tổ Triệu Châu: “Con chó lại có Phật Tánh không?”
Tổ Châu nói:
“Không”.
Thưa rằng:
“Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, con chó vì sao lại không có?”
Tổ Châu nói:
“Vì ở y có nghiệp thức”.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Con chó, Phật Tánh có
Con chó, Phật Tánh không
Đi
câu mà cầu tha mạng cá
Theo gió tìm hương, khách nước-mây
Om
sòm, loạn xạ phân quen lạ
Bằng an trải khắp, thư thả rộng bày
Chớ lạ nhà nông chẳng biết lo
Chỉ ra vết ngọc lại đoạt châu
Vua Tần chẳng biết Tương Như Lạn!”.
Lại có bài
tụng khác rằng:
“Triệu Châu nói có, Triệu Châu nói không
Con chó, Phật Tánh thiên hạ phân chia
Mặt đỏ chẳng bằng nói thẳng
Lòng ngay ắt hẳn lời thô
Cái lão thiền sư bảy trăm chúng
Cứt ngựa gặp người hóa nhãn châu [Ngọc mắt]”.
Lại có nhà sư
hỏi thiền sư Duy Khoan: “Con chó lại có Phật Tánh chăng?”
Sư nói: “Có”.
Hỏi: “Hòa
Thượng lại có chăng?”
Sư đáp: “Ta
không có”.
Hỏi: “Cả thảy
chúng sanh đều có Phật Tánh, vì sao chỉ một mình Hòa Thượng lại không có?”
Sư nói: “Ta
chẳng phải là cả thảy chúng sanh!”
Hỏi: “Đã chẳng
phải chúng sanh thì chắc là Phật?”
Sư nói: “Chẳng
phải Phật”.
Hỏi: “Rốt ráo
là vật gì?”
Sư nói: “Cũng
chẳng phải vật”.
Hỏi: “Thấy
được, nghĩ được không?”
Sư nói: “Nghĩ
chẳng tới, bàn chẳng được, nên gọi là không thể nghĩ bàn”.
Hàng ngoại đạo
thì ở chỗ có thể suy nghĩ, có thể luận bàn mà muốn so đo, lập luận, há
chẳng điên đảo ư?
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy
cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, ở nơi dòng sanh diệt vô
tận khởi sanh so đo thì người ấy sa vào cái chấp điên đảo là sau khi chết
có tướng.
“Hoặc tự củng
cố sắc thân, bảo Sắc là Ta. Hoặc thấy cái Ta tròn đầy, bao trùm khắp các
cõi nước, bảo ta có sắc. Hoặc thấy các tiền trần kia theo ta mà xoay trở
lại, bảo sắc thuộc về Ta. Hoặc thấy cái Ta nương trong Hành Ấm mà tương
tục, bảo Ta ở nơi sắc. Họ đều so tính mà cho rằng sau khi chết có tướng,
tuần hoàn như vậy có đến mười sáu tướng.
“Từ đó mà suy
tính rằng rốt ráo phiền não và rốt ráo Bồ Đề, hai tánh đó đi song song,
không tiếp xúc nhau.
“Do sự so tính
chấp rằng sau khi chết có tướng như vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm
tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Sáu, lập ra những Luận điên đảo Trong năm Ấm, sau khi chết
có tướng.
Thông rằng:
Năm sự suy tính ở trước thì hoặc Có, hoặc Không, hoặc Cũng Có cũng Không,
chưa ra khỏi ba cú, chưa thấy cả hai đều chẳng phải, còn mắc vướng trong
Hành Ấm. Nên ở đây thì so tính việc sau khi chết có Tướng hay không có
Tướng, và Có, Không đều chẳng phải. Rồi lại ở sau Có và Không, khởi lên
hai kiến chấp về Niết Bàn đoạn diệt. Ấy là Hành Ấm đã gần không nên trộm
thấy Thức Ấm vậy. Bởi đến thì trước, đi thì sau, chỉ do Thức làm chủ, nên
chỗ này nói cả năm Ấm.
