KINH PHÁP BẢO ĐÀN
[mucluc][loidausach][p1][p2-d1][p2-d2]
[p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7][p8-d1][p8-d2][p9][p10][p11-d1][p11-d2]
PHẨM THỨ HAI: BÁT NHĂ DỊCH Ngày khác, Vi Sử quân thưa thỉnh, Tổ đăng ṭa bảo đại chúng: “Tất cả nên tịnh tâm niệm Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật-đa.” Lại bảo: “Này Thiện tri thức, trí Bát-nhă Bồ-đề, người đời vốn tự có, chỉ nhân v́ tâm mê không thể tự ngộ, phải nhờ đến Đại thiện tri thức chỉ đường mới thấy được tánh. Phải biết người ngu, người trí Phật tánh vốn không có khác, chỉ duyên mê ngộ không đồng, nên có ngu có trí. Nay tôi v́ nói pháp Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật, khiến cho các ông, mỗi người được trí tuệ, nên chí tâm lắng nghe, tôi v́ các ông mà nói. Này Thiện tri thức, người đời trọn ngày miệng tụng Bát-nhă nhưng không biết tự tánh Bát-nhă ví như nói ăn mà không no, miệng chỉ nói Không, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích. Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia, nó phải là hành nơi tâm, không phải tụng ở miệng. Miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm mà tâm hành ắt tâm và miệng hợp nhau, bản tánh là Phật, ĺa tánh không riêng có Phật. Sao gọi là Ma-ha ? Ma-ha là lớn, tâm lượng rộng lớn ví như hư không, không có bờ mé, cũng không có vuông tṛn lớn nhỏ, cũng không phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không có trên dưới dài ngắn, cũng không sân không hỉ, không phải không quấy, không thiện không ác, không có đầu đuôi, cơi nước chư Phật trọn đồng với hư không; diệu tánh của người đời vốn không, không có một pháp có thể được, tự tánh chân không cũng lại như thế. Này Thiện tri thức, chớ nghe tôi nói Không liền chấp không, thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không mà ngồi tĩnh tọa, đó tức là chấp vô kư không. Này Thiện tri thức, thế giới hư không hay bao hàm vạn vật sắc tượng, mặt trời, mặt trăng, sao, núi, sông, đất liền, suối khe, cỏ cây rừng rậm, người lành người dữ, pháp lành pháp dữ, thiên đường địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di, thảy ở trong hư không. Tánh không của người đời cũng lại như thế. Này Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp ấy là Đại. Muôn pháp ở trong tự tánh của mọi người, nếu thấy tất cả người ác cùng với lành, trọn đều không chấp, không bỏ, cũng không nhiễm trước, tâm cũng như hư không, gọi đó là Đại, nên nói là Ma-ha. Này Thiện tri thức, người mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có người mê, để tâm rỗng không ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ tự gọi là đại, một bọn người này không nên cùng họ nói chuyện v́ là tà kiến. Này Thiện tri thức, tâm lượng rộng lớn khắp giáp cả pháp giới, dụng tức rơ ràng, phân minh ứng dụng liền biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, đi lại tự do, tâm thể không bị ngăn ngại tức là Bát-nhă. Này Thiện tri thức, tất cả trí Bát-nhă đều từ tự tánh sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dụng ư nên gọi là chân tánh tự dụng. Một chân th́ tất cả chân, tâm lượng rộng lớn không đi theo con đường nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như người phàm tự xưng là quốc vương trọn không thể được, không phải là đệ tử của ta. Này Thiện tri thức, sao gọi là Bát-nhă ? Bát-nhă, Trung Hoa dịch là trí tuệ. Tất cả chỗ, tất cả thời, mỗi niệm không ngu, thường hành trí tuệ tức là Bát-nhă hạnh. Một niệm ngu tức Bát-nhă bặt, một niệm trí tức Bát-nhă sanh. Người đời ngu mê, không thấy Bát-nhă, miệng nói Bát-nhă mà trong tâm thường