LỜI
DẪN ÐẦU
Tập I "Thiền sư
Trung Hoa" này, chúng tôi góp dịch trong ba bộ sách "Cảnh Ðức
Truyền Ðăng Lục", "Chỉ Nguyệt Lục" và "Cao Tăng Truyện". Tuy chung
hội cả ba bộ sách, song hành trạng của Thiền sư "ra đi không lưu
lại dấu vết", nên chi không thể tìm kiếm đầy đủ được. Mặc dù
thế, chúng tôi nghĩ một câu nói của Thiền sư, nếu độc giả lãnh
hội được, cũng có thể đủ tu hành đến giải thoát. Cho nên,
chúng tôi không ngại phiên dịch ra đây.
Ðặc điểm trong sự
truyền bá Thiền tông, Thiền sư không khi nào nói trắng ra những
cái gì mình muốn dạy cho kẻ tham vấn. Các ngài khéo dùng những
hành động lạ thường, những ngôn ngữ bí hiểm khiến cho người tham
vấn phải ngạc nhiên, phải nghi ngờ. Vì thế, chỉ có những người
lanh lợi mới có thể ngay đó thể hội được. Bằng người không thể
ngay đó thể hội, thì phải ôm hoài nghi mãi trong lòng, đến bao
giờ gặp cơ duyên mới tỉnh ngộ. Có một Thiền sư đã nói: "Tôi
không quí Tiên sư về đức hạnh, mà chỉ quí chỗ không giải nghi cho
tôi." Do đó, khi cầm viết dịch tập sách này, tôi chỉ muốn hoàn
toàn là dịch giả, không muốn xen vào một ý kiến nào.
Nhưng hành trạng
Thiền sư thật quá khó hiểu. Có khi các ngài như quá ngang tàng
không kể gì tội phước, như Thiền sư Ðơn Hà thiêu tượng Phật. Có
khi các ngài như thô bạo dám giết hại chúng sanh, như Nam Tuyền
cầm dao chặt con mèo. Có khi các ngài như tàn nhẫn không biết
thương kẻ hậu học, như Hoàng Bá đánh Lâm Tế. Hoặc các ngài tự
bảo sau khi chết sẽ sanh làm con trâu, như Nam Tuyền, Qui Sơn... Vì
thế, nếu chúng tôi không điểm sơ qua, quí độc giả khó bề lãnh
hội được thâm ý. Chẳng những không lãnh hội được thâm ý, trái
lại còn đâm ra nghi ngờ hoang mang, có khi phỉ báng các ngài là
khác. Bởi lẽ ấy, buộc lòng chúng tôi phải dẫn giải một vài
điểm đặc biệt ở sau đây, gọi là hé cửa cho quí độc giả bước
vào nhà Thiền.
*
Người tu theo Thiền
tông cốt nhận được bản tâm, thấy được bản tánh của mình. Khi
nhận được bản tâm, mới tin "tâm tức là Phật". Khi thấy được
bản tánh, mới tin "tánh mình đầy đủ tất cả, xưa nay vẫn thanh
tịnh". Nhưng tâm tánh ở đâu? thế nào? Tất cả người tu Phật đều
thắc mắc vấn đề này. Khi đặt câu hỏi tâm tánh ở đâu? thế
nào? thì khác gì người cỡi trâu tìm trâu, vác Phật đi cầu Phật,
biết bao giờ thấy được. Sao chúng ta không mạnh mẽ như Thiền sư
Huệ Hải? Khi Sư đến tham vấn Mã Tổ, Mã Tổ hỏi:
- Ðến đây tính cầu
việc gì?
Sư thưa:
- Ðến cầu Phật
pháp.
- Kho báu nhà mình
chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có
một vật, cầu Phật pháp cái gì?
- Cái gì là kho
báu nhà mình của Huệ Hải?
- Chính nay ngươi
hỏi ta, đó là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu
thốn, tự do sử dụng đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.
Ngay câu nói này,
Sư nhận được bản tâm.
Thật không xa, nếu
chúng ta can đảm tin nhận thì nó sờ sờ trước mắt. Bằng chúng ta
không tin nhận thì tìm mãi suốt đời không ra. Bởi chúng ta đã
tưởng tượng quá nhiều về tâm tánh, những tưởng tượng ấy đã tô
đắp vẽ vời khiến bộ mặt thật của tâm tánh biến thành hình
tướng lạ kỳ huyền bí. Giờ đây, nghe các Thiền sư chỉ thẳng bộ
mặt thật của nó rất tầm thường bình dị, tất cả chúng ta không
ai chịu tin. Do đó, muốn thấy bộ mặt thật của mình (Bản lai diện
mục) qua các lời chỉ dạy của các Thiền sư, chúng ta phải gạt bỏ
mọi tưởng tượng đã có lâu nay đi, khả dĩ mới trực nhận được
tâm tánh.