Đức Long Thắng
nói: “Chúng sanh trong năm đường do nhân duyên của lực Thân Kiến mà thấy
có bốn thứ Ta: Sắc hợp là Ta, Sắc là Ta, Ta trong Sắc, Sắc trong Ta. Hợp
lại mà nói: Chỉ duy Sắc là Ta, chỉ duy lìa Sắc là Ta, Ta ở trong Sắc, Sắc
ở trong Ta. Suy tìm như thế, rốt ráo chẳng thể đắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức
lại cũng như vậy”.
Thế mà ngoại
đạo lại chấp là có tướng. Hoặc tự củng cố cái thân, tức Sắc là Ta vậy.
Hoặc Trùm khắp cõi nước, tức là Sắc ở trong Ta. Hoặc các tiền trần xoay
trở lại, ấy là Lìa Sắc là Ta. Hoặc nương theo Hành Ấm tương tục, tức là Ta
ở trong Sắc vậy. Nương theo bốn lối suy tính này thì Thọ, Tưởng, Hành,
Thức cũng đều vậy cả. Cho đến chỗ Hành là Ta, lìa Hành là Ta, Ta ở trong
Hành, Hành ở trong Ta. Cái suy tính đó là Ta, tức là Thức Ấm vậy. Thảy đều
suy tính rằng sau khi chết lại có mà thành ra mười sáu tướng [Bốn cách suy
tính này lồng vào bốn Ấm: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành]. Phiền não do Ấm mà sanh,
Bồ Đề do Ta mà chứng. Hai tánh Bồ Đề, phiền não song hành cho đến đời vị
lai, đều rốt ráo là có, thế nên nói là lập ra luận điên đảo Trong năm Ấm,
sau khi chết có Tướng. Đây là theo mỗi mỗi chỗ có, rồi nhân có mà cho là
chứng, nên lập ra các Luận này.
Thủ Tọa Bổn Am
Đạo Quỳnh từng nêu lên câu chuyện “Một chiếc dép đi về Tây [Chuyện Tổ Đạt
Ma sau khi tịch]”, rồi nói với đại chúng: “Ngồi chết, đứng tịch, chổng
ngược đầu mà hóa thì chẳng phải không có. Nhưng chưa có ai tịch rồi mà sau
lại để lại chiếc dép. Vậy là con cháu đời sau không bằng Tổ Sư hay là Tổ
Sư có thừa một chiếc ấy?”
Rồi cười lớn
mà rằng: “Con chồn già!”
Mùa Đông Canh
Thân, đời Thiệu Hưng được đón về kinh nhưng không đi, để lại bài kệ cho đệ
tử đắc pháp là Huệ Sơn rằng:
“Miệng mồm
chẳng trúng lão già lành
Thích hướng
tùng lâm dóng thị phi
Dặn dò Tuyết Phong ông Thủ Tọa
Vì
ta nhiếc mắng chớ tha y!”.
Quay về vị sứ
giả đến đón, nói rằng: “Nói với quan Thị Lang giùm tôi rằng việc đi vội
quá, không kịp bồi đáp!”
Dứt tiếng thì
hóa.
Có nhà sư hỏi
Tổ Động Sơn: “Nhà sư sau khi tịch rồi thì đi đâu vậy?”
Tổ Sơn nói:
“Cháy rồi một cọng tranh!”
Ngài Đầu Tử
tụng rằng:
“Khi lửa đồng thiêu, thêm đổi mới
Đến nay khí nóng khó mưa, mây
Đất hạn sen hồng che nhật nguyệt
Không rễ, xanh hoài, mát bóng cây”.
Nếu biết cái
“hữu tướng” này thì tuy nói là có tướng cũng chẳng sao.
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột gốc sanh loại, xem thấy cái
cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, ở trong các Ấm: Sắc, Thọ,
Tưởng đã diệt ở trước khởi sanh so tính, người ấy sa vào những tư tưởng
điên đảo là sau khi chết không có Tướng.