ngu, thường tự nói ta tu Bát-nhă, niệm niệm nói không nhưng không biết được Chân không. Bát-nhă không có h́nh tướng, tâm trí tuệ ấy vậy. Nếukhởi hiểu như thế tức gọi là Bát-nhă trí. Sao gọi là Ba-la-mật ? Đây là lời nói của Ấn Độ, Trung Hoa dịch là đến bờ kia, giải nghĩa là ĺa sanh diệt; chấp cảnh th́ sanh diệt khởi như nước có sóng ṃi, tức gọi là bờ này, ĺa cảnh th́ không sanh diệt như nước thường thông lưu, ấy gọi là bờ kia, nên gọi là Ba-la-mật. Này Thiện tri thức, người mê miệng tụng, chính khi đang tụng mà có vọng, có quấy; niệm niệm nếu hành Bát-nhă, ấy gọi là chân tánh. Người ngộ được pháp này, ấy là pháp Bát-nhă, người tu hạnh này, ấy là hạnh Bát-nhă. Không tu tức là phàm, một niệm tu hành, tự thân đồng với Phật. Này Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền năo tức Bồ-đề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước chấp cảnh tức phiền năo, niệm sau ĺa cảnh tức Bồ-đề. Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không trụ, không qua cũng không lại, chư Phật ba đời từ trong đó mà ra. Phải dùng đại trí tuệ này đập phá ngũ uẩn, phiền năo, trần lao, tu hành như đây quyết định thành Phật đạo, biến tam độïc thành giới định tuệ. Này Thiện tri thức, pháp môn của tôi đây từ một Bát-nhă phát sanh tám muôn bốn ngàn trí tuệ. V́ cớ sao ? V́ người đời có tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao th́ trí tuệ thường hiện, chẳng ĺa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm, vô ức, vô trước, chẳng khởi cuống vọng, dùng tánh chân như của ḿnh, lấy trí tuệ quán chiếu, đối với tất cả pháp không thủ không xả tức là thấy tánh thành Phật đạo. Này Thiện tri thức, nếu muốn vào pháp giới thậm thâm và Bát-nhă tam-muội th́ phải tu Bát-nhă hạnh, phải tŕ tụng kinh Kim Cang Bát-nhă tức được thấy tánh, nên biết kinh này công đức vô lượng vô biên, trong kinh đă khen ngợi rơ ràng, không thể nói đầy đủ được. Pháp môn này là Tối thượng thừa, v́ những người đại trí mà nói, v́ những người thượng căn mà nói. Những người tiểu căn tiểu trí nghe pháp này, tâm sanh không tin. V́ cớ sao ? Ví như có một trận mưa lớn khắp cả cơi nước, thành ấp chợ búa đều bị trôi giạt cũng như trôi những lá táo. Nếu trận mưa lớn đó mưa nơi biển cả th́ không tăng không giảm. Như người Đại thừa hoặc người Tối thượng thừa nghe kinh Kim Cang th́ tâm khai ngộ, thế nên biết bản tánh họ tự có trí Bát-nhă, tự dùng trí tuệ thường quán chiếu nên không nhờ văn tự. Thí như nước mưa không phải từ trời có, nguyên là từ rồng mà dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây, hữu t́nh vô t́nh thảy đều được đượm nhuần. Trăm sông các ḍng đều chảy vào biển cả hợp thành một thể, trí tuệ Bát-nhă nơi bản tánh chúng sanh cũng lại như thế. Này Thiện tri thức, người tiểu căn nghe pháp môn đốn giáo này, ví như là cỏ cây gốc rể nhỏ, nếu bị mưa to th́ đều ngả nghiêng không thể nào tăng trưởng được. Người tiểu căn cũng lại như thế, vốn có trí tuệ Bát-nhă cùng với người đại trí không sai biệt, nhân sao nghe pháp không thể khai ngộ ? V́ do tà kiến chướng nặng, cội gốc phiền năo sâu, ví như đám mây lớn che kín mặt trời, không có gió thổi mạnh th́ ánh sáng mặt trời không hiện. Trí Bát-nhă cũng không có lớn nhỏ, v́ tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ không đồng, tâm mê bên ngoài thấy có tu hành t́m Phật, chưa ngộ được tự tánh tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo không thể tu ở bên ngoài, chỉ nơi tâm ḿnh thường khởi chánh kiến, phiền năo trần lao thường không bị nhiễm tức là thấy tánh. Này Thiện tri thức, trong ngoài không trụ, đi lại tự