KINH THẬP THIỆN
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3c1][p3c2][p3c3]
GIẢNG VĂN KINH (tt) 11. ÂM: Nhữ kim thường ưng như thị tu học, diệc linh chúng sanh liễu đạt nhân quả, tu tập thiện nghiệp. Nhữ đương nhân thử chánh kiến bất động, vật phục đọa tại đoạn thường kiến trung! Ư chư phước điền hoan hỷ kính dưỡng, thị cố nhữ đẳng diệc đắc nhân thiên tôn kính cúng dường. DỊCH: Nay ngươi như thế mà tu học và khiến cho chúng sanh thấu rơ nhân quả, tu tập nghiệp lành. Ngươi nên nương nơi chánh kiến bất động, chớ đọa vào trong tà kiến đoạn thường. Đối với các bậc phước điền nên vui vẻ cung kính cúng dường, th́ các ngươi cũng được người trời tôn trọng cung kính cúng dường. GIẢNG: Đến đây Phật dạy Long vương tu tập. Như trước đă nói: Biết rơ nghiệp báo thiện ác do ḿnh tạo, nếu tạo nghiệp lành th́ thân tướng tốt đẹp trang nghiêm, tạo nghiệp ác th́ thân h́nh xấu xa. Khi biết như thế rồi nên tạo nhân lành để được quả tốt, chớ tạo nhân ác mới th́ sẽ được an vui. Chúng ta muốn biết nhân đời trước của ḿnh ra sao, th́ mỗi người phải tự xét hoàn cảnh, tướng mạo của ḿnh hiện tại, th́ sẽ biết đời trước ḿnh đă tạo nhân lành hay dữ. Đức Phật lại bảo Long vương phải dạy chúng sanh hiểu thấu lư nhân quả, để tu tạo nghiệp lành. Đồng thời Phật nhấn mạnh với Long vương là, khi đă hiểu tường tận lư nhân quả th́ được chánh kiến không lay động. Chánh kiến không lay động là sao? Giáo lư Phật nói rằng: Người hiểu rơ lư nhân quả th́ tin sâu nhân quả, tin sâu lư nhân quả là có chánh kiến, ngược lại th́ rơi vào tà kiến đoạn và thường. Thế nào là chánh kiến, thế nào là tà kiến?Phật nói hiểu lư nhân quả là chánh kiến. Tức là biết tất cả mọi hành động lành hay dữ của ḿnh, sẽ kết tụ quả báo tốt hay xấu cho ḿnh. Thế nên gọi thân này là tổng báo, tức là quả báo chung của đời trước. Đời trước có khi làm lành có khi làm dữ, nên thân này có khi được an ổn vui vẻ, có lúc bị tai họa khổ đau. Khi đă biết thân tổng báo này chịu ảnh hưởng nghiệp đời quá khứ, th́ hiện tại nỗ lực tu hạnh lành, để chuyển những nghiệp xấu trước nhẹ bớt. Thấy biết như thế là chánh kiến. Hiện tại có một số người mệnh danh tu theo đạo Phật, mà không có chánh kiến, lại ôm ấp tà kiến hoặc thường hoặc đoạn. Có người tu mà nghĩ rằng ḿnh có một linh hồn không đổi thay, trường cửu không mất, thân này chết đi, đời sau có thân khác. Giống như áo này cũ thay áo khác, ḿnh vẫn là ḿnh. Ví dụ ông A chết rồi sanh ra cũng là A. Tin linh hồn ḿnh không bao giờ thay đổi, đời đời vẫn không mất. Tin như vậy đạo Phật gọi là thường kiến. Lại có người cho rằng thân này do tứ đại hợp lại mà thành, sau khi chết tứ đại ră tan, không c̣n ǵ hết. Chấp như vậy gọi là đoạn kiến. Cả hai kiến chấp đó Phật không thừa nhận. Người chấp một trong hai điều đó là bệnh. V́ nếu tin linh hồn vẫn c̣n măi th́ việc làm lành làm ác đối với họ vô nghĩa, làm lành cũng phí công vô ích không kết quả ǵ, làm ác cũng không có thiệt hại ǵ, mặc t́nh muốn làm ǵ th́ làm không sợ tội lỗi. C̣n cho rằng chết sẽ hết th́ việc làm lành hay làm dữ đối với họ cũng như tṛ chơi, nên không trọng việc lành không sợ việc ác, rồi mặc t́nh làm việc tội lỗi. Người tu theo đạo Phật thấy lư nhân quả tường tận, biết làm lành th́ được sanh lên ba đường thiện là trời, người, a-tu-la, làm dữ th́ đọa xuống ba đường ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Như vậy, mọi chúng sanh đi lên hay đi xuống, tùy theo nghiệp thiện hay ác mà đi đến chỗ sướùng hay khổ khác nhau. Trong hội này: Phật, Bồ-tát, A-la-hán, Long vương cho đến binh tôm tướng cá… đều có tướng sai biệt là do nghiệp nhân thiện hay ác mà thành tựu. Hiện tại chúng ta c̣n phàm phu nghe Phật nói như thế thấy khó hiểu khó tin, nên thắc mắc Phật cũng là người tại sao thân Phật có tướng tốt trang nghiêm, hào quang sáng chói như vậy? Các vị khác cũng mang thân người mà tại sao thân h́nh thô bỉ xấu xa? Phật dạy: Thường kiến và đoạn kiến là sai lầm, người tu Phật không nên chấp như thế, mà phải có chánh kiến. Chánh kiến là sao? Có phải chết rồi không mất hẳn, mà cũng không c̣n một linh hồn bất biến bất diệt không? Đạo Phật chủ trương như vậy khó hiểu quá, không thừa nhận hai bên. Chúng ta phải hiểu như thế nào? Theo Duy Thức học th́ "Thức a-lại-da ở nơi mỗi người hằng chuyển như bộc lưu". Hằng là thường, măi măi; chuyển là đổi thay, xê dịch; bộc lưu là ḍng nước chảy. Thức a-lại-da tuy thường c̣n nhưng biến đổi không dừng, giống như ḍng nước chảy. Trong kinh A-hàm có đoạn ghi vua Ba-tư-nặc đến hỏi Phật: -Như Lai dạy tạo nhân là phải thọ quả, và cũng dạy thân năm uẩn này không có thật ngă. Vậy con người không có thật ngă th́ khi tạo nghiệp ai chịu quả báo? Phật ví dụ: Có một gia đ́nh sanh một đứa con trai và một gia đ́nh sanh một đứa con gái. Hai gia đ́nh ấy bèn đính ước sui gia. Lúc hai đứa bé lên tám tuổi, hai gia đ́nh ấy có những đổi thay trong cuộc sống, nên ở cách xa nhau không có dịp qua lại. Khi hai đứa bé lớn khôn đúng mười tám tuổi, đàng trai t́m đến đàng gái để cưới. Nhưng người con gái đă có chồng. Bên nhà trai kiện, xin vua xử. Người con trai thưa rằng: - Cô gái này đă hứa hôn với chúng tôi rồi, nay ông kia cưới cô, coi như đă cướp vợ người. Người bị kiện trả lời: - Khi tôi cưới cô gái, lúc cô ấy mười tám tuổi, chớ tôi không cưới cô gái tám tuổi mà nhà ông đă hứa hôn. Phật hỏi vua: - Bị kiện như thế, th́ Đại vương xử thế nào? Vua không đáp được. Phật giải thích: - Nếu rời cô gái tám tuổi khi xưa, không có cô gái mười tám tuổi bây giờ. Song nói cô gái tám tuổi khi xưa và cô gái mười tám tuổi bây giờ là một th́ không đúng. V́ đứng về mặt thực tế, trước và sau vẫn là con người đó, nhưng có biến chuyển. Nếu không có biến chuyển th́ không đúng. V́ cô bé tám tuổi đứng cao chừng tám, chín tấc và nặng chừng vài chục kư. C̣n cô gái mười tám tuổi cao tới một mét rưỡi hay một mét sáu, nặng khoảng bốn năm mươi kư. Đó là h́nh vóc quá sai biệt, về tâm tư của đứa bé tám tuổi và cô gái mười tám tuổi cũng đổi thay. Vậy th́ làm sao nói đứa bé tám tuổi và cô gái mười tám tuổi là một được? Nhưng cũng không nói là hai được. Tuy có biến chuyển mà vẫn không có người thứ hai thay thế, song nói cố định trước sau là một cũng không được. Đó là chỗ thật tế nhị. Đạo Phật thuyết minh lư vô ngă, cho rằng thân năm uẩn không có ta thật, tùy theo nghiệp lành hay dữ mà chuyển thành tốt hay xấu. Ví dụ hiện tại, người tật nguyền nghèo khổ biết tu hiền tạo nghiệp lành th́ sau sanh ra sẽ được thân tướng lành lặn tốt đẹp khác hơn xưa. Nếu nói ḿnh ngày nay là A, ngày sau là A, điều đó không đúng. Ngày nay là A với cha mẹ này, với hoàn cảnh này, ngày sau sanh ra với tên khác, với cha mẹ khác, với