“Người ấy thấy
Sắc Ấm diệt, hình hài không nhân vào đâu. Xét Tưởng Ấm diệt, tâm không
ràng buộc vào đâu. Biết Thọ Ấm diệt, không còn dính dáng. Tánh các Ấm được
tiêu tan, dù có sanh lý mà không có Thọ, Tưởng : đồng như cỏ cây. Cái hình
chất hiện tiền còn không thể nắm được, vậy sau khi chết làm sao còn có các
Tướng ? Do vậy mà cho rằng sau khi chết không có Tướng. Xoay vần như vậy
mà có tám thứ Vô Tướng.
“Từ đó mà suy
tính rằng: Niết Bàn, Nhân Quả, tất cả đều Không, chỉ có danh tự suông, chứ
rốt ráo là Đoạn Diệt.
“Do sự suy
tính, chấp sau khi chết không có Tướng này mà sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm
tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Bảy, lập ra những luận điên đảo Trong ngũ Ấm, sau khi chết
không có Tướng.
Thông rằng :
Cái Đoạn Kiến này là căn cứ nơi sự tiêu diệt của các Ấm Sắc, Thọ, Tưởng mà
suy tính rằng cái sanh lý của Hành Ấm về sau sẽ rốt ráo đoạn diệt. Hành Ấm
diệt thì quy về Biển Tạng Thức. Chỗ so đo của người ấy chưa là vô kiến,
nhưng cái Tạng Thức chẳng thể diệt. Người ấy chỉ thấy cái diệt bèn cho
rằng Niết Bàn, nhân quả tất cả đều không, rốt ráo Đoạn Diệt, mà chẳng biết
rằng cái Vô Tướng này không phải là không có sanh lý. Bởi thế, ước đoán
cái nhân đã mất của bốn Ấm hiện tại mà cho rằng quả tương lai sẽ tiêu
diệt, hợp lại thành ra tám thứ Vô Tướng, bèn lập ra những luận điên đảo
Trong Ngũ Ấm, sau khi chết không có Tướng. Đây cũng là theo cái tâm Đắp
đổi không nơi chốn, nhân cái Không mà cho là Chứng, mà tạo ra luận này.
Tổ Trường Sa
Cảnh Sầm nhân có vị tăng qua đời, lấy tay rờ mà nói: “Này đại chúng! Vị
tăng này lại chánh thực vì các ông mà đề khởi cương yếu, thương lượng đó!
Hiểu không?”
Rồi đọc bài
kệ:
“Trước mắt không một pháp
“Hiện đây cũng không người
“Rỗng rang Kim Cương Thể
“Chẳng vọng cũng chẳng chân!”.
Lại nói:
“Chẳng rõ Kim Cương Thể
“Lại gọi ấy duyên sanh
“Mười phương: Chân Tịch Diệt
“Ai trụ, lại ai hành?”.
Tổ Động Sơn
sắp viên tịch, nói với đại chúng: “Ta có cái tên tuổi suông ở đời, người
nào vì ta dẹp được?”
Đại chúng đều
không đáp được.
Khi ấy, có vị
Sa Di bước ra, nói: “Xin cái pháp hiệu của Hòa Thượng”.
Tổ Sơn nói:
“Cái danh tiếng suông của ta đã rụng rồi!”
Tổ Thạch Sương
nói: “Không có người để kẻ khác chấp nhận”.
Tổ Vân Cư nói:
“Nếu có danh tiếng suông thì chẳng phải là Tiên Sư của tôi”.
Tổ Tào Sơn
nói: “Từ xưa đến nay, không người biện được”.
Tổ Sớ Sơn nói:
“Rồng có cách ra khỏi nước, không người biện được”.
Thầy Đại Dương
Minh An hỏi Tổ Lương Sơn: “Như sao là đạo tràng vô tướng?”
Tổ Sơn chỉ
tượng Quan Âm, nói: “Đây là bức họa của Ngô cư sĩ”.
Thầy An định
nói, Tổ liền hỏi: “Cái đó là cái hữu tướng, như sao là cái vô tướng?”
Thầy An ngay
lời nói có tỉnh ngộ, làm lễ rồi quay về chỗ đứng.
Tổ Sơn nói:
“Sao không nói lấy một câu!”
Thầy An: “Nói
thì chẳng từ chối, chỉ e lấm giấy mực!”
Tổ Sơn cười
lớn, nói: “Lời này gắn trên đá rồi!”
Về sau quả đã
khắc trên bia.
Ngài Đầu Tử
nêu rằng:
“Đạo suốt cổ kim
Bộ
hành khó trải
Núi cao hiểm tuyệt
Leo không chỗ nương
Hoặc chẳng phát minh dấu trước
Thuở nào dẫm bước được đâu
Thế nên ngộ ở tự mình
Ấn
chứng nhờ nơi thầy
Thay nhau chứng minh
Nối Phật huệ mạng
Nơi đây tột đường hỏi lối, sức tận để chỉ bày
Vách ngất trời không cửa, sức hết chỗ tới lui
Rồng vàng đã mất nước, cánh mầu cất cánh mau!
Thấu qua sóng lớn, lại về bổn vị”.
“Này các nhân
giả, chính đang lúc ấy, lại có biết chỗ thoái vị của người xưa không? Như
biết được, thì có thể nói là núi muôn trượng đổ, ngàn sóng hết gầm. Long
cung và cõi Trời chung mái, cung điện cùng tinh tú hợp vẻ. Nham Tùng lồng
đẹp, giòng móc (mưa móc) cỏ thơm. Chẳng phạm đến hóa môn mà ngàn núi đều
lộ ra hẳn. Bằng chẳng biết chỗ về thì hang rộng không người hỏi, rồng buồn
biển cả sâu”.
Tụng rằng:
“Vách núi cùng đường hỏi sơn ông
Lại chỉ ngọn Tây ngọn cận Đông
Định tiến, móc rơi thêm khí núi
Quay đầu bỗng thấy mặt trời hồng”.
Nếu ở chỗ Vô
Tướng này mà được cái tin tức, thì tuy nói không có Tướng cũng chẳng hề
gì.
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy
cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, trong chỗ Hành Ấm còn
tồn tại và Thọ, Tưởng Ấm đã diệt, lại so tính cả cái Có và Không, tự thể
phá nhau, thì người ấy lọt vào những luận điên đảo Sau khi chết, Có và
Không đều chẳng phải.
“Người ấy
trong Sắc, Thọ, Tưởng thấy Có mà chẳng phải Có, trong Hành Ấm chuyển biến
thấy Không mà chẳng phải Không. Xoay vần như vậy cùng tột các Ấm thành ra
tám Tướng Đều chẳng phải. Tùy gặp duyên gì đều nói sau khi chết có Tướng,
không Tướng.
“Lại suy tính
Hành Ấm tánh nó dời đổi nên tâm phát ra thông tỏ, cho rằng Có, Không đều
chẳng phải, hư thật lộn lạo. Do sự so tính, chấp “Sau khi chết, Có và
Không đều chẳng phải” mà việc về sau tối tăm mù mịt, không còn lối đi, sa
lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Tám, lập luận điên đảo: Trong ngũ Ấm, sau khi chết, Có và
Không đều chẳng phải.
Thông rằng:
Đây là kiến chấp Chẳng phải Có, chẳng phải Không vậy. Đó là do nơi sự so
tính cả Có lẫn Không, tự thể của chúng phá nhau. Không chỉ Sắc, Thọ, Tưởng
Ấm diệt nên cho là Có tức chẳng phải Có mà Hành Ấm dời đổi cũng cho là
Không tức chẳng Không. Ở chỗ này mà xoay vần lui tới xét xem thì thấy cái
đã diệt (Sắc, Thọ, Tưởng) trước đây đã từng có, nên tuy là Không mà chẳng
Không. Cái hiện tồn tại (Hành) thì rốt rồi cũng diệt, thì tuy Có mà chẳng
phải Có. Do so tính nước đôi về bốn Ấm như vậy nên thành ra tám thứ Chẳng
Phải. Tùy nêu ra duyên gì đều đủ cả có Tướng và không Tướng. Đây chỉ ở nơi
duyên mà xem thấy sự Có-Không của Tướng, chưa phải là tinh vi vậy.