do, hay trừ tâm chấp, thông đạt không ngại, hay tu hạnh này cùng kinh Bát-nhă vốn không sai biệt. Này Thiện tri thức, tất cả kinh điển và các văn tự, Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều nhân người mà an trí, nhân tánh trí tuệ mới hay dựng lập. Nếu không có người đời th́ tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có, thế nên biết muôn pháp vốn tự nhân nơi người mà dựng lập, tất cả kinh sách nhân người mà nói có; nhân v́ trong người kia có ngu và có trí, người ngu là tiểu nhân, người trí là đại nhân, người ngu hỏi nơi người trí, người trí v́ người ngu mà nói pháp, người ngu bỗng nhiên ngộ hiểu, tâm được khai tức cùng với người trí không có khác. Này Thiện tri thức, chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ chúng sanh là Phật, thế nên biết muôn pháp trọn ở nơi tự tâm, sao chẳng từ trong tự tâm liền thấy được chân như bản tánh ? Kinh Bồ-tát Giới nói rằng: Bản tánh của ta nguyên tự thanh tịnh, nếu biết được tự tâm thấy tánh đều thành Phật đạo. Kinh Tịnh Danh nói: Liền khi đó bỗng hoát nhiên được bản tâm. Này Thiện tri thức, xưa ta ở nơi Ngũ tổ Nhẫn, một phen nghe liền được ngộ, chóng thấy chân như bản tánh, nên đem giáo pháp này lưu hành khiến cho người học đạo chóng ngộ được Bồ-đề. Mỗi người tự quán nơi tâm, tự thấy bản tánh, nếu tự chẳng ngộ phải t́m những bậc Đại thiện tri thức, người hiểu được giáo pháp Tối thượng thừa, chỉ thẳng con đường chánh, ấy là Thiện tri thức có nhân duyên lớn, gọi là hóa đạo khiến được thấy tánh. Tất cả pháp lành nhân nơi Thiện tri thức mà hay phát khởi. Ba đời chư Phật, mười hai bộ kinh, ở trong tánh của người vốn tự có đủ, không có thể tự ngộ th́ phải cầu Thiện tri thức chỉ dạy mới thấy. Nếu tự ḿnh ngộ th́ không nhờ cầu bên ngoài, nếu một bề chấp, bảo rằng phải nhờ Thiện tri thức khác mong được giải thoát th́ không có lẽ phải. V́ cớ sao ? Trong tự tâm có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà mê vọng niệm điên đảo th́ Thiện tri thức bên ngoài tuy có giáo hóa chỉ dạy, cứu cũng không thể được. Nếu khởi chánh chân Bát-nhă quán chiếu th́ trong khoảng một sát-na vọng niệm đều diệt, nếu biết tự tánh một phen ngộ tức đến quả vị Phật. Này Thiện tri thức, trí tuệ quán chiếu, trong ngoài sáng suốt, biết bản tâm ḿnh, nếu biết bản tâm tức là gốc của sự giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhă tam-muội, tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm ? Nếu thấy tất cả pháp mà tâm không nhiễm trước ấy là vô niệm, dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ, chỉ thanh tịnh nơi bản tâm khiến sáu thức ra sáu cửa đối trong sáu trần không nhiễm không tạp, đi lại tự do, thông dụng không kẹt, tức là Bát-nhă tam-muội, tự tại giải thoát gọi là vô niệm hạnh. Nếu trăm vật chẳng nghĩ, chính khi đó khiến cho niệm bặt đi, ấy là pháp phược, ấy gọi là biên kiến. Này Thiện tri thức, người ngộ được pháp vô niệm th́ muôn pháp đều thông, người ngộ được pháp vô niệm th́ thấy cảnh giới của chư Phật, người ngộ được pháp vô niệm th́ đến địa vị Phật. Này Thiện tri thức, đời sau người được pháp của ta, đem pháp môn đốn giáo này, đối với hàng người đồng kiến đồng hành phát nguyện thọ tŕ như là thờ Phật, cố gắng tu thân không dám lui sụt th́ quyết định vào quả vị Thánh; nhưng phải truyền trao, từ trước đến giờ, thầm truyền trao phó chớ không được giấu kín chánh pháp. Nếu không phải là hàng đồng kiến đồng hành, ở trong pháp môn khác th́ không được truyền trao, e tổn tiền nhân kia, cứu kính vô ích, sợ người ngu không hiểu, chê bai pháp môn này rồi trăm kiếp ngàn đời đoạn chủng tánh