*
Thiền tông lấy
bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại
với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian. Tất
cả hình thức bên ngoài đối với Thiền sư không có gì là quan
trọng. Dù ngồi thiền suốt ngày, dưới con mắt các ngài vẫn thấy
chưa phải là tinh tấn. Vì thế, Thiền sư Hoài Nhượng mới đặt câu
hỏi với Thiền sư Ðạo Nhất, khi Sư này đang mải mê ngồi thiền,
rằng: "Như trâu kéo xe, xe không đi, đánh xe là phải hay đánh
trâu là phải?"
Huống nữa, quên
tâm mình chạy theo hình thức bên ngoài, càng tu càng xa đạo.
Không có sự giác ngộ nào ngoài tâm mà có. Phật là giác, nếu
chúng ta cầu Phật mà quên tâm, thử hỏi bao giờ thấy Phật.
Những hình tượng Phật, Bồ-tát thờ bên ngoài, chỉ là phương tiện
gợi lại cho chúng ta nhớ bản tâm. Nếu chúng ta không chịu nhớ
lại bản tâm, cứ cầu cạnh nơi hình tượng bên ngoài, thật là
một việc làm trái đạo. Vì thế, Thiền sư Ðơn Hà đã bạo dạn
thiêu tượng Phật gỗ. Viện chủ Hướng nóng lòng hỏi: "Tại sao
thiêu tượng Phật của tôi?" Sư đáp: "Thiêu tìm xá-lợi." Thật là
một câu đáp bất hủ. Vậy mà Viện chủ còn ngây thơ nói: "Phật
gỗ làm gì có xá-lợi." Sư bảo: "Thỉnh thêm hai vị nữa thiêu." Quả
nhiên một tiếng sấm tét màng tai, làm sao Viện chủ không tỉnh
ngộ được. Do đó, người sau nói: "Ðơn Hà thiêu Phật gỗ, Viện chủ
rụng lông mày." (Ðơn Hà thiêu mộc Phật, Viện chủ lạc mi mao.)
Hành động táo bạo của Thiền sư Ðơn Hà là một sức mạnh phi
thường, đánh thức được người đang chìm trong giấc mê hình thức.
*
Muốn trắc nghiệm
chỗ thấy biết của người, không gì hay hơn ở trong một trường hợp
bất thần bắt buộc họ phải thố lộ ra lời nói, hoặc hành động.
Thiền sư Nam Tuyền giơ dao sắp chặt con mèo một cách đột ngột
giữa đại chúng, bắt buộc chúng phải đáp một câu cho hợp ý, Sư
sẽ cứu con mèo. Rốt cuộc trong đại chúng không có người đáp
được, buộc lòng Sư phải hạ dao. Hành động ấy không phải nhằm
vào con mèo, mà nhằm thẳng đại chúng. Nhưng đại chúng đã bất
lực, Sư bất đắc dĩ phải giết con mèo như lời đã nói. Khi Tùng
Thẩm đi ngoài về, Sư cũng thuật lại lời ấy, Tùng Thẩm liền cổi
giày đội trên đầu. Sư bảo: " Giá khi nãy có ngươi thì đã cứu
được con mèo." Hành động bất thần của Sư chẳng khác nào cơn sét
đánh, chỉ có Tùng Thẩm biết được ý Sư nên cổi giày đội trên
đầu. Bởi vì chỗ tột quí của con người là đầu, cái ti tiện nhất
là giầy. Tùng Thẩm cổi giày đội trên đầu là nói lên cái thấy
của mình không có quí tiện, không còn phàm thánh, vượt ngoài
vòng đối đãi. Ðó là chỗ thầy trò thông hội nhau. Người thời
nay thấy hành động giết con mèo của Sư, liền kết án Sư phạm tội
sát sanh. Họ có biết đâu, Sư đã khéo mượn phương tiện để thấy
cứu kính.
*
Chân tâm là chỗ
bặt suy nghĩ, càng suy nghĩ càng xa. Thiền tông xưa nay truyền trao
chỉ một chân tâm không gì khác. Người tu thiền vừa móng lòng tìm
chân tâm thì không bao giờ thấy nó. Vì thế, Sư Lâm Tế Nghĩa
Huyền vừa hỏi "thế nào là đại ý Phật pháp" liền bị Thiền sư
Hoàng Bá đập cho một gậy, ba phen hỏi đều ăn ba gậy, mà không
được một lời chỉ dạy. Thế mà, đi đến Thiền sư Ðại Ngu, Lâm Tế
thuật lại việc bị đánh, "mà không biết có lỗi gì", Ðại Ngu còn
nói: "Hoàng Bá dạy ngươi rất thống thiết, chỉ tại ngươi còn tìm
lỗi." Ngay câu nói này, Lâm Tế tỉnh ngộ. Thế mới biết, cái
đánh của Hoàng Bá thật thống thiết. Nhưng, nếu không có Thiền
sư Ðại Ngu thì cái đánh ấy trở thành vô nghĩa.