Lại ở trong sự
dời đổi sanh diệt của tánh Hành Ấm, thấy trong sanh tức có diệt, nên chẳng
phải Có, thấy trong diệt tức có sanh, nên chẳng phải Không vậy. Ở trên
tánh Hành Ấm mà quán xét để thấy Có, Không đều chẳng phải thì chẳng phải
là người tâm đã phát thông tỏ làm sao thấy được. Có mà chẳng Có, đó là
Diệu Hữu. Không mà chẳng Không, đó là Chân Không. Đó mới là Đệ Nhất Nghĩa
Đế Diệu Chân Như Tánh vậy.
Người ấy chỉ ở
nơi tánh Hành Ấm thấy Có và Không đều chẳng phải, còn Thức Ấm ở sau vẫn
còn mù mịt không thấy gì, nên hư thực lộn lạo chẳng biết chỗ về. Đã không
có chỗ quay về an nghỉ thì không thể trọn xong cái Đạo. Tuy muốn phát huy
cái cảnh giới Chẳng phải Sanh, chẳng phải Diệt của Tạng Thức, cũng không
thể được, huống nữa là cái Chân Lý bất sanh bất diệt của Chân Như Đệ Nhất
Nghĩa Đế ư? Cái gọi là thông tỏ của người ấy thì gần giống với cái ngộ của
bậc Duyên Giác, chứ chưa có thể nói là Chánh Ngộ.
Thứ luận Có,
Không đều chẳng phải này cũng từ lối nói càn loạn ở trước : Cũng Có tức là
cũng Không, trong cái cũng Không chẳng phải là cũng Có. Suy tính cùng cực
về việc sau khi chết mà sáng lập ra luận này, đều gọi là điên đảo.
Ngoại đạo hỏi
Phật: “Chẳng hỏi Hữu Ngôn, chẳng hỏi Vô Ngôn”.
Đức Thế Tôn im
lặng chập lâu.
Ngoại đạo tán
thán rằng: “Thế Tôn đại từ đại bi, mở vẹt đám mây mê mờ cho tôi, khiến
được thể nhập!”
Sau khi ngoại
đạo đi rồi, Ông Anan hỏi Phật: “Bạch, ngoại đạo chứng chỗ gì mà nói là
được nhập?”
Đức Phật nói:
“Như ngựa hay trong đời, thấy bóng roi mà chạy!”
Đức Thế Tôn ví
người ngoại đạo với con ngựa hay, vì tâm ấy cũng phát thông tỏ vậy.
Ngài Tuyết Đậu
tụng rằng:
“Máy tạo chưa từng chuyển
Chuyển ắt chạy hai đầu
Gương sáng bỗng trên đài
Ngay đó phân đẹp xấu
Đẹp xấu phân, hề, mây mê vẹt
Cửa Từ sanh bụi chốn nào đâu?
Nhân đây ngựa giỏi theo roi bóng
Lướt gió dặm ngàn kêu được về
Kêu được về, búng tay ba tiếng!”
Có nhà sư hỏi
Tổ Pháp Nhãn: “Như sao là nhà sư tịch, trước mặt chạm mắt là Bồ Đề?”
Tổ Nhãn nói:
“Đó là trước mặt ông!”
Lại hỏi: “Nhà
sư tịch thiên hóa về chốn nào?”
Tổ Nhãn nói:
“Nhà sư tịch thiên hóa hồi nào?”
Nhà sư hỏi:
“Thế bây giờ thì sao?”
Tổ Nhãn nói:
“Ông chẳng biết nhà sư tịch”.
Tổ Pháp Nhãn
tận lực hô hoán mà chẳng biết quay đầu ở đây mà tỉnh ra thì có thể nói “Tứ
cú đều lìa, linh căn độc lộ”.
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy
cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, sanh ra so tính rằng về
sau này là Không, thì người ấy lọt vào bảy thứ luận Đoạn Diệt.
“Hoặc chấp
Thân này là diệt, hoặc chấp hết Dục là diệt, hoặc hết Khổ là diệt, hoặc
Cực Lạc là diệt, hoặc Tột Xả là diệt. Xoay vần như vậy cùng tột bảy cách,
cho rằng hiện tiền là tiêu diệt, diệt rồi không trở lại nữa. Do sự so tính
“Sau khi chết là đoạn diệt” như vậy, sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ
Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Chín lập ra luận điên đảo “Sau khi chết là Đoạn Diệt”.
