BƯỚC ĐẦU TRÊN CON ĐƯỜNG THIỀN
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6]
PHƯƠNG PHÁP TU CỦA TU VIỆN CHƠN KHÔNG hơg Buổi nói chuyện hôm nay, tôi không nói những cái phát minh mới, chỉ tŕnh bày đường lối chủ trương của Tu viện để các Thiền sinh nắm vững mà tu học cho đúng, không c̣n nghi ngờ, và nếu có tŕnh bày cho người học hiểu th́ tŕnh bày được chính xác và rơ ràng. Muốn rơ đường lối tu hành của Tu viện Chơn Không, th́ trước hết phải nh́n, lui về lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Phật giáo Trung Hoa từ đời Tấn tới đời Đường chia ra mười tông phái. Về sau, từ thời Nguyên, đời Minh, đời Thanh c̣n lại có bốn tông là: Thiền, Giáo, Tịnh, Mật. Giáo trùm cả Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Pháp Tướng tông... Nói chung, các tông có chủ trương học kinh, học luật, học luận đều thuộc về Giáo. C̣n Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông th́ có chủ trương riêng. Tuy chia ra làm bốn tông hoằng hóa, nhưng có hai tông nổi bật là Giáo và Thiền. Giáo chỉ cho những vị tu sỹ chuyên học và tŕ tụng kinh điển, chùa nào học và tŕ tụng kinh điển th́ được coi như tu theo Giáo. C̣n Thiền thời bấy giờ là nhắm thẳng Thiền Thoại đầu, do chư Tổ ḍng Lâm Tế từ đời Tống xiển dương. Hai bên Thiền và Giáo có chủ trương khác nhau nên công kích lẫn nhau. Thiền th́ công kích Giáo là kiến giải suông, chỉ học hiểu mà không thực hành. Giáo th́ công kích Thiền là Thiền ngu dốt, không thông giáo lư, v́ Thiền chuyên tu thoại đầu chủ trương độn công phu. Nghĩa là Thiền sinh chỉ tin vào vị thầy hướng dẫn, vị hướng dẫn cho một câu thoại đầu, thiền sinh phải dùng hết tâm lực khán câu thoại đầu đó cho tới ngày ngộ chớ không học kinh điển, ngoại trừ những buổi khai thị của vị thầy th́ mới tham học. Do đó, hai tông có cớ để công kích lẫn nhau. C̣n Tịnh Độ tông và Mật tông th́ có chủ trương đường lối riêng, nên ở đây không bàn tới. Xét ra, Thiền và Giáo bên nào cũng có cái ưu, nhưng cũng không tránh khỏi cái khuyết. Giáo ưu ở học kinh điển, nhưng khuyết ở chỗ học hiểu mà không hành, chỉ đem kinh điển ra giảng nói tụng đọc thôi. Kinh luật Phật dạy để cho người thực hành, chớ không phải dạy để giảng thuyết suông hay tụng đọc suông mà không thấy chân lư. Thiền chuyên khán thoại đầu, được cái ưu là dồn hết tâm lực trong câu thoại đầu, không bị chi phối bởi những kiến giải. Nhưng v́ không học kinh điển, nên chỉ tu đến khi nào ngộ mới có thể ra giáo hóa được, nếu chưa ngộ th́ lúc đó đành chịu độn công phu! Thiền được coi là một tông phái không trọng giáo. Bởi không trọng giáo nên lâm vào cái lỗi lớn là tu mà không thông giáo lư Phật, và sau lại vấp thêm cái lỗi thứ hai nữa là: V́ không trọng giáo chỉ chuyên khán thoại đầu để chờ ngộ đạo, song mỗi pháp hội có năm bảy trăm thiền sinh, mà người ngộ đạo chỉ một hai thôi, những người không ngộ đạo th́ sao? Đó chính là cái nhân làm cho thiền thoại đầu biến các chùa Thiền tông thành Tịnh độ sau này: Tại sao vậy? V́ khi khán thoại đầu mà không ngộ th́ tốt hơn là trở lại