hoàn cảnh khác, không cố định trước sau là một, cũng không phải mất hẳn. Nếu mất hẳn th́ thuộc đoạn kiến, c̣n măi trước sau như một là thường kiến. Đó là chỗ quí phật tử phải hiểu cho sâu, kẻo lạc vào thường kiến hoặc đoạn kiến. Phật nói như thế là chỉ lẽ thật, chớ không phải đem luân lư dạy đời. Chúng ta tự xét bản thân ḿnh sẽ thấy, lúc mười tuổi và bây giờ ba bốn mươi tuổi tâm sanh lư có giống nhau không? Lúc mười tuổi th́ ngây thơ khờ khạo, bây giờ ba bốn mươi tuổi th́ khôn ngoan lịch lăm, đó là tâm tư thay đổi. C̣n thể xác cũng vậy, khi trẻ th́ khỏe mạnh ăn ngon ngủ dễ, lúc già th́ yếu đau ít ăn khó ngủ, khi trẻ khác khi già khác, đổi thay không cố định. Chính bản thân ḿnh ngay cuộc sống hiện tại mà c̣n đổi thay từ cơ thể đến tâm tư như vậy, th́ đời vị lai làm sao ḿnh không thay đổi? Tuy thay đổi mà không mất. V́ vậy Phật nói hiện tại con người đổi thay và vị lai cũng thay đổi. Nếu hiện tại thay đổi, mà nói vị lai không thay đổi là chuyện vô lư. Hiểu được lư hằng chuyển th́ hiểu được sự thay đổi hai chiều, chiều tiến của nghiệp lành và chiều thoái của nghiệp dữ. Phật vạch cho chúng ta thấy rơ hai chiều, rồi ḿnh tự chọn lựa, muốn tiến th́ tạo nghiệp lành, muốn thoái th́ tạo nghiệp ác. Cũng như nhà nông làm ruộng, gieo giống lúa th́ lên cây lúa, gieo giống cỏ th́ lên cây cỏ. Gieo giống ǵ th́ lên cây ấy, tuy nhiên sau khi gieo giống c̣n phải chăm sóc phân nước đúng mức th́ cây mới tốt tươi, ngược lại bỏ bê th́ cây bị hư hoại. Lư nhân quả của đạo Phật chỉ thẳng động tác (nghiệp) lành hay dữ của thân miệng và ư, để mọi người tự do quyết định lựa chọn cho cuộc sống của ḿnh ở hiện tại và tương lai. Nên nhớ sau khi chết, nếu c̣n luân hồi là c̣n với dạng thức khác, chứ không c̣n như xưa. Nếu như xưa là rơi vào lỗi thường kiến, nếu mất hẳn là rơi vào lỗi đoạn kiến, trái với chủ trương của đạo Phật. Nhờ hiểu được lư nhân quả, nên đối với những bậc được coi là ruộng phước th́ siêng năng vui vẻ cúng dường. Ruộng phước có nhiều thứ: Cha mẹ là ruộng phước của người con hiếu thảo. Những người tu hành chân chánh là ruộng phước của hàng phật tử tại gia. Những trẻ mồ côi, người nghèo đói, bệnh tật là ruộng phước của người tu hạnh bố thí. Người phật tử tại gia xây chùa, tạc tượng in kinh, cúng dường tứ sự cho tăng ni an ổn tu hành, để duy tŕ Phật pháp là đă gieo giống tốt vào ruộng phước. Người con hiếu thảo cung kính dưỡng nuôi an ủi… cha mẹ là đă gieo giống tốt vào ruộng phước. Người giàu ḷng nhân ái giúp đỡ cung cấp cơm gạo thuốc men… cho trẻ mồ côi, người nghèo đói, bệnh tật, là đă gieo giống tốt vào ruộng phước. Đối với những ruộng phước vừa nêu, Phật dạy chúng ta phải vui vẻ siêng năng cúng dường. Nếu hiện tại chúng ta gieo giống vào những phước điền vừa kể, th́ vị lai chúng ta cũng được chư thiên vui vẻ cúng dường như vậy. Chúng ta muốn mai sau được cái ǵ th́ ngay bây giờ phải làm cái ấy. Chẳng hạn muốn sau này dạy học, ngay bây giờ phải học cho giỏi, sau mới dạy học được. Hoặc muốn sau này làm thợ mộc, ngay bây giờ phải học cưa, bào, đục, đẽo… th́ sau này mới làm thợ mộc được. Không có việc ǵ, trước không gieo nhân sau lại có quả. Thế nên Phật dạy muốn được phước báo là phải cúng dường. Cúng là cung cấp, dường là nuôi dưỡng, cúng dường là cung cấp nuôi dưỡng cho người được sống. Thông thường nói đến cúng dường là phải thành kính. Song nói thế có người thắc mắc: Đối với cha mẹ, sa-môn th́ thành kính là phải, nhưng đối với kẻ nghèo đói, bệnh tật, trẻ mồ côi là kẻ thấp kém hơn ḿnh, làm sao thành kính? Đối với người nghèo đói, bệnh tật, trẻ mồ côi, chúng ta cung cấp nuôi dưỡng họ, mà không khinh khi xem thường, đó là chúng ta đă thể hiện ḷng thành kính rồi. Chữ cúng dường nghĩa rất rộng, không hạn cuộc ở chùa mà bao hàm cả gia đ́nh, xă hội, quốc gia, quốc tế. Đó là những ruộng phước, quí phật tử muốn tạo phước th́ hướng vào đấy mà tạo. 12. ÂM: Long vương đương tri: Bồ-tát hữu nhất pháp, năng đoạn nhất thiết chư ác đạo khổ. Hà đẳng vi nhất? Vị ư trú dạ thường niệm tư duy quán sát thiện pháp, linh chư thiện pháp niệm niệm tăng trưởng, bất dung hào phân bất thiện gián tạp, thị tức năng linh chư ác vĩnh đoạn, thiện pháp viên măn, thường đắc thân cận chư Phật, Bồ-tát cập dư Thánh chúng. DỊCH: Long vương nên biết: Bồ-tát có một pháp hay đoạn dứt tất cả khổ trong đường ác. Pháp đó là ǵ? Là ngày đêm thường nhớ, suy nghĩ, quán sát pháp lành, khiến cho các pháp lành mỗi niệm mỗi niệm tăng trưởng, không để mảy may pháp bất thiện xen lẫn, đó là khéo làm cho các pháp ác dứt hẳn, pháp thiện viên măn th́ thường được gần gũi chư Phật, chư Bồ-tát và hàng Thánh chúng khác. GIẢNG:Đoạn này Phật dạy cho chúng ta thấy rơ việc làm của các vị Bồ-tát. Bồ-tát là hàng có trí tuệ hằng tỉnh giác, tự giải khổ cho ḿnh và giúp chúng sanh thoát khổ. Thế nên nói Bồ-tát có một pháp hay đoạn dứt các điều khổ trong đường ác. Pháp đó là ǵ? Là pháp ngày đêm luôn luôn nhớ các việc lành, không để mảy may pháp ác dấy khởi. Chỉ một bề nhớ nghĩ pháp lành, th́ pháp lành mỗi ngày mỗi tăng trưởng, cho đến khi viên măn sẽ được gặp Phật, Bồ-tát và Thánh chúng. Ngược lại cả ngày cứ khởi niệm ác, sẽ rơi vào đường ác. Phật dạy cho chúng ta thấy, tu là “tu ngay tâm niệm” của ḿnh, phải thấy rơ từng tâm niệm, để trưởng dưỡng niệm lành đoạn dứt niệm ác. Giả sử người làm việc từ thiện, khi làm lại toan tính mưu này kế nọ để thủ lợi, thử hỏi việc làm đó có thiện chưa? Nhiều khi có người ra làm việc lành với danh nghĩa nào đó, hoặc cầu danh cầu lợi. Việc làm lành không phát xuất từ tâm lành, nên kết quả không như ư, rồi thấy nhân quả trái nhau. Đó là việc làm không đúng với lư nhân quả Phật đă dạy. Phật dạy tâm chúng ta phải luôn nhớ nghĩ điều lành, hễ có niệm ác dấy khởi là phải đoạn dứt. Việc lành chúng ta làm, phải thật sự phát xuất từ tâm niệm lành. Nếu hành động lành mà tâm niệm không lành th́ không đúng. Thế nên chúng ta phải chọn lựa ngay nơi tâm niệm, niệm ác th́ đoạn dứt, niệm lành th́ nuôi dưỡng cho thêm lớn, rồi thể hiện ra ngoài việc làm, mới là người tu chân chánh. 