Thông rằng: Ở
trước thì thấy có Hành Ấm mà không có Thọ, Tưởng; ở đây thì Hành Ấm cũng
không, nên nói rằng “Về sau này là Không”. Ở trước là sau khi chết Vô
Tướng, chỉ thuộc về một cách Thân diệt. Ở đây cùng tột bảy cách, diệt
chẳng sanh lại.
Thân thuộc về
cõi Dục, gồm người và trời. Hết Dục thuộc về Sơ Thiền, hết Khổ thuộc về
Nhị Thiền. Cực Vui thuộc về Tam thiền. Hết Xả thuộc về Tứ Thiền và Vô Sắc.
Tuy nói năm thứ Diệt, thật ra gồm bảy Cách. Đây là vào ngoại đạo Vô Tưởng
Thiên, đại khái đồng một đoạn kiến như Tỳ Kheo Vô Văn, cho rằng đã chứng
quả chẳng thọ Thân đời sau, nên lập cái luận Sau khi chết là đoạn diệt.
Thiền sư Khai
Tiên Chiếu thượng đường nói rằng: “Quy củ tùng lâm, gia phong cổ Phật, một
tham một hỏi, một cháo một cơm. Hãy nói huỵch toẹt ra là cái gì vậy? Chỉ
như các ông, tâm tâm chẳng dừng, niệm niệm chẳng trụ. Bằng như khéo dừng ở
chỗ chẳng dừng, vô niệm ngay trong chỗ niệm, bèn tự hợp lý Vô Sanh. Nói
thế này thì cười bể miệng người khác. Tham đi!”
Nhà sư hỏi Tổ
Vân Môn: “Không khởi một niệm, lại còn có lỗi không?”
Tổ Môn nói:
“Núi Tu Di!”
Ngài Bạch Vân
Đoan tụng rằng:
“Núi Tu Di, hề, nghẽn vũ trụ
Đại bi ngàn mắt nhìn không qua
Trừ phi tự biết cỡi ngược trâu
Một đời khỏi phải theo sau đít”.
Ngài Thiên
Đồng tụng rằng:
“Chẳng khởi một niệm, núi Tu Di!
Thiều Dương thí pháp không lưu giữ
Chịu đến, hai tay phân phó cho
Định đi, ngàn tìm, không thể bám
Biển xanh rộng, mây trắng nhàn
Chớ đem mảy tóc đặt trong đây
Giả tiếng gà kia khó gạt ta
Chưa chịu mơ màng cho qua ải!”
Hai bài tụng
này quả có phân biệt. Nếu bám níu “Chẳng khởi một niệm”, không biết tin
tức “Cỡi ngược trâu” thì tức là “Giả tiếng gà gáy”, chẳng khỏi “Theo sau
đít người” vậy, sao có thể thấu qua cái cửa ải hướng thượng ư?
Kinh: “Lại
nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng vững chắc, Ma
không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy
cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, lại sanh ra so tính rằng
sau này là Có, thì người ấy sa vào năm luận Niết Bàn.
“Hoặc lấy Dục
Giới làm cái chuyển y chánh thật, do xem thấy sáng suốt vẹn khắp mà sanh
yêu mến vậy. Hoặc lấy Sơ Thiền làm cái chuyển y chánh thật, vì thấy tánh
cõi này không có Lo Âu. Hoặc lấy Nhị Thiền, vì tánh nó không có Khổ. Hoặc
lấy Tam Thiền, vì rất Vui Đẹp. Hoặc lấy Tứ Thiền, vì Khổ Vui đều hết,
chẳng chịu luân hồi sanh diệt. Vậy là mê lầm cõi trời Hữu Lậu là tánh Vô
Vi, cho rằng năm chỗ yên ẩn trên là nơi quả báo thù thẳng thanh tịnh. Xoay
vần như vậy cùng tột có năm chỗ.
“Do suy tính
chấp trước năm thứ Niết Bàn hiện có như vậy mà sa lạc vào ngoại đạo, mê
lầm tánh Bồ Đề.