niệm Phật, v́ niệm Phật nhẹ nhàng ít học hơn khán thoại đầu. Ví dụ khán câu: "Niệm Phật là ai?" Thiền sinh dồn hết tâm lực vào câu hỏi mà không trả lời được, để chờ ngộ... Người khán thoại đầu th́ tin vào lời của vị thầy chỉ dạy, hướng theo đó tu cho tới khi ngộ đạo, chớ không trông cậy vào kinh Phật. Về sau có nhiều người cho rằng tin Phật nhất là Phật A Di Đà, trong bốn mươi tám lời nguyện có lời nguyện "Ai niệm danh hiệu Ngài sẽ được Ngài đón về Cực Lạc". Tin và Tu như vậy dễ hơn. Do đó, người tu thiền dần dần chuyển sang Tịnh độ. Chính ở Việt Nam các chùa Thiền tông sau này biến thành chùa Tịnh độ cũng v́ lư do đó.Không phải ai khán thoại đầu cũng đều ngộ, nếu không ngộ th́ cả đời tu không sáng sủa. Hai tông Thiền Tịnh đều có cái ưu và cái khuyết, Tịnh độ ưu là tin vào Đức Phật Ai Di Đà, khuyết là cơi Cực lạc th́ quá xa. C̣n Thiền thoại đầu khuyết là không tin Phật mà chỉ tin vào vị Thiền sư hướng dẫn, ưu là ngộ ngay nơi chính ḿnh. Đó là ưu khuyết của hai tông Thiền Tịnh. Về sau Tịnh độ có phần hưng thịnh v́ thiền thoại đầu thiền sinh tu lâu ngày thấy nhọc nhằn mà không ngộ đạo, lần lần chuyển sang Tịnh độ niệm Phật nhẹ nhàng dễ hơn. Đó là lư do mà người sau phải suy nghĩ. Giáo th́ nặng về kinh chỉ học, tŕ tụng thuyết giảng suông mà không ứng dụng tu hành. Thiền th́ chỉ khán thoại đầu mà không chịu học kinh, v́ học kinh điển sợ trở thành kiến giải. Cả hai đều có tánh cách thái quá, cho nên Tu viện Chơn Không chủ trương Thiền Giáo song hành. Về Giáo, thiền sinh phải học kinh, luận, sử. Về Thiền, th́ phải thực nghiệm tu tập. Các Thiền sư thường nói Giáo là lời Phật nói hay là miệng của Phật, Thiền là tâm của Phật, tâm và miệng của Phật không hai. V́ tâm và miệng của Phật không hai nên Thiền và Giáo không hai, v́ vậy Tu Viện Chơn Không chúng tôi chủ trương Thiền Giáo song hành. Từ lâu tôi thường nói với tất cả Thiền sinh rằng: Đối với Tam Bảo, tôi có niềm tin rất sâu, cho nên lúc nào cũng gắng làm cho ngọn đèn Phật pháp sáng tỏ, không muốn bị lu mờ. Nếu chúng ta chuyên tu Thiền thoại đầu th́ quên học kinh luận, mà quên học kinh luận th́ vô t́nh phế Pháp bảo mười người tu thoại đầu chắc ǵ mười người ngộ, hay năm người ngộ, hay một hai người ngộ? Nếu không ngộ th́ ngọn đèn Phật pháp dần dần tắt mất, đó là điều tu sỹ chúng ta phải thận trọng. Ở Việt Nam, trong thời chúng tôi tu học th́ Phật giáo chia tổng quát làm ba nhóm (chia thành nhóm chớ không chia thành phái). Nhóm thứ nhất lấy kinh điển Phật làm nghề sanh nhai, đi tụng tán để có tiền sanh sống, được gọi là Thầy cúng Thầy đám, nhóm này cũng khá đông. Nhóm thứ hai là những người tốt, nhưng v́ ít học ham tu nên nặng về tín ngưỡng, tu một cách mù quáng, tu mà không hiểu giáo lư, cho nên chỉ biết cúng rằm cúng vía, tụng kinh tính bộ, lạy tam thiên Phật, lạy Pháp Hoa từng chữ. Tu nhiều là cúng nhiều, lạy nhiều, tụng nhiều. Đó là chủ trương của nhóm thứ hai, gồm một số chùa ở thôn quê, và ở thành thị cùng có. Nhóm thứ ba là những người học có cấp bằng, hiểu giáo lư đạo Phật