Phật. Này Thiện tri thức, tôi có một bài tụng Vô tướng, mỗi người phải tụng lấy, người tại gia, người xuất gia chỉ y đây mà tu, nếu không tự tu, chỉ ghi nhớ lời của tôi th́ cũng không có ích ǵ. Nghe tôi tụng đây: Thuyết thông và tâm thông, Như mặt trời giữa không, Chỉ truyền pháp kiến tánh, Ra đời phá tà tông. Pháp th́ không đốn tiệm, Mê ngộ có mau chậm, Chỉ pháp kiến tánh này, Người ngu không thể hiểu. Nói tuy có muôn thứ, Trở về lư chỉ một, Phiền năo trong nhà tối, Thường sanh mặt trời tuệ. Tà đến phiền năo sanh, Chánh đến phiền năo dứt, Tà chánh đều không dùng, Thanh tịnh mới hoàn toàn. Bồ-đề vốn tự tánh, Khởi tâm tức là vọng, Tâm tịnh ở trong vọng, Chỉ chánh không ba chướng. Người đời nếu tu hành, Tất cả trọn chẳng ngại, Thường tự thấy lỗi ḿnh, Cùng đạo tức tương đương. Sắc loại tự có đạo, Đều chẳng chướng ngại nhau, Ĺa đạo riêng t́m đạo, Trọn đời không thấy đạo. Lăng xăng qua một đời, Kết cuộc tự sanh năo, Muốn thấy đạo chân thật, Hạnh chánh tức là đạo. Nếu không có tâm đạo, Hạnh tối không thấy đạo, Người chân chánh tu hành, Không thấy lỗi thế gian. Nếu thấy lỗi người khác, Lỗi ḿnh đă đến bên, Người quấy ta chẳng quấy, Ta quấy tự có lỗi. Chỉ dẹp lỗi nơi tâm, Phá trừ các phiền năo, Yêu ghét chẳng bận ḷng, Duỗi thẳng hai chân ngủ. Muốn nghĩ giáo hóa người, Tự phải có phương tiện, Chớ khiến người nghi ngờ, Tức là tự tánh hiện. Phật pháp nơi thế gian, Không ĺa thế gian giác, Ĺa thế t́m Bồ-đề, Giống như t́m sừng thỏ. Chánh kiến gọi xuất thế, Tà kiến là thế gian, Tà chánh đều dẹp sạch, Tánh Bồ-đề hiện rơ. Tụng này là đốn giáo, Cũng gọi thuyền đại pháp, Mê nghe trải nhiều kiếp, Ngộ trong khoảng sát-na.” (Thuyết thông cập tâm thông, Như nhật xử hư không, Duy truyền kiến tánh pháp, Xuất thế phá tà tông. Pháp tức vô đốn tiệm, Mê ngộ hữu tŕ tật, Chỉ thử kiến tánh môn, Ngu nhân bất khả tất. Thuyết tức tuy vạn ban, Hợp lư hoàn quy nhất, Phiền năo ám trạch trung, Thường tu sanh tuệ nhật. Tà lai phiền năo chí, Chánh lai phiền năo trừ, Tà chánh câu bất dụng, Thanh tịnh chí vô dư. Bồ-đề bản tự tánh, Khởi tâm tức thị vọng, Tịnh tâm tại vọng trung, Đăn chánh vô tam chướng. Thế nhân nhược tu đạo, Nhất thiết tận bất pḥng, Thường tự kiến kỷ quá, Dữ đạo tức tương đương. Sắc loại tự hữu đạo, Các bất tương pḥng năo, Ly đạo biệt mích đạo, Chung thân bất kiến đạo. Ba ba độ nhất sanh, Đáo đầu hoàn tự áo, Dục đắc kiến chân đạo, Hạnh chánh tức thị đạo. Tự nhược vô đạo tâm, Ám hạnh bất kiến đạo, Nhược chân tu đạo nhân, Bất kiến thế gian quá. Nhược kiến tha nhân phi, Tự phi khước thị tả, Tha phi ngă bất phi, Ngă phi tự hữu quá. Đăn tự khước phi tâm, Đả trừ phiền năo phá, Tắng ái bất quan tâm, Trường thân lưỡng cước ngọa. Dục nghĩ hóa tha nhân, Tự tu hữu phương tiện, Vật linh bỉ hữu nghi, Tức thị tự tánh hiện. Phật pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác, Ly thế mích Bồ-đề, Kháp như cầu thố giác. Chánh kiến danh xuất thế, Tà kiến thị thế gian, Tà chánh tận đả khước, Bồ-đề tánh uyển nhiên. Thử tụng thị đốn giáo, Diệc danh đại pháp thuyền, Mê văn kinh lụy kiếp, Ngộ tắc sát-na gian.) Tổ lại bảo: “Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp đốn giáo này, khắp nguyện cả pháp giới chúng sanh ngay lời nói này đều được thấy tánh thành Phật.” Khi ấy Vi Sử quân cùng quan liêu đạo tục nghe Tổ nói, không ai mà chẳng tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ đều tán thán: “Lành thay ! Đâu ngờ ở Lănh Nam có Phật ra đời !” ? |
[mucluc][loidausach][p1][p2-d1][p2-d2]
[p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7][p8-d1][p8-d2][p9][p10][p11-d1][p11-d2]