13. ÂM: Ngôn thiện pháp giả, vị nhân thiên thân, Thanh văn Bồ-đề, Độc giác Bồ-đề, Vô thượng Bồ-đề, giai y thử pháp, dĩ vi căn bản, nhi đắc thành tựu, cố danh thiện pháp. DỊCH: Pháp lành là thân của người, trời, giác ngộ của Thanh văn, giác ngộ của Độc giác, giác ngộ của Phật đều nương nơi pháp này làm căn bản mà được thành tựu, nên gọi là pháp lành. GIẢNG: Pháp lành là pháp Thập thiện giúp cho chúng sanh tu, đời sau được sanh thân làm người tốt đẹp, hoặc sanh lên cơi trời được sung sướng. Hoặc người hiểu Thập thiện rồi, tu theo pháp Tứ đế th́ chứng Tứ quả Thanh văn. Hoặc người nào hiểu Thập thiện rồi, tu theo pháp Thập nhị nhân duyên th́ chứng quả Duyên giác. Hoặc người hiểu Thập thiện rồi, tu theo Lục độ vạn hạnh, công phu viên măn th́ chứng quả Phật. V́ vậy nói Bồ-đề của Thanh văn, Bồ-đề của Duyên giác, Bồ-đề của Phật đều nương nơi pháp này mà được, lấy pháp Thập thiện làm gốc. Thập thiện là nền tảng căn bản của đạo Phật. Từ quả vị người, trời, cho đến Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật đều lập cước trên nền tảng này. Nếu nền tảng căn bản vững, mới hội đủ điều kiện để tiến. Ngược lại nền tảng căn bản không vững th́ khó bề thành tựu được những quả vị trên. 14. ÂM: Thử pháp tức thị Thập thiện nghiệp đạo. Hà đẳng vi thập? Vị năng vĩnh ly sát sanh, thâu đạo, tà hạnh, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế, tà kiến. DỊCH: Pháp này là con đường mười nghiệp lành. Những ǵ là mười? Là hằng ĺa dứt sát sanh, trộm cướp, tà hạnh, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế và tà kiến. GIẢNG: Ở đây giải thích mười điều lành là hằng ĺa dứt nghiệp sát sanh, trộm cướp, tà hạnh, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế và tà kiến. Chỉ kể tên mười điều lành, nghe hơi khó hiểu, sau đây tôi giảng từng điều cho quí vị hiểu. 1- Không sát sanh: Người cư sĩ tại gia mới tu, trước hết là không giết người. Chẳng những tự thân ḿnh không giết người, mà miệng cũng không xúi bảo người giết và ư cũng không thích vui khi nghe người giết nhau. Quí vị thấy giữ một giới không giết người có dễ không? Thân không giết th́ dễ rồi, miệng không bảo người giết cũng có thể giữ được. Nhưng ư không giết th́ khó, v́ nếu kẻ đó là người gây cho ḿnh nhiều khổ đau, khi nghe họ chết th́ ḿnh cảm thấy vui. Đó là ư giết người. Thế nên ư giết người khó tránh. Người nào gây khổ đau cho ḿnh, khi nghe họ bị hại, ḿnh không khởi tâm vui mừng mà ḷng cảm thấy thương xót, như thế mới thật là giữ giới không giết người. Đó là nấc thang thứ nhất của người tu. Tu như vậy cũng chưa đủ v́ chỉ được quả đời sau không bị người giết. Thế nên phải tu thêm nữa, là đối với những con vật lớn như trâu, ḅ, heo, chó… cũng không giết. Giới không sát sanh bao hàm từ thô đến tế. Tùy khả năng của mỗi người, có người chỉ giữ được không giết người. Người khá hơn th́ giữ thêm, không giết những con vật lớn như trâu, ḅ, heo, dê… đó là tiến được một tầng nữa. Không giết người th́ được quả báo đời sau sanh thân người, an ổn không bị người giết. Nếu giữ thêm không giết loài vật th́ phước báo thêm lớn, có thể sanh lên cơi trời. Nhưng nghiệp sát vẫn c̣n đối với những vật nhỏ như gà, vịt, cá, tôm… V́ vậy mà chưa dứt sạch mầm giết hại, nên vẫn c̣n sanh đi tử lại, để đền bù mạng sống của chúng sanh, chớ chưa thoát ly sanh tử. Chừng nào dứt hết nghiệp sát, cho đến con dế, con trùn, con muỗi… vẫn một ḷng thương xót không giết hại th́ mới giữ được giới sát viên măn. Chỗ này phải hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát mới thực hiện được. Quí vị thấy, chỉ một giới thôi mà hành động có khác. Do hành động giữ giới khác nên quả báo cũng khác. Một giới mà chúng ta có thể thành người, cũng một giới đó mà chúng ta có thể thành trời, cũng một giới đó mà chúng ta có thể thành A-la-hán thành Bồ-tát… Như thế quí vị đừng nghĩ tôi thọ năm giới là có giữ giới sát rồi! Mới nghe th́ thấy giản dị dễ dàng, nhưng giữ cho trọn vẹn phải hàng La-hán, Bồ-tát… mới giữ nổi. Các vị La-hán, Bồ-tát giữ giới sát chẳng những nơi thân nơi miệng, mà nơi ư nữa. Các Ngài không c̣n tâm niệm sát hại, từ người đến thú lớn như trâu, ḅ… thú nhỏ như kiến, muỗi… một ḷng thương xót và tôn trọng mạng sống của chúng sanh. Nếu thấy người giết dù là loài vật nhỏ như cá, tôm… cho đến trùn, kiến… mà sanh ḷng vui thích, là c̣n chủng tử sát hại nơi tâm niệm. Như vậy là giữ giới chưa trọn vẹn. Giữ giới trọn vẹn viên măn chỉ có bậc Thánh mới giữ được. C̣n hàng phàm phu chúng ta chỉ giữ được phần thô chớ phần tế chưa giữ nổi. 2- Không trộm cướp: Không trộm cướp cũng giữ từ thô đến tế. Hàng cư sĩ tại gia giữ giới không trộm cướp là không lấy của người khi chủ nó không cho. Cho đến tiền của, súc vật, cây cỏ… chủ không cho mà t́m cách lừa gạt để thuộc về ḿnh, đều gọi là trộm cướp. 3- Không tà hạnh: Người cư sĩ tại gia khi đă có gia đ́nh chỉ một chồng một vợ, t́nh cảm không đổi thay, không lang chạ với những người nữ người nam khác. C̣n người xuất gia là phải sống độc thân giữ phạm hạnh, không được dâm dục. Không sát sanh, không trộm cướp, không tà hạnh là ba nghiệp lành của thân. 4- Không nói dối: Nói dối là chuyện có nói không, chuyện không nói có, nói trái với sự thật để mưu cầu quyền thế danh lợi… cho ḿnh. Ngược lại nói đúng với sự thật là không nói dối. Trong giới không nói dối có những trường hợp châm chước, chẳng hạn nói trái với sự thật để cứu người cứu vật th́ không phạm. Nói dối đó là v́ ḷng từ bi làm lợi ích cho người vật, chớ không phải v́ ḷng tham. Phật dạy không nói dối mà phải nói lời chân thật. 5- Không nói hai lưỡi: Nói hai lưỡi là nói chia ĺa giữa hai người thân nhau. Ví dụ trong gia đ́nh, hai anh em đang thuận ḥa. Có người nói với người em: "Anh chú nói chú là người tham lam, háo danh, háo lợi…". Rồi tới người anh nói: "Em chú nói chú là người điêu ngoa xảo trá…". Hai anh em nghe nói thế, buồn ḷng bất ḥa nhau. Đó là nói hai lưỡi. Trong phạm vi gia đ́nh xă hội th́ gọi là nói hai lưỡi. Rộng đến quốc gia quốc tế dùng trong lănh vực chánh trị th́ gọi là nói ly gián. Phật dạy không nên nói hai lưỡi mà phải nói thuận ḥa. 6- Không nói lời hung dữ: Là không nói lời ác như nói thô tục, mắng nhiếc, chửi bới, trù rủa… người. Do ác khẩu đưa đến đánh đập chém giết lẫn nhau, gây đau khổ cho nhau từ gia đ́nh đến xă hội… V́ vậy Phật dạy phải nói lời hiền thiện ôn ḥa hằng xa ĺa lời nói ác. 7- Không nói lời trau chuốt: Nói trau chuốt là nói bóng bẩy, ngoa mị không trung thực, nói cốt để lừa bịp người thủ lợi cho ḿnh. Hoặc nói để mê hoặc người đi vào ṿng tội lỗi. Phật dạy không nên nói trau chuốt, phải tránh xa, mà nên nói lời ngay thật. Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời hung dữ, không nói lời trau chuốt là bốn nghiệp lành của miệng, người tu theo Phật phải thực hành. 8- Không tham dục: Tham dục là ưa thích say mê thụ hưởng năm món dục lạc ở thế gian như tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ). Ngũ dục tế hơn là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nghĩa là những h́nh tướng nhan sắc đẹp mà người mê đắm gọi là tham sắc. Những âm thanh êm ái du dương, người tham đắm gọi là tham thanh. Những hương thơm, người tham đắm gọi là tham hương. Những vị ngon ngọt béo…, người tham đắm gọi là tham vị. Những xúc chạm êm ái, người tham đắm gọi là tham xúc. Vậy năm dục thô hay tế mà người mê đắm gọi là tham dục. Bảy pháp thiện trên tương đối dễ, chúng ta có thể làm được, tới pháp thiện thứ tám chúng ta thấy khó làm, v́ nó vi tế thuộc về tâm. Cho nên đối với năm dục người nào không tham tài th́ tham sắc, người nào không tham sắc th́ tham danh, người nào không tham sắc không tham danh th́ tham thực, thích ăn ngon, người nào không tham tài, sắc, danh, thực th́ tham thùy, thích ngủ nghỉ, ngủ li b́. Trong năm món đó ít ai tránh khỏi, không kẹt cái này th́ cũng kẹt cái kia. Mới nghe nói không tham thấy như dễ, v́ thấy rằng tôi đâu có ăn cướp ăn trộm của ai, tôi giữ được. Nhưng đó chỉ là phần thô của tham tài, c̣n phần tế th́ chưa giữ được. Thế nên giới không tham, chúng ta chỉ dứt được một hai điều, chớ chưa dứt sạch. Nếu dứt sạch là đă vào bậc Thánh. Người nào dứt được phần tham thô, c̣n phần tham tế cũng được làm người trời rồi. Song muốn tu tiến hơn nữa là phải bớt tham, bắt đầu từ một món cho đến năm món là chứng quả Thánh. 9- Không sân giận: Sân nhuế là nóng giận, đối với cảnh vừa ư sanh ḷng vui thích đắm mê, đối với cảnh trái ư nghịch ḷng sanh tâm nóng nảy tức giận. Sân thô th́ miệng la lối mắng chửi tay đánh chân đá. Tế hơn th́ miệng không nói, tay chân không hoạt động, nhưng sắc mặt đổi, trong ḷng nóng nảy bực bội. Tế hơn nữa ḷng không bực bội mà không vui. Đó là hiện tướng sân từ thô đến tế. Người tu hết sân là khi nào bị mắng chửi, hay bị đối xử tệ bạc, mà vẫn thản nhiên ḷng không giận không buồn, lại khởi tâm thương cho người mê muội đang tạo tội lỗi. Tâm trạng này chỉ có Phật và Bồ-tát mới thực hiện được. Vậy không sân giận tu tới bao lâu mới hết? Tu đến khi nào người đời đối xử tệ bạc hay mắng chửi, ḷng không buồn giận mà vẫn tươi cười như đang uống nước cam lồ, th́ chừng đó mới xong. Muốn được như vậy, th́ từ cái sân thô là miệng la, tay đánh, chân đá… phải hạn chế từ từ, không cho tay chân hoạt động mỗi khi nổi nóng, rồi tới miệng không cho nói. Như vậy cấm từ tay, chân, miệng, rồi đến tâm không giận không buồn. Ai đối xử tệ bạc hay mắng chửi, vẫn vui cười, tu như thế mới tiến bộ. Không ai dứt một lần được mà phải dứt từ thô đến tế như đă nói. 10- Không tà kiến: Tà kiến là thấy lệch tin lầm. Sở dĩ thấy lệch tin lầm là do si mê, thiếu trí tuệ mà ra. Nếu kể th́ nhiều vô số, ở đây tôi chỉ nêu những việc căn bản và những lỗi phật tử thường vấp phải. Như trước tôi đă đề cập thường kiến, tức là tin ḿnh có một linh hồn sau khi chết c̣n hoài không mất. Và đoạn kiến th́ tin rằng thân này do tứ đại hợp thành, sau khi chết tứ đại ră tan không c̣n ǵ hết. Đó là hai kiến chấp rất nặng của ngoại đạo đưa đến những cuộc khẩu chiến sôi nổi ở Ấn Độ thời đức Phật. Đây tôi không giải thích nữa, chỉ nói qua những tà kiến mà người phật tử Việt Nam thường vấp phải. Như có nhiều người đau không uống thuốc, đi cầu Thánh mẫu, cầu cô cậu, cầu bà thủy, bà hỏa cho bùa phép uống, đeo để hết bệnh. Hoặc có cây sứ, cây đa bị mối hay kiến đục thành những lằn chữ hay h́nh người, th́ cho đó là thần thánh hiện, rủ nhau đến gốc cây thắp hương vái lạy, nguyện cầu thần thánh ban phước cho được b́nh an tai qua nạn khỏi. Hoặc trên không trung có cụm mây hay đám khói trắng giống h́nh người, h́nh rồng th́ cho là Phật, thánh hiện, rủ nhau ra chiêm ngưỡng đảnh lễ… Đó là những hành động do tà kiến mê tín. Trong kinh thường nói Phật tùy duyên hóa độ chúng sanh. Nếu chúng sanh là chư thiên th́ Phật đản sanh ở cơi trời để hóa độ. Nếu chúng sanh là loài người th́ Phật đản sanh ở cơi người để hóa độ. Nếu chúng sanh là loài rồng th́ Phật giáng sanh ở cơi rồng để hóa độ… Tóm lại, cần độ loài nào th́ Phật giáng sanh vào loài đó để hóa độ. Ngài hành hạnh Bồ-tát sanh hoạt một cách b́nh thường, chớ không biến hiện những h́nh dáng kỳ lạ, làm những việc huyền bí để mê hoặc chúng sanh. Chúng sanh vốn đă si mê th́ phải làm cho chúng sanh tỉnh sáng, dứt mê lầm, hết khổ đau, mới là từ bi. Nếu mê hoặc chúng sanh làm cho chúng sanh càng mê mờ thêm th́ đâu phải hạnh từ bi của bậc hiền thánh! Lại nữa, có nhiều người xin xăm, coi tay, bói quẻ… đó là những nhận định sai lầm tầm thường mà đa số không bỏ được. Chúng ta đă biết Phật dạy do ba nghiệp lành mà sanh cơi người, cơi trời, cũng do ba nghiệp lành mà chứng quả Thanh văn, Bích chi, Bồ-tát, Phật. Ngược lại do ba nghiệp dữ mà rơi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nên nhớ không có quả báo tốt hay xấu nào do bói quẻ coi tay tạo ra. Biết sai lầm mà bỏ không được cũng hóa ra tà kiến mê tín. Nghe kinh th́ cũng hiểu mà sợ th́ vẫn sợ, nên vẫn khổ. Như nghe thầy bói nói năm này tháng này xấu, trong ḷng cứ bồn chồn lo lắng, cúng kiếng vái lạy đủ thứ. Đó là chưa có chánh kiến bất động như Phật dạy ở trước. Nếu người có chánh kiến bất động th́ dù có gặp việc bức bách đến đâu, cũng vẫn b́nh thản không lo sợ. Chẳng hạn có ai nói ngày mai ông chết, chúng ta vẫn thản nhiên v́ đă biết đời người ai cũng phải chết, hết duyên là thân phải ră, không ră sớm th́ ră muộn, cầu cúng van vái rồi cũng phải chết nên không cầu. Nhược bằng ngày mai không chết th́ thôi, không lo buồn sợ sệt. Nếu nghe nói ḿnh sắp chết lo sợ, chạy đi coi thầy, cầu cúng van vái xin cho khỏi chết, là tà kiến. Ở trước, Phật dạy Long vương: "Ông phải nhớ chánh kiến bất động". Người có chánh kiến tức là có ḷng tin sâu chánh pháp th́ không động. Chúng ta v́ ḷng tin đối với chánh pháp chưa vững, nên hay bị lay động. Người hay động là thiếu niềm tin đối với pháp Phật th́ sự tu hành của ḿnh làm sao được lợi ích? Thế nên người phật tử phải có "Chánh kiến bất động". Trong kinh A-hàm có ghi: "Trưởng giả Úc-già khi gặp Phật, được Phật dùng nhiều phương tiện giáo hóa khai ngộ. Sau khi ông nghe được lư Tứ đế, dứt trừ mọi nghi hoặc, đối với Phật, đối với pháp ông đặt trọn vẹn niềm tin, không lay chuyển. Không t́m cầu một tôn sư nào khác, cũng không kiếm t́m một pháp môn nào khác. Ḷng tin Phật pháp của ông rất vững không động lay. Sau khi Phật Niết-bàn ông phát nguyện bố thí lớn, trong lúc ông bố thí th́ tàu buôn của ông bị đắm. Chư Tỳ-kheo ngại sản nghiệp của ông bị tiêu tán hết, nên cử tôn giả A-nan đến khuyên ông nên dừng cuộc bố thí. Trưởng giả Úc-già trả lời, ông hành xả như thế dù cho của cải ông có khô cạn hết, cũng chỉ để làm tṛn bổn nguyện của ông, giống y như bổn nguyện của vị Chuyển Luân Thánh Vương". Quí phật tử có vị nào đặt niềm tin sâu vững đối với pháp Phật như trưởng giả Úc-già không? Tin sâu như vậy mới là chánh kiến bất động. Ngày nay có nhiều phật tử ham sống sợ chết, ham giàu sợ nghèo. Nếu có ai bày vẽ nên đến đền này miếu nọ, để cầu thần