như triết học. Đó là trường hợp của chúng tôi học ở Phật học viện, học rất nhiều môn, học có chương tŕnh, có thi cử đàng hoàng. Bởi lo thi cử nên ai nấy cắm đầu học, học để thi lấy bằng! Rốt cuộc trong khi học giáo lư Phật, cũng không có th́ giờ để tu. Việc tu th́ gượng gạo, một ngày 24 giờ, một hai thời công phu cho qua ngày thôi, chớ không có sự chuyên tu. Đến khi măn khóa học ra trường phải đi giảng dạy, mà giảng dạy th́ phải tổ chức. Vừa lo giảng dạy vừa lo tổ chức cho giáo hội nên cũng không có th́ giờ tu. Vậy nhóm thứ ba này được ưu điểm là có học, nhưng lại cũng thiếu tu. Hồi hội Phật học Nam Việt cất chùa Xá Lợi, có xin Sư cụ Pháp chủ Khánh Anh hai câu đối để ghi trong giảng đường. Sư Cụ cho hai câu :" Học mà không tu là đăy đựng sách, tu mà không học là tu mù". Hai câu đối đó, đến nay vẫn c̣n ghi ở giảng đường chùa Xá Lợi. Sư cụ nhắm hai nhóm người: nhóm nặng tín ngưỡng ham tu mà không học, lấy cúng tụng lễ lạy làm trên, tu một cách mù quáng, và nhóm nữa là ở Phật học viện, học cốt ghi nhớ cho nhiều để ra giảng dạy lo làm việc không tu được ǵ hết, giống như cái đăy đựng sách. Đó là tệ trạng Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ, chính tôi là người trong cuộc. Suy nghiệm thấy cái lỗi thiếu sót của ḿnh nên tôi nhập thất chuyên tu và chủ trương lập tu viện. Tôi lập tu viện mà không cất chùa, v́ sợ cất chùa Phật tử tưởng như các chùa khác sẽ mời đi cúng đi tụng. Và để tránh hai cái lỗi: học trở thành cái đăy đựng sách, tu mà không biết Phật Tổ dạy cái ǵ cứ tu mù. Nên tôi dung hội cả học lẫn tu để hướng dẫn cho Thiền sinh trong tu viện. V́ học mà biết ứng dụng sở học để tu th́ không phải là cái đăy đựng sách, v́ tu mà có học hiểu thông suốt giáo lư nên không phải là tu mù. Như vậy, chủ trương mà Tu viện Chơn Không đang thực hiện là "Thiền Giáo song hành". Học ở Phật học viện th́ phải nhớ, phải thuộc để thi cử. C̣n học ở Tu viện là để hiểu tự tham cứu tu hành, không bắt phải nhớ, phải làm bài, phải thi cử. Bởi học phải nhớ phải làm bài, phải thi cử nên tâm bị rối, c̣n học để ứng dụng tu hành th́ không có ǵ phiền bận. Ở đây, tôi giảng kinh, luận, sử cho quư vị nghe, ai nhớ được bao nhiêu th́ nhớ, và nhớ được bao nhiêu ứng dụng tu bấy nhiêu. Học để thi cử và học để tu khác nhau ở chỗ đó. V́ vậy, tu viện chủ trương tu "tri vọng" chớ không dạy khán thoại đầu. Tại sao? V́ học và tu song hành, nếu khán thoại đầu là phải bỏ học, mà bỏ học tức nhiên phế giáo, nên không thể ứng dụng thoại đầu được, đó là lư do thứ nhất. Lư do thứ hai như tôi đă kể, tôi không phải là người được kế truyền tông Lấm Tế, nên tôi không dạy tu thoại đầu. V́ chủ trương của Thiền thoại đầu là lấy ngộ làm chỗ cứu cánh. Nhưng ngộ th́ phải nhiều lần, giải ngộ th́ vô số, tiểu ngộ th́ năm bảy lần, chứ không phải ngộ một lần là xong. Cho nên người tu thiền thoại đầu đến chỗ cứu cánh là triệt ngộ, người đó mới là người xuất cách, có thể hoằng hóa được. Ở đây, chúng tôi chủ trương tu là "tỉnh giác" chứ không nói ngộ. Qúy vị phải hiểu cho thật kỹ chỗ này. Tỉnh giác là lúc nào cũng biết đúng không lầm. Từ lâu, chúng ta nhận lầm cái tứ đại này là thân ḿnh, cái suy tư, nghĩ tưởng, cảm thọ, phân biệt là tâm ḿnh. V́ cho tứ đại hư giả là thân ḿnh, vọng tưởng là tâm ḿnh, nên bị nó sai sử chạy hết nơi này đến chỗ nọ. Khi biết rơ nó là duyên hợp hư giả, là vọng tưởng không phải là ḿnh (ngă) đó là tỉnh; quên, nhận cái vô thường sanh diệt đó là ḿnh, để nó dẫn đi đó là mê. Một phút tu là một phút tỉnh, tỉnh từng phút từng giây nên không có cái ngộ mạnh mẽ như khán thoại đầu. Thứ đến là trong khi học kinh nghe lời Phật Tổ dạy có thể tỉnh, nhận ra cái nào chơn cái nào giả, đó là tỉnh giác chớ không phải đại ngộ. Tỉnh là biết các pháp không phải thật, c̣n cái thật th́ chưa nhận ra. Vậy nên, đường lối tu ở đây là hằng tỉnh hằng giác. Bởi v́ lâu nay chúng ta quen thấy cái ǵ cũng thật, mà vạn vật nguyên là duyên hợp hư dối, thấy nó thật là mê. Bởi mê cho nên đuổi theo vật chạy hết chỗ này đến chỗ khác, do đó mà khổ đau. Bây giờ tỉnh giác, thấy rơ các pháp đều duyên hợp hư dối. Hoặc là quán cảnh vật huyễn hóa, hoặc quán sắc thân duyên hợp hư dối, hoặc quán vọng tưởng không thật cũng là huyễn. Như vậy trong giờ phút nào cũng sống trong sự tỉnh giác, đó là tu. C̣n thiền thoại đầu, khi tham thiền th́ chết sống với câu thoại đầu, lúc đó dồn hết tâm lực vào câu thoại đầu, không tỉnh không giác. Trong thời gian khối nghi chưa vỡ, thiền sinh ở trong trạng thái tối tăm, v́ vậy khi ngộ th́ mạnh lắm. C̣n tu "tri vọng" do tỉnh giác từng phút giây, cho nên có tỉnh thêm chút nữa cũng thường, không thấy quan trọng. Song, giờ nào tu giờ đó tỉnh. Giả sử trong tu viện năm mười người tu, năm mười người đó tuy chưa triệt ngộ, nhưng có tỉnh giác th́ tu hành có tiến, do điều phục được phiền năo, nên có đủ niềm tin và nương theo lời Phật Tổ vẫn có thể giảng dạy cho người sau cùng tu tập. Đó là điểm đặc biệt. Nếu tham thoại đầu mà chưa ngộ, th́ không dạy được, v́ đang dồn tâm lực vào câu thoại đầu. Do đó, có những vị Thiền sinh lo tu quên cắt móng tay, râu tóc ra dài, tham thiền quên hết mọi việc, nên khi chưa ngộ th́ không làm ǵ cả. Ở đây tu viện chủ trương phải thường xuyên tỉnh giác, tuy chưa chứng ngộ, nhưng giác ngộ tới đâu th́ chỉ dạy người sau tu tới đó, mà y theo lời Phật Tổ dạy chớ không phải dạy riêng theo ư ḿnh. Vậy, chủ trương của tu viện Chơn Không chẳng phải chỉ chuyên tu mà không có sự lợi tha. C̣n người tham thoại đầu hoặc 5 năm, 10 năm, 20 năm mới ngộ, đó là người có phước lớn. C̣n nếu tu 5 năm, 10 năm, 20 năm mà không ngộ coi như cuộc đời chịu chết trong độn công phu. Vẫn biết rằng không ngộ th́ thôi, nhưng chưa ngộ th́ cả đời tu không làm được ǵ lợi ích cho đời. Hơn nữa, thời cuộc không cho phép người tu ai đến học đạo cũng bảo "Tham đi" mà cần phải lư giải, lư giải th́ phải học, vừa học vừa tu. Khán thoại đầu kẹt ở chỗ không học, ngoại trừ những người học rồi, chỉ chuyên tu th́ được. Đó là sự khác biệt của đôi bên. Chủ trương tu "tri vọng" của Tu viện Chơn Không xuất xứ từ đâu? Đó là vấn