“Đây gọi là
ngoại đạo Thứ Mười, lập ra những luận điên đảo: Trong năm Ấm có năm thứ
Niết Bàn hiện có.
“Anan, mười
thứ cuồng giải Thiền Na như vậy đều do Hành Ấm và tâm dụng công xen nhau,
nên hiện ra những nhận thức đó. Chúng sanh mê dại, không biết tự lượng
xét, gặp các cái đó hiện ra, lấy mê làm ngộ, tự cho là chứng Thánh, thành
tội Đại Vọng Ngữ mà đọa ngục Vô Gián.
“Các ông quyết
phải đem lời của Như Lai, sau khi Ta diệt độ rồi, truyền dạy cho đời Mạt
Pháp, khắp giúp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho Tâm-Ma tự gây
nên những tội lỗi sâu nặng, giữ gìn che chở cho chúng sanh tiêu diệt các
tà kiến, dạy cho thân tâm họ khai mở giác ngộ Chân Nghĩa, không mắc vào
các đường rẽ trong Đạo Vô Thượng. Chớ để họ được một ít đã cho là đủ, và
nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh của vị Đại Giác.
Thông rằng :
Đã nói “Về sau Không” rồi sao trở lại “Về sau Có” vậy nhỉ? Bởi vì, cái cội
nguồn trong trẻo thường máy động kia là cái diệt chẳng được. Chẳng phải
đắc đạo tràng tịch diệt chân thật, ở chỗ diệt mà vọng thấy có sự chứng
đắc, nên gọi là “Về sau Có”. Bởi vì, Hành Ấm trong sát na tạm dừng, cái
sáng suốt vẹn khắp thoáng hiện bày, bèn cho đó là Vô Sanh Diệt, là Niết
Bàn. Rồi ở năm chỗ suy tính là quả Niết Bàn, khiến Niết Bàn mà có năm thứ,
thế thì có thể gọi là Niết Bàn ư?
Bảy cách trên
đã diệt hết, lại lập ra năm thứ Niết Bàn, yêu mến sự sáng suốt vẹn khắp.
Đó là chỗ chung của người và trời, khổ vui đều hết, chẳng chịu sanh diệt.
Tứ Thiền cùng cõi trời Vô Sắc đồng nhau. Năm chỗ yên ẩn này không ra khỏi
ba cõi, ba thứ Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu vẫn ẩn náu như cũ, đó chỉ là
do cái công dụng hữu vi, thuần thục mà thành tựu. Kia chỉ mới chứng Vô
Tưởng Định mà cho là được quả Vô Vi, trong chốn hữu lậu mê lầm mà không tự
biết, hết kiếp lại rơi vào luân hồi, há cho là Niết Bàn chân thật được ư?
Thầy Chí Đạo
cầu hỏi Đức Lục Tổ rằng: “Kẻ học nhân này từ khi xuất gia, đọc kinh Niết
Bàn có hơn mười năm mà chưa rõ đại ý, xin Hòa Thượng chỉ dạy”.
Tổ nói: “Ông
chưa rõ chỗ nào?”
Bạch rằng:
“Các Hành vô thường. Là sanh diệt pháp. Sanh diệt diệt rồi. Tịch Diệt là
vui” - Dạ, nghi hoặc chỗ đó”.
Tổ nói: “Ông
nghi làm sao?”
Bạch rằng:
“Tất cả chúng sanh đều có hai Thân, đó là Sắc Thân và Pháp Thân. Sắc Thân
thì vô thường, có sanh có diệt. Pháp Thân thì hữu thường, vô tri vô giác.
Kinh nói “Sanh diệt diệt rồi. Tịch diệt là vui” thì chưa rõ thân nào tịch
diệt, Thân nào hưởng vui. Nếu là sắc thân thì khi sắc thân diệt, bốn đại
phân tán, hoàn toàn là khổ, khổ không thể nào nói là vui. Nếu Pháp Thân
tịch diệt thì đồng với cỏ cây, ngói đá, ai hưởng vui đây? Lại nữa, Pháp
Tánh là thể của sanh diệt, năm Ấm là dụng của sanh diệt. Một thể năm dụng,
sanh diệt là thường. Sanh thì từ thể khởi ra dụng, Diệt thì thu nhiếp dụng
về thể. Nếu cho là sanh trở lại thì loài hữu tình chẳng đoạn chẳng diệt.