linh hộ mệnh được sống lâu, cầu thần linh ban phúc được giàu sang, th́ họ không ngần ngại đến để cầu khẩn van vái. V́ vậy đạo Phật bị chê là mê tín. Pháp Phật dạy không có mê tín như thế, chỉ v́ người mang danh phật tử không có ḷng tin bất động với chánh pháp, cứ chạy đến chỗ này van vái, chạy đến chỗ kia van xin, nên đạo Phật bị mang tiếng không tốt. Nếu người phật tử chánh tín th́ không bao giờ tin những sự việc xảy ra ngoài lư nhân quả. Mọi hiện tượng xảy ra đều do nhân quả, nhân tốt th́ quả tốt, nhân xấu th́ quả xấu. Nếu quả xấu th́ can đảm chịu, nếu quả tốt th́ vui vẻ nhận. Đến đây tôi nói ra ngoài kinh Thập Thiện một chút để quí vị hiểu dễ tu. Trong luận Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất, Tổ Bồ-đề-đạt-ma có dạy tu Báo Oán hạnh, tức là người tu phải thực hành hạnh trả thù. Quí vị nghe người tu mà trả thù có ngạc nhiên không? Quí vị hăy nghĩ kỹ xem trả thù bằng cách nào? Ngài dạy khi gặp tai nạn đau khổ chúng ta phải nghĩ: Không phải tai nạn đau khổ ngẫu nhiên có, mà do đời trước ḿnh tạo nghiệp ác, nên hôm nay quả thành tựu. Ḿnh đă tạo nhân nay phải can đảm nhận quả, không than trời trách người. Khi hết quả xấu rồi th́ hết khổ. Như vậy là Báo Oán hạnh. Nếu tai họa tới mà than trời trách người, th́ đâu có hết nợ, oán càng thêm oán. Ví dụ trước kia ông Bát ăn ở mích ḷng ông Thập. Sau ông Thập có quyền thế, ông trả thù làm cho gia đ́nh ông Bát tan nát khổ đau. Như vậy là hai lần oán thù, lần thứ nhất ông Thập oán thù ông Bát, lần thứ hai ông Bát oán thù ông Thập và bây giờ ông Bát đang chờ cơ hội trả thù ông Thập. Xử với nhau như vậy có hết thù không? - Không. Thành ra trả thù mà trái lại gây thêm thù, oán thù chồng chất lên nhau không bao giờ hết. Tổ dạy "trả thù" là trả hết thù, không c̣n thù nữa, trả bằng cách quả đến th́ can đảm chịu, không than không trách th́ oán thù đau khổ không c̣n nữa. Đó là "trả thù" theo lư nhân quả. Người nào biết trả thù như thế th́ oán thù nhất định sẽ hết. Không biết trả thù như vậy th́ thù oán c̣n hoài, v́ trả thù tức là gây thêm thù làm sao hết được? Tổ Đạït-ma dạy "trả thù" mà không gây oán nên thù không c̣n. Quí vị xét người biết đạo lư tu hành, có ai muốn nghiệp nợ ḿnh c̣n hoài không? Ai cũng muốn hết nợ nên phải trả, nhớ trả mà đừng vay nữa. Tai họa đến, lại tới miếu này đền nọ, để van vái cầu cúng th́ bao giờ mới hết nợ? Làm như thế là không dám trả, không dám trả là không hết nợ. Tóm lại, Phật dạy chúng ta phải có chánh kiến, khi đă có chánh kiến rồi th́ can đảm vui chịu mọi khổ đau xảy đến, không than không trách. V́ biết quả khổ đến là do ḿnh tạo nhân xấu ở đời trước. Nếu trốn tránh hoặc than trách, hoặc vái lạy van xin cũng không hết tội, có khi lại thêm tội và tăng thêm tà kiến nữa là khác. Thế nên Tổ Bồ-đề-đạt-ma dạy tu hạnh Báo Oán để dứt thù dứt tội. Đó là hạnh thứ nhất. Đến hạnh thứ hai là hạnh Tùy Duyên. Ngài dạy chúng ta sanh ra đời được gặp những duyên tốt, làm ăn đúng thời, giàu có, nhiều tiền của, ăn sướng mặc đẹp sang cả. Phải nghĩ rằng: Do nghiệp lành đời trước mà ḿnh được sanh chỗ tốt làm được việc tốt, nên mới được giàu sang sung sướng. Do duyên phước đời trước để lại ngày nay được hưởng th́ không nên hưởng hết, nếu hưởng hết th́ phải khổ, v́ vậy phải tiếp tục gieo nhân lành luôn luôn không dừng. Đó là trường hợp thứ nhất. Đến trường hợp thứ hai là phải nghĩ ngày nay ḿnh được giàu sang sung sướng là do duyên nghiệp lành đời trước nên không tự cao ngă mạn, không khinh khi người, v́ không phải tài trí của ḿnh. Trong không ngă mạn, ngoài lo làm điều tốt th́ dễ tiến trên đường tu. Tuy nhiên, cũng có người không thông lư nhân quả, làm ăn được phát đạt th́ cho là may mắn, làm ăn bị thất bại th́ cho là rủi ro. Đổ thừa may rủi là tà kiến. Chớ không biết do nghiệp lành đời trước nên nay ḿnh nghĩ ǵ đúng nấy làm ǵ được nấy. Thế nên Phật nói do phước khiến cho con người hết khổ, muốn ǵ được nấy. Nghiệp ác làm cho người khổ, việc xảy ra thường trái ư ḿnh, không được toại ư. Thế nên người có phước muốn ǵ được nấy, c̣n người vô phước th́ muốn mà không được. Người không hiểu lư nhân quả đổ thừa cho may rủi là trốn trách nhiệm, tự cao ỷ tài khi làm được việc, oán trách khi thất bại. Thế nên người phật tử chân chánh phải có nhận định đúng với đạo lư, lúc nào cũng biết không có việc ǵ ngẫu nhiên đến, mà do phước nghiệp đời trước, cho nên cố gắng làm lành để vun bồi thêm phước đức. 15. ÂM: Long vương! Nhược ly sát sanh, tức đắc thành tựu thập ly năo pháp. Hà đẳng vi thập? Nhất : Ư chư chúng sanh phổ thí vô úy. Nhị : Thường ư chúng sanh khởi đại từ âm. Tam : Vĩnh đoạn nhất thiết sân nhuế tập khí. Tứ : Thân thường vô bệnh. Ngũ : Thọ mạng trường viễn. Lục : Hằng vi phi nhân chi sở thủ hộ. Thất : Thường vô ác mộng, tẩm giác khoái lạc. Bát : Diệt trừ oán kết, chúng oán tự giải. Cửu : Vô ác đạo bố. Thập: Mạng chung sanh thiên. Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Phật tùy tâm tự tại thọ mạng. DỊCH: Long vương! Nếu xa ĺa sát sanh th́ được thành tựu mười pháp không bức năo. Những ǵ là mười? 1. Bố thí đức vô úy cùng khắp chúng sanh. 2- Thường khởi ḷng từ bi đối với chúng sanh. 3- Dứt sạch tập khí giận hờn. 4- Thân thường không bệnh. 5- Mạng sống lâu dài. 6- Thường được phi nhân ủng hộ. 7- Thường không ác mộng, thức ngủ an vui. 8- Diệt trừ oán kết, oán hận tựgiải. 9- Không sợ rơi vào đường dữ 10.Khi chết sanh lên cơi trời. Đó là mười. Nếu hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau khi thành Phật, được tùy tâm Phật, thọ mạng tự tại. GIẢNG: 1-Ư chư chúng sanh phổ thí vô úy: Phàm sát sanh đi đôi với trộm cướp. Mọi người ai cũng trọng mạng sống ḿnh, nếu có người muốn giết ḿnh chết, ḿnh tránh không cho họ giết, song họ vẫn t́m để giết. Như vậy ḿnh không cho họ mạng sống mà họ vẫn t́m ḿnh để giết. Đó là họ cướp mạng sống của ḿnh. Loài vật cũng thế, khi người cầm dao muốn giết nó, nó không đưa cổ cho người giết, thế mà người dùng sức mạnh cột trói đè cổ nó để giết. Như vậy là người vừa sát sanh, vừa cướp mạng sống của loài vật. Nên nói sát sanh đi đôi với trộm cướp. Ngược lại không sát sanh th́ không trộm cướp, lại c̣n bố thí đức vô úy cho mọi loài, khiến cho mọi loài được an ổn không sợ hăi. Người cũng như vật đều có mối giao cảm. Đối với người có tâm ác hay giết hại, th́ người vật ở gần họ có cảm giác sợ sệt. Chẳng hạn như loài chim, thấy người cầm súng cầm cung là nó sợ bay đi nơi khác không dám tới gần. C̣n với người có ḷng từ không hại mạng nó th́ nó không sợ mà tới gần đậu trên vai trên tay. Loài người cũng vậy, đối với những kẻ hay giết hại th́ người đời kinh sợ tránh xa. Với người hiền đức th́ lân la thân thiện. Cho nên nói không sát sanh là bố thí đức vô úy (không sợ hăi) cho người. 