đề quan trọng. Sau này, có một số người lầm cho rằng: Tu theo Tổ sư thiền là phải khán thoại đầu, tu mà học kinh luận th́ không phải thiền Tổ sư. Đây, tôi xin đặt câu hỏi: Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn có phải là Tổ sư không? Ngài đă từng dạy đệ tử tụng kinh Kim Cang và cũng từng giảng kinh Kim Cang cho Lục Tổ nghe và ngộ đạo. Vậy, Ngài là Tổ sư hay chẳng phải Tổ sư? Hiện tại có một số người cứ cho rằng khán thoại đầu mới là Tổ Sư Thiền, không khán thoại đầu không phải Tổ sư thiền, đó là điều lầm lẫn rất lớn. Lại, có người cho rằng học kinh không thể ngộ đạo, điều đó cũng không đúng. Chính Ngài Huyền Giác trước do xem kinh Duy Ma Cật mà ngộ đạo, sau mới tới Lục Tổ để ấn chứng. Học kinh không ngộ là v́ theo lối học từ chương để thi cử. Người do tu tập tâm dần dần thanh tịnh, đọc qua kinh Phật hoát nhiên tâm sáng ra nhận được lư chân thật. Như trường hợp Ngài Huyền Sa nhập thất tu, Ngài nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm mà ngộ đạo, hoặc như Ngài Pháp Loa thuộc phái Trúc Lâm Yên Tử cũng do đọc kinh Lăng Nghiêm mà được ngộ. Như vậy, quan niệm tu thiền học kinh không ngộ là không đúng. Học kinh bằng cách vừa nghiên cứu vừa tu, th́ có thể nhân nơi kinh mà ngộ đạo. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Ngài Pháp Đạt chưa thấy đạo đến hỏi lư kinh Pháp Hoa. Sau khi được Lục Tổ giải nghi, Ngài nhận được yếu chỉ, Ngài mới hỏi rằng: Hiểu được lư kinh khỏi tŕ tụng được chăng? Lục Tổ đáp: Kinh đâu có làm chướng ngại ông. Vậy, Tổ bảo tụng kinh hay không tụng? Đạt được lư đọc kinh có hại ǵ? Như vậy, Ngũ Tổ đă dạy đệ tử tụng kinh. Lục Tổ cũng đâu có cấm tụng kinh. Lục Tổ ngộ đạo từ nơi kinh Kim Cang, cho nên trong bài kệ Vô tướng của Lục Tổ có câu: "Tông thông cập thuyết thông, như nhật xử hư không". Tông thông là thiền mà thuyết là giáo, Thiền và Giáo cả hai đều thông suốt giống như mặt trời giữa hư không sáng rỡ. Để thấy, chủ trương của chư Tổ đâu có phế bỏ kinh. Người sau không nghiệm tới nguồn gốc, cứ nhắm mắt mà lớn tiếng công kích, thật là một việc làm quá sai lầm! Tông Tào Động, tông Lâm Tế, tông nào không phải là Tổ sư thiền? Ngài Đại Huệ thuộc tông Lâm Tế chỉ trích tông Tào Động về "mặc chiếu, vậy chủ trương của tông Tào Động có sai không? Sự công kích đó chẳng qua là do tinh thần ức dương của người truyền đạo, cứ đề cao sở trường của ḿnh, và đè bẹp pháp tu của kẻ khác. Nếu có người tới hỏi đạo, mà khen pháp tu của kẻ khác th́ làm sao tŕnh bày được sở trường của ḿnh. Ai không biết pháp tu Tịnh Độ và tu Thiền đều từ kinh Phật dạy. Vậy mà có người tới hỏi Thiền với vị tu Tịnh Độ liền bị dọa coi chừng điên, tu Thiền khó lắm, mà khen pháp tu Tịnh Độ. C̣n người tu Thiền th́ nói Tịnh Độ quá nặng tín ngưỡng, tu c̣n mượn phương tiện, không mạnh. Đó là do tinh thần ức dương của người truyền đạo. Người sau thấy Ngài Đại Huệ bác "mặc chiếu" của tông Tào Động, tưởng tu "mặc chiếu" là sai, đó là một cái lầm lớn của người sau, không chịu nghiên cứu tường tận. Nghe người trước khen chê