ÐỜI THỨ
HAI SAU LỤC TỔ
I.- PHÁI THIỀN SƯ
HÀNH TƯ (có một vị)
Thiền sư Hy Thiên
(Thạch Ðầu)
II.- PHÁI THIỀN SƯ
HOÀI NHƯỢNG (có chín vị)
1- Thiền
sư Ðạo Nhất (Mã Tổ)
2- Thiền
sư Thường Hạo
3- Thiền
sư Trí Ðạt
4- Thiền
sư Thản Nhiên
5- Thiền
sư Thần Chiếu
6- Thiền
sư Nghiêm Tuấn
7- Thiền
sư Bổn Như (nước Tân La)
8- Thiền
sư Huyền Ngang
9- Thiền
sư Pháp Không
III- PHÁI THIỀN SƯ
THẦN HỘI (có 18 vị)
1- Thiền sư Phước
Lâm
2- Thiền
sư Quang Bảo
3- Thiền
sư Pháp Như
4- Thiền sư Tiến
Bình
5- Thiền
sư Huệ Diễn
6- Thiền
sư Hoài Không
7- Thiền sư Viên
Chấn
8- Thiền
sư Quảng Phu
9- Thiền
sư Hành Giác
10-
Thiền sư Thần Anh
11-
Thiền sư Vô Danh
12-
Thiền sư Hạo Ngọc
13-
Thiền sư Chí Mãn
14-
Thiền sư Lãng
15-
Thiền sư Linh Thản
16-
Thiền sư Thông Ẩn
17-
Thiền sư Nam Ấn
18-
Thiền sư Lý Thường
IV.- PHÁI QUỐC SƯ
HUỆ TRUNG (có 5 vị)
1- Thiền sư Ứng
Chân (Ðam Nguyên)
2- Thiền
sư Duy Giới
3- Vua
Ðường Túc Tông
4- Vua
Ðường Ðại Tông
5- Tri
Cổ
*
7. THIỀN SƯ HY THIÊN
Thạch Ðầu - (695 - 785)
Sư họ Trần, quê ở
Cao Yếu, Ðoan Châu. Lúc thọ thai Sư, mẹ thích ăn chay, không ưa đồ
mặn. Khi còn hài nhi, Sư tự hành động lấy, không phiền mẹ săn
sóc. Ðến lớn khôn, Sư tự an ổn vui tươi, không khi nào tỏ vẻ
không bằng lòng người. Ở thôn Ðộng Liêu, dân chúng sợ quỉ thần
nên lập nhiều miếu thờ, thường họp nhau mua rượu làm bò tế lễ.
Một hôm, đi chơi thấy dân chúng tế lễ, Sư bèn phá miếu giựt bò
đem về. Ðến tuổi vài mươi, Sư từ giã quyến thuộc đi xuất gia.
Nghe Lục tổ Huệ
Năng đang giáo hóa tại Tào Khê, Sư tìm đến thọ giáo. Lục Tổ độ
Sư làm đệ tử. Sư chưa thọ giới cụ túc, cũng chưa đạt đạo, Tổ
đã báo tin sắp tịch, Sư hỏi Tổ:
- Sau khi Hòa
thượng viên tịch, con phải nương tựa nơi ai?
Tổ bảo:
- Tầm Tư đi.
Tổ tịch rồi, mỗi
ngày Sư đến bên cạnh tháp ngồi tư duy đến quên cả ăn ngủ. Có
vị Thượng tọa thấy thế hỏi:
- Thầy đã tịch,
ngươi làm gì ngồi đây mãi?
Sư thưa:
- Trước khi thầy
tịch, tôi hỏi chỗ nương tựa, thầy dạy tầm Tư, nên tôi ngồi tư
duy.
Thượng tọa bảo:
- Ngươi có sư huynh
hiệu Hành Tư đang ở núi Thanh Nguyên, nên đến đó nương tựa, thầy
dạy đã rõ, ngươi còn nghi gì?
Nghe lời dạy này,
Sư thu xếp đồ đạc, tìm đến núi Thanh Nguyên ra mắt Thiền sư Hành
Tư [Phần đối đáp khi Sư đến núi Thanh Nguyên, xem lại bài Thiền
sư Hành Tư.]
Một hôm Thiền sư
Hành Tư hỏi:
- Có người nói
Lãnh Nam có tin tức.
Sư thưa:
- Có người không
nói Lãnh Nam không có tin tức.
- Nếu thế, đại
tạng tiểu tạng từ đâu mà ra?
- Thảy từ trong
ấy, trọn không thiếu việc lạ.
Thiền sư Hành Tư
gật đầu.