*
Chân tâm hằng lộ
liễu trong mọi hành động của ta. Nếu ta trực nhận là thấy, bằng
không trực nhận tìm hoài suốt kiếp cũng chẳng gặp. Người học
đạo không chịu ngay nơi hành động trực nhận chân tâm, mãi cầu
thiện tri thức chỉ dạy cho thể hội. Nhưng làm sao chỉ dạy được,
vừa nói ra là đã sai rồi. Vì thế, Sư Sùng Tín theo hầu Thiền sư
Ðạo Ngộ mấy năm mà không nghe chỉ dạy. Nóng lòng, Sư hỏi: "Con
theo hầu Thầy mấy năm mà chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu." Ðạo
Ngộ bảo: "Ta đã từng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi rồi." - "Thầy dạy
con lúc nào?" - "Khi ngươi bưng cơm lên thì ta nhận, ngươi dâng trà
thì ta tiếp, ngươi xá lui ra thì ta gật đầu, đâu không dạy tâm
yếu cho ngươi?" Nhân câu nói này, Sư Sùng Tín tỉnh ngộ. Thật, dạy
mà không dạy, nói mà không nói. Ðây là đại dụng của Thiền sư,
những người học ngôn ngữ không sao hiểu thấu.
*
Người tu Thiền
phải dẹp sạch bản ngã, dù là bản ngã thánh cũng không còn.
Nếu còn thấy sở đắc là còn bản ngã, giả sử thấy đắc quả
thánh cũng là vị thánh tương đối, chớ chưa thật giải thoát. Chỗ
giải thoát cứu kính là tâm không còn dính mắc một chỗ nào, như
câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm." Vì thế vua Ðường Túc Tông
hỏi Thiền sư Huệ Trung: "Thầy được pháp gì?" Huệ Trung đáp: "Bệ
hạ thấy một mảnh mây trong hư không chăng?" - "Thấy" - "Nó do
đóng đinh mắc hay cột dây mắc?" Ðược không dính mắc mới tự tại
giải thoát, còn dính mắc bất cứ một quả vị nào cũng là chưa tự
tại. Thế mà, người tu thiền hiện nay ngồi lại là mong thấy cái
này, chứng quả kia. Khởi tâm vọng cầu như vậy làm sao không lạc
vào cảnh giới ma? Làm sao tránh khỏi cuồng loạn?
*
Chẳng những tâm
không còn dính mắc trong quả vị, mà cũng sạch hết phàm tình
thánh giải. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nhược tác thánh giải tức thọ
quần tà." Phàm tình là tình chấp của chúng sanh trong lục đạo.
Thánh giải là cái hiểu thánh, hiểu rằng mình chứng mình đắc
trong các quả vị thánh. Nếu chưa sạch phàm tình thánh giải thì
người tu khó bề thoát khỏi cảnh ma. Tổ Qui Sơn sắp tịch, bảo
chúng: "Sau khi Lão tăng trăm tuổi sẽ đến dưới núi làm con
trâu, hông bên trái đề năm chữ ‘Qui Sơn Tăng Linh Hựu’. Khi ấy,
gọi là Qui Sơn tăng hay gọi là con trâu? Gọi là con trâu hay gọi
là Qui Sơn tăng? Gọi thế nào mới đúng?" Người thời nay nghe câu
nói này bèn sanh nghi "tại sao Ngài tu như vậy mà đọa làm súc
sanh"? Thật là cái biết của kẻ mù, làm sao thấy được trời đất
bao la? Nơi Ngài tâm phàm thánh đã sạch mới thốt ra được câu
ấy.
Chúng tôi mong quí
độc giả khi đọc quyển sách này, mỗi người tự cổi sạch những
thiên chấp của mình để thấy được đại cơ đại dụng của Thiền sư,
đừng bị đầu lưỡi các Ngài lừa.
*
Tập sách này,
chúng tôi soạn dịch các vị Thiền sư từ đời thứ nhất sau Lục tổ
Huệ Năng đến đời thứ tư, tức là đến bắt đầu chia tông phái.
Tập thứ hai, chúng tôi soạn dịch từ đời thứ năm sau Lục Tổ đến
đầy đủ chia năm Tông và bảy Phái, nghĩa là Tông Tào Ðộng, Lâm
Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn và đến Tông Lâm Tế chia làm
hai phái Huỳnh Long và Dương Kỳ.
Về phần sử chư
Thiền đức ở Trung Hoa đến đây không phải là hết, song những
nhân vật trọng yếu trong nhà Thiền cũng gần tạm đủ. Ðợi khi có
thì giờ rỗi, chúng tôi có thể sẽ dịch thêm để cống hiến quí
độc giả.
Kính ghi
THÍCH THANH TỪ
? |