2- Thường ư chúng sanh khởi đại từ tâm: Không sát sanh khởi ḷng từ bi đối với chúng sanh bằng cách nào? Ví dụ có người đi đường thấy cá lóc lên bờ nằm. Người không giữ giới sát liền bắt cá đem về nhà kho nấu ăn cho ngon miệng. Đó là người sát sanh không có ḷng từ bi đối với loài vật. Ngược lại, người giữ giới không sát sanh khi thấy cá mắc cạn, khởi ḷng thương, sợ cá chết, bắt đem thả xuống ao hồ cho nó sống. V́ vậy mà nói do xa ĺa nghiệp sát nên khởi ḷng từ bi đối với chúng sanh. 3- Vĩnh đoạn nhất thiết sân nhuế tập khí: Do đoạn dứt nghiệp sát sanh nên dứt sạch tập khí sân giận nơi tâm (ư). Người c̣n muốn giết hại sanh mạng người vật là c̣n hung dữ, hung dữ là do nóng giận. Người không c̣n giết hại mạng sống người vật, lại khởi ḷng thương là đă xa ĺa được ḷng nóng giận. 4- Thân thường vô bệnh: Người do không tạo nghiệp sát, nên được quả báo tốt không bệnh. Vậy ai hay đau yếu bệnh hoạn th́ biết đời trước ḿnh đă giết hại sanh vật nhiều, nên không than trách v́ biết nhân ḿnh đă tạo rồi giờ này thọ quả vậy. 5- Thọ mạng trường viễn: Do không sát sanh nên thọ mạng được lâu dài. Những người hiện đời sống lâu là do họ ít tạo nghiệp sát, do nhân không sát nên chiêu cảm được quả báo tốt. 6- Hằng vi phi nhân chi sở thủ hộ: Người không tạo nghiệp sát được phước báo, thường được phi nhân quỉ thần ủng hộ. Người này ở đâu cũng được bảo bọc ǵn giữ an ổn không bị nhiễu hại. 7- Thường vô ác mộng, tẩm giác khoái lạc: Người nào ngủ chiêm bao thường thấy mộng dữ như cọp rượt, rắn cắn… th́ biết đời trước tạo nhiều nghiệp sát. Người lúc thức thường được an vui, khi ngủ ít mộng mị, giấc ngủ yên lành th́ biết đời trước thường xa ĺa nghiệp sát sanh, nên mới được an lạc như vậy. 8- Diệt trừ oán kết, chúng oán tự giải: Người không tạo nghiệp sát hại, chẳng những hiện tại không kết thêm thù oán với người vật, mà những oan trái oán thù đời quá khứ lần lần cũng hết. 9- Vô ác đạo bố: Không tạo nghiệp sát hại, thường được quả báo an lành, có đủ ḷng tin với chánh pháp nên không sợ rơi vào đường ác như địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. 10- Mạng chung sanh thiên: Như trước đă nói người tu mười nghiệp lành th́ được phước báo mạng chung sanh lên cơi trời. Đó là mười công đức của người giữ giới không sát sanh hại vật. Trong mười nghiệp lành, chỉ tu một nghiệp không sát sanh mà kết quả được sanh lên cơi trời. Nếu biết hướng về quả Phật, th́ sau khi thành Phật thọ mạng muốn kéo dài bao lâu tùy theo sở nguyện, đó là ứng thân ở trong cơi đời không bị nghiệp lực chi phối bức bách, đến đi do nguyện lực. 16. ÂM: Phục thứ Long vương, nhược ly thâu đạo, tức đắc thập chủng khả bảo tín pháp. Hà đẳng vi thập? Nhất : Tư tài doanh tích, vương tặc, thủy hỏa, cập phi ái tư, û bất năng tán diệt. Nhị : Đa nhân ái niệm. Tam : Nhân bất khi phụ. Tứ : Thập phương tán mỹ. Ngũ : Bất ưu tổn hại. Lục : Thiện danh lưu bố. Thất : Xử chúng vô úy. Bát : Tài, mạng, sắc, lực an lạc, biện tài cụ túc vô khuyết. Cửu : Thường hoài thí ư. Thập : Mạng chung sanh thiên. Thị vi thập. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc chứng thanh tịnh đại bồ-đề trí. DỊCH: Lại nữa Long vương, nếu xa ĺa trộm cướp th́ được mười pháp bảo tín. Những ǵ là mười? 1. Của cải đầy dẫy, vua, giặc cướp, nước lửa và con hư không thể phá hoại. 2. Nhiều người thương mến. 3. Người không khinh khi phụ bạc. 4. Mười phương khen ngợi. 5. Không lo sợ tổn hại. 6. Tiếng tốt đồn khắp. 7. Ở trong hội chúng không hề sợ hăi. 8. Của cải, sanh mạng, h́nh sắc, sức lực an vui, biện tài đầy đủ không thiếu. 9. Thường sẵn ḷng bố thí. 10.Chết sanh lên cơi trời. Đó là mười. Nếu biết hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, th́ sau khi thành Phật, được chứng trí thanh tịnh đại bồ-đề. GIẢNG: Phật nói người nào ĺa nghiệp trộm cướp th́ được mười pháp bảo tín (tin bảo đảm). 1- Tư tài doanh tích, vương tặc, thủy hỏa, cập phi ái tử, bất năng tán diệt: Phật dựa trên nhân mà nói quả. Nếu người trộm cướp phá hoại gia sản của người khác, th́ chiêu cảm quả báo gia sản ḿnh bị tiêu tán. C̣n người không cướp phá gia sản của người khác, th́ chiêu cảm quả báo tiền của nhà ḿnh càng ngày càng sung túc. Dù cho vua ác, giặc cướp, nước lũ, lửa cháy, con bất hiếu cũng không thể làm cho tiêu tan được. Kinh Phật nói: Của cải vô thường là do năm duyên cớ trên làm cho tan hoại. Trong thời quân chủ, vua ra lệnh sung công tài sản của ai th́ người ấy phải nộp, không trốn được, đó là nạn vua. Tài sản ḿnh cất giữ mà trộm cướp đến vây ngặt khủng bố cướp lấy, đó là nạn trộm cướp. Đang làm ăn sung túc, nhà cửa chắc chắn mùa màng tốt tươi bị một trận nước lũ, băo lụt cuốn trôi, trắng tay không c̣n ǵ cả, đó là nạn nước. Hoặc đang làm ăn phát đạt bị một cơn hỏa hoạn thiêu rụi hết nhà cửa của cải, chẳng c̣n món ǵ, đó là nạn lửa. Hay sanh phải đứa con bất hiếu, làm được bao nhiêu nó tiêu xài, phá hết bấy nhiêu, đó là nạn con bất hiếu. Người đương thời gia sản bị năm lư do trên làm tiêu tán, phải biết người đó trước không giữ giới không trộm cướp. Người đă xa ĺa trộm cướp th́ được quả báo tốt, hiện đời của cải không bị cướp phá, mà đời sau gia sản không bị tiêu hao tán diệt bởi năm lư do vừa kể ở trên. 2- Đa nhân ái niệm: Người không trộm cướp th́ không đụng chạm tới quyền lợi kẻ khác nên được nhiều người yêu mến, thương tưởng. 3- Nhân bất khi phụ: Không cướp lấy của người th́ được đức tính không tham, nên người đời quí trọng, kính yêu không phụ bạc dối lừa. 4- Thập phương tán mỹ: Người không trộm cướp, không làm tổn hại tài sản của kẻ khác đó là người tốt, nên được mọi người khen ngợi, tán thán. 5- Bất ưu tổn hại: Không cướp lấy của người, nên không chiêu cảm quả báo mất của. V́ vậy mà không lo buồn về việc mất mát tổn hại tài sản. 6- Thiện danh lưu bố: Người không cướp đoạt, không lấy của phi nghĩa là người thanh bạch liêm sỉ nên được tiếng tốt đồn đi xa. 7- Xử chúng vô úy: Người không trộm cướp ở chỗ đông người không sợ sệt, v́ tâm không có niệm bất chánh, hành động từ trước tới giờ lúc nào cũng đứng đắn liêm sỉ, không có những cử chỉ của người tham lam cướp của, nên không e ngại sợ sệt chi cả. 8- Tài, mạng, sắc, lực an lạc, biện tài cụ túc vô khuyết: Người không trộm cướp, được quả báo tốt là của cải, mạng sống, sức lực đều được an ổn. Về mặt nói năng biện luận đầy đủ không thiếu sót. 9- Thường hoài thí ư: Người không có ḷng tham, không trộm cướp của người, lại c̣n nuôi ḷng bố thí, muốn giúp đỡ mọi người được đầy đủ sống no ấm, an vui hạnh phúc như ḿnh. 10- Mạng chung sanh thiên: Người không trộm cướp được quả báo sau khi chết sanh lên cơi trời. Đó là những quả báo tốt của người giữ giới bậc trung. Nếu muốn tiến thêm nữa là biết hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau khi thành Phật th́ sẽ chứng được trí thanh tịnh đại bồ-đề. Chúng ta tu một điều lành hay đôi ba điều lành, điều lành nào cũng hướng về Phật quả, đến một ngày nào đó công đức viên măn th́ sẽ thành Phật. Ở đây tuy Phật dạy chúng ta tu thập thiện bậc trung để được sanh lên cơi trời hưởng phước báo. Nhưng nếu đi sâu hơn th́ sẽ thấy mục đích cứu cánh mà Phật nhắm là dạy chúng ta tu, hướng đến Phật quả, để khi thành Phật được trí tuệ rộng lớn như Phật. 17. ÂM: Phục thứ Long vương, nhược ly tà hạnh, tức đắc tứ chủng trí sở tán pháp. Hà đẳng vi tứ? Nhất: : Chư căn điều thuận Nhị : Vĩnh ly huyên trạo. Tam : Thế sở xưng tán. Tứ : Thê mạc năng xâm. Thị vi tứ. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc Phật trượng phu ẩn mật tàng tướng. DỊCH: Lại nữa Long vương, nếu xa ĺa tà hạnh th́ được bốn pháp người trí ngợi khen. Những ǵ là bốn? 1. Các căn điều thuận. 2. Xa ĺa rộn ràng. 3. Được đời khen ngợi. 4. Vợ (hay chồng) không bị xâm phạm. Ấy là bốn. Nếu hay hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau khi thành Phật được tướng trượng phu ẩn mật tàng của Phật. GIẢNG: Phật dạy người không tà hạnh sẽ được bốn việc tốt như sau: 1- Chư căn điều thuận: Các căn trong thân người như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư đầy đủ, điều thuận. 2- Vĩnh ly huyên trạo: Người không tà hạnh, thường sống đoan chánh trong cảnh thanh tịnh, nên hằng xa ĺa chỗ ồn náo làm loạn động tâm trí. 3- Thế sở xưng tán: Người không tà hạnh thường có tư cách đứng đắn, đoan nghiêm, nên được mọi người quí trọng tán thán khen ngợi. 4- Thê mạc năng xâm: Người nam không tà hạnh khi cưới vợ th́ được vợ có nết na đoan chánh, không bị người xấu ḍm ngó xâm phạm tiết hạnh. Người nữ đoan chánh không tà hạnh khi có chồng cũng được người chồng đứng đắn không lang chạ. Đó là bốn quả báo tốt của nhân không tà hạnh. Người tu muốn tiến hơn nữa, biết hướng về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ sẽ được tướng trượng phu ẩn tàng, là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật. Đó là kết quả tốt của người giữ giới không tà hạnh. 18. ÂM: Phục thứ Long vương, nhược ly vọng ngữ, tức đắc bát chủng thiên sở tán pháp. Hà đẳng vi bát? Nhất : Khẩu thường thanh tịnh Ưu- bát hoa hương. Nhị : Vi chư thế gian chi sở tín phục. Tam : Phát ngôn thành chứng, nhân thiên kính ái. Tứ : Thường dĩ ái ngữ an ủy chúng sanh. Ngũ : Đắc thắng ư lạc, tam nghiệp thanh tịnh. Lục : Ngôn vô ngộ thất, tâm thường hoan hỷ Thất : Phát ngôn tôn trọng, nhân thiên phụng hành. Bát : Trí tuệ thù thắng vô năng chế phục. Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, tức đắc Như Lai chân thật ngữ. DỊCH: Lại nữa Long vương, nếu xa ĺa vọng ngữ th́ được tám pháp trời khen ngợi. Những ǵ là tám? 1. Miệng thường thanh tịnh thơm mùi hoa Ưu-bát. 2. Được người đời tin phục. 3. Mở lời thành chứng, trời người kính mến. 4. Thường dùng lời êm dịu an ủi chúng sanh. 5. Được ư vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh. 6. Nói không sai lầm, ḷng thường hoan hỷ. 7. Mở lời tôn trọng, người trời vâng làm. 8. Trí tuệ thù thắng không ai chế phục được. Đó là tám công đức. Nếu hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, th́ sau khi thành Phật sẽ được chân thật ngữ của Như Lai. GIẢNG: Ở đây Phật dạy người nào xa ĺa vọng ngữ (nói dối) th́ được tám đức mà chư thiên khen ngợi: 1- Khẩu thường thanh tịnh Ưu-bát hoa hương: Người không nói dối th́ được quả báo tốt là miệng có mùi thơm như mùi hương hoa sen. Vậy người nào miệng thường hôi hám th́ biết đời trước đă nói dối nhiều, nên mới có quả báo xấu như vậy. 2- Vi chư thế gian chi sở tín phục: Người không nói dối lúc nào cũng nói lời chân thật, th́ có uy tín với mọi người, nên được người đời tín cẩn, kính phục. 3- Phát ngôn thành chứng, nhân thiên kính ái: Người không nói dối, khi mở miệng nói điều ǵ là có chứng tín rơ ràng, không nói mơ hồ, không nói vu vơ. Nên người, trời luôn luôn kính mến. 4- Thường dĩ ái ngữ an ủy chúng sanh: Người giữ giới không nói dối, thường dùng lời ḥa nhă để an ủi người khổ đau được an vui lợi ích. 5- Đắc thắng ư lạc, tam nghiệp thanh tịnh: Người không nói dối được quả báo tốt là tâm ư lúc nào cũng an vui, thanh thản, ba nghiệp thân, khẩu, ư thường trong sạch. 6- Ngôn vô ngộ thất, tâm thường hoan hỷ: Người không nói dối th́ khi nói không lầm lỗi. Nếu không lỗi lầm th́ không hối hận, không buồn, thường an vui. 7- Phát ngôn tôn trọng, nhân thiên phụng hành: Người không nói dối có thần lực nơi lời nói, mỗi khi nói ra th́ trời người đều tôn trọng vâng làm. 8- Trí tuệ thù thắng vô năng chế phục: Người không nói dối th́ có trí tuệ thù thắng hơn mọi người, nên không ai có thể áp bức chế phục được. Phật dạy người biết hướng về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác th́ khi thành Phật sẽ được chân thật ngữ của Như Lai. Tôi nhắc lại một lần nữa là, mới học qua kinh Thập Thiện thấy như thấp dễ tu. Nhưng nếu tu trọn vẹn, được trời người cung kính tôn trọng th́ không phải dễ. Chỉ có một giới không nói dối mà mấy ai giữ được trọn vẹn. Quí vị thử xét lại ḿnh xem, có ai từ thuở bé cho tới lớn chưa từng nói dối một lần không? Tôi nói để quí vị lưu ư mà tu cho chín chắn. Ngay cả người xuất gia cũng coi thường, cho đó là phương tiện nên không ǵn giữ nghiêm túc. Tôi khuyên quí vị phải rán giữ cho đúng, thà chết chớ không nói dối, dù chết mà phước đầy đủ vẫn hơn. Chỉ giữ đúng có một giới mà phước đức như thế, chúng ta không thể lơ là. Người tu dù xuất gia hay cư sĩ đều phải giữ giới. Tu không phải tu cho Phật hay tu cho người nào khác mà làø tu cho ḿnh. Đời này ḿnh giữ giới thanh tịnh th́ đời này ḿnh được an vui, đời sau cũng được phước đức an vui. Nếu không giữ giới đời này khổ, đời sau cũng khổ. Thế nên phải biết Phật dạy chúng ta tu để được lợi ích là điều căn bản, rồi sau đó mới làm lợi ích cho người. 19. ÂM: Phục thứ Long vương, nhược ly lưỡng thiệt, tức đắc ngũ chủng bất khả hoại pháp. Hà đẳng vi ngũ? Nhất : Đắc bất hoại thân, vô năng hại cố. Nhị : Đắc bất hoại quyến thuộc, vô năng phá cố. Tam : Đắc bất hoại tín, thuận bổn nghiệp cố. Tứ : Đắc bất hoại pháp hạnh, sở tu kiên cố cố. Ngũ : Đắc bất hoại thiện tri thức, bất cuống hoặc cố. Thị vi ngũ. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, đắc chánh quyến thuộc, chư ma ngoại đạo, bất năng trở hoại. DỊCH: Lại nữa Long vương, nếu ĺa nghiệp nói hai lưỡi th́ được năm pháp không thể phá hoại. Những ǵ là năm? 1. Được thân bất hoại, không ai có thể hăm hại. 2. Được quyến thuộc bất hoại, không ai phá được. 3. Được ḷng tin bất hoại, thuận theo bổn nghiệp. 