Ðời Ðường niên
hiệu Khai Nguyên thứ mười sáu (728 T.L.), Sư đến La Phù thọ giới
cụ túc. Niên hiệu Thiên Bảo năm đầu (742 T.L.) Sư tìm đến Hoành
Nhạc tại Nam Tự, cạnh chùa phía đông có gộp đá cao giống như
cái đài, Sư lên đó cất am tranh ở. Thời nhân kính trọng Sư nên
gọi là Hòa thượng Thạch Ðầu.
*
Một hôm, thượng
đường dạy chúng, Sư bảo:
- Pháp môn của ta
do Phật trước truyền trao, không luận thiền định tinh tấn, chỉ đạt
Tri kiến Phật, tức tâm tức Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, Bồ-đề,
phiền não tên tuy khác mà thể vẫn đồng. Các ngươi nên biết,
thể tâm linh của mình lìa tánh đoạn và thường, không phải nhơ
sạch, lặng lẽ tròn đầy, phàm thánh ngang bằng nhau, ứng dụng
không lường, lìa tâm ý thức, ba cõi sáu đường chỉ do tâm mình
hiện, như trăng đáy nước, bóng trong gương, đâu có sanh diệt. Các
ngươi khéo biết nó thì không gì chẳng đủ.
*
Ðệ tử Ðạo Ngộ
hỏi:- Ý chỉ Tào Khê người nào được?
Sư đáp:- Người hội
Phật pháp được.
- Thầy được chăng?
- Ta không hội
Phật pháp.
*
Có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là giải
thoát?
Sư đáp:- Ai trói
ngươi?
- Thế nào là Tịnh
độ?
- Cái gì làm nhơ
ngươi?
- Thế nào là
Niết-bàn?
- Ai đem sanh tử cho
ngươi?
*
Sư hỏi vị Tăng mới
đến:- Từ đâu đến?
Tăng thưa:- Từ
Giang Tây đến.
- Thấy Mã Ðại sư
chăng?
- Dạ thấy.
Sư bèn chỉ khúc
cây bảo:- Mã Ðại sư sao giống cái này?
Tăng không đáp
được, trở về thuật lại Mã Tổ.
*
Tăng hỏi:- Thế
nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư đáp:- Hỏi cây
cột cái đi!
- Con không hội.
- Ta cũng chẳng
hội.
*
Ðại Ðiên hỏi:- Nó
có nói không là hai cái đáng chê, xin Thầy trừ?
Sư đáp:- Một vật
cũng không, trừ cái gì?
Sư lại hỏi:- Dẹp
bỏ cổ, họng, môi, lưỡi, ngươi nói đi?
Ðại Ðiên thưa:-
Không cái ấy.
Sư bảo:- Như thế
là ngươi được vào cửa.
*
Ðạo Ngộ hỏi:- Thế
nào là đại ý Phật pháp?
Sư đáp:- Không
được, không biết.
- Tiến lên lại có
chỗ chuyển hay không?
- Hư không dài
không ngại mây trắng bay.
*
Sư ở Nam Nhạc có
nhiều vị thần linh hiện ra nghe pháp và xin thọ qui giới.
Ðời Ðường niên
hiệu Quảng Ðức năm thứ hai (763 T.L.), đệ tử thỉnh Sư xuống Lương
Ðoan xiển hóa. Từ đây, hóa chủ Hồ Nam là Thạch Ðầu, hóa chủ
Giang Tây là Mã Tổ.
Ðến ngày rằm
tháng chạp niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ sáu (785 T.L.), Sư viên
tịch, thọ chín mươi mốt tuổi, sáu mươi ba tuổi hạ. Vua sắc ban là
Vô Tế Ðại sư, tháp hiệu Kiến Tướng.
Sư trước tác một
thiên Ðồng Tham Khế có chú giải lưu hành khá rộng lại có làm
một bài ca Thảo Am:
THẢO AM CA
Ngô kết
thảo am vô bảo bối
Phạn
liễu tùng dung đồ thùy khoái
Thành
thời sơ kiến mao thảo tân
Phá hậu
hườn tương mao thảo cái.
Trụ am
nhân, trấn thường tại
Bất
thuộc trung gian dữ nội ngoại
Thế
nhân trụ xứ ngã bất trụ
Thế
nhân ái xứ ngã bất ái.
Am tuy
tiểu, hàm pháp giới
Phương
trượng lão nhân tương thể giải
Thượng
thừa Bồ-tát tín vô nghị
Trung hạ
văn chi tất sanh quái.
Vấn thử
am, hoại bất hoại?