Nếu chẳng cho là sanh trở lại, thì vĩnh viễn quy về tịch diệt, đồng với
vật vô tình. Như thế thì tất cả các pháp đều bị Niết Bàn ngăn cấm, sanh
còn không được, làm sao có vui?”
Tổ nói: “Ông
là con nhà Phật, sao lại huân tập tà kiến đoạn thường của ngoại đạo mà
luận bàn pháp Tối Thượng Thừa! Cứ như ông nói thì ngoài sắc thân lại riêng
có Pháp Thân. Lìa sanh diệt mà cầu tịch diệt. Lại từ chối Niết Bàn vốn
thường lạc, nói là có riêng cái Thân để thọ dụng. Đó là tiếc rẻ sanh tử,
đắm mê cái vui của đời.
“Giờ đây, ông
phải biết: Phật vì tất cả những người mê lầm, họ nhận lấy năm ấm hòa hiệp
cho là tướng tự thể, lại phân biệt tất cả pháp làm ra trần tướng bên
ngoài, thế rồi tham sống ghét chết, niệm niệm trôi dời mà chẳng biết là
mộng huyễn hư giả, để uổng chịu luân hồi. Lấy Niết Bàn thường vui đổi ra
cho là tướng khổ, suốt ngày tìm kiếm bôn ba. Phật thương xót mà chỉ bày
cái Niết Bàn chân lạc, không sát na nào có tướng sanh, không sát na nào có
tướng diệt, lại không có sanh diệt nào khá diệt, đó là Tịch Diệt hiện
tiền. Ngay đang hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới là thường
lạc. Cái Lạc này không có cái thọ, mà chẳng không có cái gì chẳng thọ. Há
có cái tên “Một Thể Năm Dụng”, huống lại còn nói “Niết Bàn trừ diệt các
pháp, khiến cho vĩnh viễn chẳng sanh?” Nói vậy là chê Phật, phá Pháp.
“Hãy nghe kệ
của ta:
“Vô Thượng Đại Niết Bàn
Sáng đầy hằng lặng chiếu
Người phàm cho là chết
Ngoại đạo chấp là Đoạn
Các người cầu Nhị Thừa
Thấy đấy là vô tác
Thảy theo tình suy nghĩ
Gốc sáu hai tà kiến
Vọng lập danh hư giả
Dính dáng gì nghĩa chơn
Chỉ người vượt suy lượng
Thấu suốt, không nắm bỏ
Vì
biết pháp Năm Uẩn
Và
cái Ta trong Ấm
Ngoài hiện các sắc tượng
Mỗi mỗi tướng âm thanh
Bình đẳng như mộng huyễn
Chẳng khởi thấy Thánh, phàm
Chẳng thành Niết Bàn giải (hiểu)
Nhị biên, tam tế dứt
Thường ứng (thành) dụng (của) các căn
Mà
chẳng khởi dụng tưởng
Phân biệt tất cả pháp
Chẳng khởi tưởng phân biệt
Kiếp hỏa thiêu đáy biển
Gió thổi núi chạm nhau
Chân thường tịch diệt lạc
Niết Bàn là như vậy
Ta
nay miễn cưởng nói
Khiến ông xả tà kiến
Ông chớ theo lời hiểu
Cho ông biết ít phần”.
Thầy Chí Đạo
nghe kệ xong đại ngộ, làm lễ rồi lui ra.
Như chỗ luận
của Đức Lục Tổ, chỉ thẳng chân nghĩa, thật nêu ra lời chỉ dạy thanh tịnh
của bậc Đại Giác Vương. Khế hợp được lời nói này thì các kiến chấp rẽ
nhánh chẳng sanh, tâm ma tự hết, ngõ hầu phá được Hành Ấm mà vượt khỏi
chúng sanh trược vậy. |