4. Được pháp hạnh bất hoại, chỗ tu kiên cố. 5. Được thiện tri thức bất hoại, không dối lừa nhau. Đó là năm pháp bất hoại. Nếu ai hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau khi thành Phật được quyến thuộc chân chánh, các ma ngoại đạo không thể phá hoại. GIẢNG: Người không nói hai lưỡi để ly gián t́nh thân giữa người này với người khác, giữa nhóm này với nhóm khác th́ thân không bị hại, được an ổn. 1- Đắc bất hoại thân, vô năng hại cố: Người không nói hai lưỡi để ly gián phá hoại sự thân t́nh đoàn kết của người th́ thân ḿnh không ai phá hoại, được an ổn. 2- Đắc bất hoại quyến thuộc, vô năng phá cố: Do không nói hai lưỡi để ly gián phá hoại chia ĺa ai, nên được quả báo tốt là cha mẹ, anh em, quyến thuộc ḿnh không ai phá hoại chia ĺa được. 3- Đắc bất hoại tín, thuận bổn nghiệp cố: Do đời trước ḿnh không nói hai lưỡi làm cho người thù địch nhau, mất niềm tin với nhau, nên ngày nay không ai mất niềm tin nơi ḿnh. Khi ḿnh nói ra ai cũng tin tưởng thuận theo. 4- Đắc bất hoại pháp hạnh, sở tu kiên cố cố: Do công phu tu hành của ḿnh vững, nên pháp hạnh ḿnh không ai phá hoại được. 5- Đắc bất hoại thiện tri thức, bất cuống hoặc cố: Thiện tri thức là thầy lành bạn tốt. V́ không dối gạt người, nên thầy lành bạn tốt của ḿnh không bị ai phá hoại làm cho ly tán được. Quí phật tử tự kiểm lại xem, có khi nào ḿnh nói hai lưỡi không? Nếu người nào không nói hai lưỡi để phá hoại việc người khác, th́ biết chắc đời sau được năm món phước báo kể trên. Rơ ràng tạo nhân không phá hoại chia ĺa ai, th́ thành tựu quả không bị ai phá hoại từ bản thân, quyến thuộc, ḷng tin, pháp tu hành cho đến thiện hữu tri thức. Quí vị đọc kinh Pháp Hoa, thấy Phật và Bồ-tát có bao nhiêu quyến thuộc? Các vị Bồ-tát đến dự hội trong kinh Pháp Hoa đem theo hàng trăm ngàn quyến thuộc. Quyến thuộc của các Ngài toàn là Bồ-tát. Tại sao vậy? V́ các Ngài tu hành giữ giới nghiêm tịnh, nên quyến thuộc của các Ngài toàn là những người thanh tịnh như Thanh văn, Bồ-tát, Bích-chi Phật… Nếu là Phật th́ đệ tử của các Ngài cũng là La-hán, Bồ-tát, chớ không có phàm phu hung ác, ngoại đạo tà kiến xen dự trong đó. Cũng như vậy, nếu chúng ta giữ giới không lưỡng thiệt chín chắn th́ được phước báo đời sau quyến thuộc ḿnh toàn là người chân chánh, trong gia đ́nh th́ anh em ḥa thuận, ăn nói ngay thẳng đàng hoàng. Nếu trong gia đ́nh anh em ăn nói gian xảo, quyến thuộc đối xử không ra ǵ, chúng ta có buồn trách giận hờn không? Lúc đó phải tự xét lại nhân đời trước ḿnh đă tạo, do ḿnh không tu, ăn nói gian xảo nên ngày nay thọ quả báo ở trong cảnh không tốt không vui. Nếu chúng ta tu như lời Phật dạy, th́ chắc chắn được phước báo sanh trong ṿng quyến thuộc chân chánh ḥa thuận. Người hiểu đạo nghe một câu kinh suy nghiệm, tự tu sửa, chớ không phải nghe xong rồi bỏ. Phải xét lại hoàn cảnh sống của ḿnh, để biết đời trước chúng ta tu thiếu hạnh nào, khiến đời này phải chịu khổ như vậy. Khi biết ḿnh tu giới chưa tṛn đủ th́ ngay bây giờ phải nỗ lực tu thêm, chớ không thể chần chờ hẹn mai hẹn mốt. Người học Phật phải thấy nhân đời này, biết quả đời sau, xét quả hiện tại biết nhân đời trước của ḿnh. Nếu ḿnh tu thiếu hạnh nào, phải nỗ lực tu hạnh đó để không c̣n thiếu nữa, nếu không tu th́ thiếu lại càng thiếu thêm. 20. ÂM: Phục thứ Long vương, nhược ly ác khẩu, tức đắc thành tựu bát chủng tịnh nghiệp. Hà đẳng vi bát? Nhất : Ngôn bất quai độ. Nhị : Ngôn giai lợi ích. Tam : Ngôn tất khế lư. Tứ : Ngôn từ mỹ diệu. Ngũ : Ngôn khả thừa lănh. Lục : Ngôn tắc tín dụng. Thất : Ngôn vô khả cơ. Bát : Ngôn tận ái lạc. Thị vi bát. Nhược năng hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề giả, hậu thành Phật thời, cụ túc Như Lai Phạm âm thanh tướng. DỊCH: Lại nữa Long vương, nếu xa ĺa ác khẩu th́ được thành tựu tám món tịnh nghiệp. Những ǵ là tám? 1. Lời nói không trái pháp độ. 2. Lời nói đều lợi ích. 3. Lời nói hợp lư đạo. 4. Lời nói đẹp khéo. 5. Lời nói có thể lănh thọ thừa hành. 6. Lời nói được tin dùng. 7. Lời nói không thể chê. 8. Lờøi nói được ưa thích. Đó là tám món tịnh nghiệp. Nếu ai hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, th́ sau khi thành Phật, đầy đủ tướng Phạm âm của Như Lai. GIẢNG: Phật dạy người nào ĺa được lời nói hung dữ, tức là không la mắng chửi rủa người th́ được tám món tịnh nghiệp: 1- Ngôn bất quai độ: Lời nói không trái pháp độ, tức là lời nói chừng mực không trái thời duyên, không trái lư đạo. Khi nổi nóng mở miệng th́ mắng chửi, nói nặng người, đó là lời nói không chừng mực, lúc b́nh thường tỉnh táo th́ không bao giờ nói. Sở dĩ nói như thế là do không làm chủ được ḿnh. Bây giờ ḿnh tu, b́nh tĩnh làm chủ được miệng không nói hung dữ, nên nói lời chừng mực không trái với thời duyên, không trái với đạo lư. 2- Ngôn giai lợi ích: Người không nói ác, mỗi khi mở miệng đều nói lời lợi ích, không bao giờ nói lời làm tổn hại khiến người khổ đau. 3- Ngôn tất khế lư: Người không nói lời ác, th́ không nói sai quấy, chỉ nói những lời hợp với đạo lư. 4- Ngôn từ mỹ diệu: Người không nói lời ác, chỉ nói lời nhu nhuyến, dịu dàng làm vui đẹp ḷng người, không nói lời thô xẵng, làm cho người buồn giận. Thường quí bà, mỗi khi nổi giận có nói êm dịu nhẹ nhàng không, hay nói thô xẵng làm cho người buồn giận? Quí bà rán nhớ để tu, v́ nói hung dữ người nữ dễ phạm. 5- Ngôn khả thừa lănh: Người không nói ác, khi mở miệng thường nói lời hiền, khiến người nghe dễ lănh hội thừa nhận. 6- Ngôn tắc tín dụng: Người không nói lời ác, khi nói là nói lời chân chánh phù hợp đạo lư, khiến người nghe tin nhận không bác bỏ. 7- Ngôn vô khả cơ: Người không nói lời ác, mở miệng nói lời hiền dịu, nhu nhuyến không bị chê cười. 8- Ngôn tận ái lạc: Người không nói lời ác, chỉ nói lời hiền thiện, ai nghe cũng ưa thích. Đó là tám phước báo của người không nói hung dữ. Nếu ai hướng về quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, th́ sau khi thành Phật sẽ được đầy đủ tướng Phạm âm của Như Lai. Trong kinh có ghi tiếng nói của Phật thanh tao trong trẻo như tiếng chim Ca-lăng-tần-già. Ngài được phước báo tốt về âm thanh như thế là do nhiều đời nhiều kiếp khéo ǵn giữ giới không nói hung dữ, nên mới được như vậy. Do ĺa xa những tiếng thô, những lời nói làm cho người tức tối, nên Ngài được tiếng trong trẻo không ai bằng, nên ai cũng thích nghe. C̣n phàm phu chúng ta mở miệng là bị người nghe chống đối lại, không thừa nhận, đó là do từ trước chúng ta đă nói lời hung ác. Biết hậu quả như thế, chúng ta phải dè dặt chớ nói lời hung ác mới được tám điều phước lợi vừa nêu. ?
|