th́ theo đó mà khen chê, chứ không hiểu được gốc ngọn. Đường lối của tu viện Chơn Không là Thiền Giáo song hành, nếu hiểu đúng làm đúng th́ đâu có khác chủ trương "tông thông thuyết thông" của Lục Tổ, tông thông thuyết thông như mặt trời chiếu sáng giữa hư không có lỗi lầm ǵ? Đó là chủ yếu mà người tu phải hiểu phải thấy cho thật rơ. Do đó, khi lập tu viện, tôi chủ trương Thiền Giáo song hành, hai bên phải nương nhau, nương Giáo để thông Thiền, nhờ tu thiền sáng được kinh. Cả hai hỗ tương nhau chớ không tách rời. Nhờ vậy, nếu chưa tu được viên măn vẫn có thể nêu cao ngọn đèn chánh pháp chớ không làm cho tắt mất. Nhờ có Giáo làm nền tảng căn bản th́ không xiển dương theo ức thuyết. Nếu chỉ khán thoại đầu, không học kinh, nghi t́nh chưa vỡ làm sao dám ra giảng dạy? Nên hiểu đường lối tu hành ở đây là vừa học, vừa tu, vừa có thể hoằng hóa. Cái thấy biết của ḿnh là cái thấy biết nương nơi cái thấy biết của Phật Tổ, đồng thời chiêm nghiệm ứng dụng lời Phật Tổ để thấy rơ lẽ thực của các pháp. Ngài Huệ Khả thưa Tổ Bồ Đề Đạt Ma: - Tâm con bất an, xin thầy dạy con phương pháp an tâm. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nh́n thẳng vào mặt Huệ Khả bảo: - Đem tâm ra đây ta an cho. Huệ Khả sửng sốt nh́n lại không thấy tâm, thưa: - Con t́m tâm không thể được. Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo: - Ta đă an tâm cho ngươi rồi. Huệ Khả liền khế ngộ. Huệ Khả nói tâm bất an là nói cái vọng tâm xao xuyến rối bời mà lâu nay ai cũng chấp nó là tâm ḿnh, nên thấy bất an. Và khi Sơ Tổ bắt chúng ta nh́n thẳng mặt vọng tâm thấy nó tự tan biến lặng lẽ, tức biết nó hư vọng th́ tâm an. Vậy, chủ trương "biết vọng" có căn cứ rơ ràng không phải ức thuyết. Một hôm, Ngài Huệ Khả bỗng nhiên đại ngộ, bạch với Tổ Bồ Đề Đạt Ma: - Nay con các duyên đều bặt. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: - Coi chừng lạc vào không. Huệ Khả thưa: - Con thường biết rơ ràng nói không thể đến. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: - Đây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên hồ nghi. Vậy, vọng tưởng lặng th́ "cái liễu liễu thường tri" hiện tiền, đó là chỗ cứu cánh viên măn, gọi là như như. Tu "biết vọng" cho chúng ta kinh nghiệm là nh́n ḿnh càng kỹ th́ thấy lỗi ḿnh càng nhiều. Tôi ví dụ, có một đài cổ Phật, mà tượng cổ Phật bị quỷ khiêng quăng mất, c̣n cái đài trống nên ngày nào quỷ nó cũng nhảy lên múa hát. Bấy giờ, có người phát tâm sùng bái, liền thỉnh tượng cổ Phật an vị trên đài. Vừa để tượng lên là quỷ nó đem quăng xuống, thành thử an vị không được. Họ mới cầu cứu các thầy tu tới trị giùm con quỷ. Thầy tu Tịnh Độ viết sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật dán lên cái đài, quỷ nó hơi sợ, thầy dán xong thầy đi, quỷ giật tượng cổ Phật xuống, leo lên đài múa may nữa. Thầy tu Mật tông đến dán câu chú "Aùn ma ni bát di hồng", nó cũng sợ nhưng khi thầy đi vắng, nó cũng giật tượng xuống trồi đầu lên nhảy múa. Thiền sư tới dán câu "Niệm Phật là ai?" dán rồi lại lơ lơ là là, nó cũng giật tượng cổ Phật xuống leo lên nhảy múa nữa. Một Thiền sư khác tới, vị này không viết không dán, mà ngồi đó, đứa nào trồi đầu lên, ông chỉ vào mặt nó nói: mày là quỷ! Nó thụt đầu lặng mất. Lúc đầu nó có sợ, nhưng khi nào ông ngó lơ nó lại trồi đầu lên múa nhảy. Nên ông phải ngồi đó mà canh chừng hoài. Vậy, trong các sư trị quỷ vị nào công hiệu hơn? Vị nào cũng công hiệu nhưng phải có mặt thường trực, nếu không có mặt thường trực th́ hết công hiệu. Tu thiền thoại đầu cũng phải chăm chăm không lơi lỏng mới có công hiệu. Tu Tịnh Độ niệm Phật cũng phải chuyên chú không quên mới có công hiệu. Tu Mật tông tŕ chú miên mật, không gián đoạn mới có công hiệu. C̣n thiền biết vọng luôn luôn phải tỉnh phải giác mới có công hiệu. Vậy, pháp môn nào cũng không dễ. Các pháp tu có đề mục xem chừng như dễ tu, thiền thoại đầu có câu thoại đầu để khán, Tịnh Độ có câu Nam Mô A Di Đà Phật để nhớ, Mật tông có câu chú để tŕ. Nhờ nương vào phương tiện mà quên nghĩ nhớ đến những việc khác, vọng tưởng không khởi. C̣n tu "biết vọng" dùng trí nh́n thẳng, không có phương tiện để nương, mới tu xem chừng khó, những tật xấu, những tưởng bậy muôn đời muôn kiếp cứ trổi dậy, thấy rơ ràng th́ ra ḿnh xấu xa, tu dở quá! Nói khó nói dễ là do nhận định thiển cận, thật sự th́ pháp này cũng như pháp kia khán thoại đầu, niệm Phật, tŕ chú, nhờ bám sát phương tiện để dừng vọng tưởng, nên không thấy vọng tưởng khởi. Nhưng nếu tu không chuyên lơi lỏng th́ vọng tưởng cũng trồi lên thành dở. Tri vọng th́ dùng trí nh́n thẳng, mọi vọng niệm tốt xấu trồi lên, ngay đó thấy tường tận. Đó là chỗ ách yếu, thiền sinh tu phải biết rơ. Tuy nhiên, đối với người sơ cơ, tu nương theo phương tiện th́ dễ thực hành hơn là "biết vọng", v́ dùng trí nh́n thẳng nên đ̣i hỏi người sống mạnh về trí. Biết vọng tưởng, vọng tưởng lặng th́ nó tự chơn. Xét về phương tiện, pháp môn niệm Phật được giải thích "đạp gai lấy gai mà lể", khán thoại đầu th́ nói "dùng độc để trị độc". V́ đúng tinh thần của đạo Phật, tu đến chỗ rốt ráo là vô niệm, c̣n niệm là c̣n sanh tử, dù là niệm ác hay niệm thiện. Lục Tổ khai thị Huệ Minh: "Không nghĩ thiện không nghĩ ác cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?" Nghĩ thiện nghĩ ác đều là niệm, mà c̣n niệm th́ không phải là bản lai diện mục, c̣n niệm là c̣n bệnh. V́ vậy, niệm Phật hay tŕ chú được xem như dùng gai để lể gai, dùng cây gai niệm Phật để lể những cây gai vọng tưởng điên đảo khác. Các cây gai vọng tưởng được lể hết th́ cây gai niệm Phật phải bỏ luôn. Nếu những cây gai vọng tưởng được lể hết rồi, mà cây gai niệm Phật c̣n giữ lại cũng c̣n bệnh. Cho nên dùng phương tiện tu phải biết cho tường tận. Do đó, trong nhà Thiền nói con mắt bị bụi dơ bám thành bệnh, mà mạt vàng tuy quư rơi vào cũng bệnh, con mắt trong suốt không bị dính một vật ǵ mới lành mạnh. Pháp môn niệm Phật, phải niệm tới chỗ vô niệm, tức là câu A Di Đà Phật cuối cùng cũng buông luôn. Tâm nhất như mới là chỗ cứu cánh. Tu thoại đầu được coi là "dùng độc trị độc". Tại sao gọi là độc? V́ khán thoại đầu là để khởi nghi một vấn đề không trả lời được. Mà nghi là một trong sáu món căn bản phiền năo, dùng phiền năo để tu là dùng độc chứ ǵ? Khi nghi một vấn đề ǵ mạnh th́ quên hết những việc khác. Các Tổ kinh nghiệm, dùng nghi để lấn áp, đối trí loạn tưởng, nên các Ngài mới đưa ra câu nghi vấn "niệm Phật là ai?" hay "trước khi cha mẹ chưa sinh ta là cái ǵ?" hoặc "tất cả trở về một, một trở về chỗ nào?" Bất cứ câu nào miễn nghi vấn mạnh th́ nó lấn áp hết mọi loạn tưởng khác, lần lần nó kết thành khối, khối nghi vỡ vọng tưởng hết th́ ngộ đạo. Đó là dùng độc nghi để trừ vô số độc vọng tưởng. Nếu nghi t́nh chưa vỡ, th́ cứ ở trong trạng thái nghi, mà c̣n nghi th́ không làm ǵ được. Như vậy, để thấy rơ mỗi pháp tu có công hiệu riêng của nó. Tu thoại đầu, niệm Phật hay tŕ chú th́ nặng về tín (tin). C̣n tu tri vọng th́ nặng về trí, dùng trí thấy rơ không lầm, nên hằng tỉnh hằng giác từng phút từng giây. Nếu quên th́ t́nh sống dậy, t́nh sống dậy th́ trí mờ đi. Cho nên tu muốn tiến, phải khéo tỉnh giác luôn luôn, thiếu tỉnh giác th́ tu không tiến được. Tu "biết vọng", với những người sơ cơ, khó tin ḿnh hết vọng tưởng, chỉ có những người đă nhận ra "ông chủ" mới tin ḿnh có thể hết vọng tưởng, vọng tưởng hết tâm chơn hiện, không nghi ngờ. C̣n người chưa nhận ra "ông chủ", khi vọng tưởng lặng rồi phải biết thêm rằng vọng tưởng lặng tức tâm thể như như. Nhiều người tu chú tâm vào một chỗ để cho yên, có khi kẹt trong cái yên đó gọi là si định (định không sáng). Vậy nên, vọng tưởng lặng phải tạm biết đó là tâm thể như như, để không mắc kẹt trong si định. Cái lặng lẽ là tâm thể như như hiện tiền, nó liễu liễu thường tri th́ không bị kẹt ở trong vô kư. Tu "biết vọng" vấp một lỗi nữa là lo kềm tâm cho vọng tưởng lặng, thở không sâu nên lói nơi ngực bèn cho là đau tim. Giai đoạn đầu tu hơi thở rất quan trọng, phải thở sâu tới bụng dưới, chú ư hơi thở nhẹ, đều, dần dần vọng tưởng dấy, biết là vọng tưởng, không theo. Tu như vậy là không sai, không bệnh. Tu "biết vọng" nếu cảm thấy buồn hoặc đau đầu có thể khởi quán, quán có hai cách: - Quán không: Là quán tất cả pháp duyên sanh như huyễn, thân duyên sanh như huyễn, cảnh duyên sanh như huyễn không thật. Quán xét rơ ràng tường tận, quán măi như vậy, đó là pháp "đoạt cảnh bất đoạt nhơn" của Ngài Lâm Tế. - Dùng quán tu chỉ: Quán tất cả pháp như huyễn không thật, nên không để tâm nghĩ tưởng. Niệm vừa khởi liền quán tất cả pháp như huyễn th́ vọng niệm tự lặng, nếu vọng niệm khởi nữa cũng quán như vậy, th́ tâm được an định. Chẳng những quán lúc ngồi thiền, mà đi đứng làm việc cũng quán như thế. Đó là trước quán sau chỉ. Như kinh Viên Giác dạy tu chỉ quán ghép, chỉ trước quán sau, nhẹ vui, ít buồn. Nh́n thẳng vọng niệm hoài th́ buồn nên tùy sự tu tiến mà ứng dụng. Đó là điều thiết yếu của đường lối tu của tu viện Chơn Không. Người sở dĩ không hết vọng tưởng là v́ công phu chưa viên măn. Nếu như thế mà tu tập nhứt định vọng tưởng lần lần thưa, vọng tưởng thưa rồi sẽ hết, không nghi ngờ. ] |