Hoại dữ
bất hoại chủ nguyên tại
Bất cư
nam bắc dữ đông tây
Cơ
thượng kiên lao dĩ vi tối.
Thanh
tùng hạ, minh song nội
Ngọc
điện châu lâu vị vi đối
Nạp bì
mông đầu vạn sự hưu
Thử
thời Sơn tăng đô bất hội.
Trụ thử
am, hưu tác giai
Thùy
khoa phô tịch đồ nhân mãi
Hồi
quang phản chiếu tiện qui lai
Khoách
đạt linh căn phi hướng bối.
Ngộ Tổ
sư thân huấn hối
Kết
thảo vi am mạc sanh thối
Bách
niên phao phước nhậm tung hoành
Bãi thủ
tiện hành thả vô tội.
Thiên
chủng ngôn, vạn ban giải
Chỉ yếu
giáo quân trường bất muội
Dục
thức am trung bất tử nhân
Khởi ly
nhi kim giá bì đại.
Dịch: Bài ca THẢO
AM
Tôi cất
am tranh không của báu
Ăn xong
thỏng thả ngủ ngon lành
Khi
thành nhìn thấy cỏ tranh xanh
Lúc
hỏng lại tìm cỏ tranh lợp.
Người
chủ am vẫn mãi còn
Không
thuộc khoảng giữa chẳng ngoài trong
Chỗ trụ
người đời, ta chẳng trụ
Chỗ yêu
người đời, ta chẳng yêu (ưa).
Am tuy
nhỏ, trùm khắp giới
Lão già
phương trượng mới hiểu tường
Bồ-tát
thượng thừa tin chẳng ngại
Trung hạ
nghe đây ắt lạ kỳ.
Hỏi am
này hoại chẳng hoại?
Hoại
cùng chẳng hoại chủ mãi còn
Chẳng ở
đông tây hoặc nam bắc
Nền
móng vững vàng là rất chắc.
Dưới
tùng xanh, trăng giọi song
Ðiện
ngọc lầu châu chưa dám đối
Màn che
chăn đắp muôn việc thôi
Khi này
Sơn tăng toàn chẳng hội.
Ở am
này, thôi khởi nghỉ
Ai khéo
trải chiếu mời người mua
Hồi
quang phản chiếu là trở về
Ðạt
suốt linh căn không theo bỏ.
Gặp Tổ
sư thân chỉ dạy
Kết cỏ
làm am chớ thối lui
Trăm
năm bỏ sạch mặc tung hoành
Buông
thõng tay đi vẫn không tội.
Ngàn
thứ nói, muôn điều hiểu
Chỉ cốt
dạy anh thường chẳng muội
Muốn
biết không chết, người trong am
Ðâu rời
đãy da hiện nay có.
*
8.
THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
Mã
Tổ - (709 - 788)
Vì người đời sau
quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọi là Mã Tổ: ông Tổ họ
Mã.
Sư họ Mã, quê ở
huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sư dung mạo lạ thường: đi
như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dài khỏi mũi, dưới chân có hai khu
ốc. Lúc bé, Sư đến chùa La-hán xin xuất gia với Hòa thượng
Ðường ở Từ Châu. Sau Sư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du
Châu.
Ðời Ðường khoảng
niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tập thiền định ở Viện
truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiền sư Hoài Nhượng giáo hóa
được giải ngộ. Bạn đồng tham học với Sư có sáu người, chỉ riêng
Sư được truyền tâm ấn.
Sau khi tạm biệt
thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi Phật Tích, kế dời sang Lâm
Xuyên, sau lại đến núi Cung Công Nam Dương. Niên hiệu Ðại Lịch
(765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cung và Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư
khai đường để truyền bá tông phong. Từ đây học giả bốn phương
tụ hội về rất đông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi
Phật.
*
Một hôm Sư dạy
chúng:
- Các ngươi mỗi
người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâm Phật. Tổ Ðạt-ma
từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượng thừa nhất tâm, khiến
các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng-già để ấn tâm địa
chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm này
mỗi người tự có, nên kinh Lăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ,
cửa không là cửa pháp." (Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp
môn.)
Phàm người cầu
pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng có Phật,
ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiện chẳng bỏ ác,
hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt tánh tội là không,
mỗi niệm đều không thật, vì không có tự tánh nên tam giới chỉ
là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp, thấy
sắc tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Các ngươi chỉ tùy
thời nói năng tức sự là lý, trọn không có chỗ ngại, đạo quả
Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanh ra thì gọi là sắc, vì biết sắc
không, nên sanh tức chẳng sanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có
thể tùy thời ăn cơm mặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng
ngày trôi qua, đâu còn có việc gì.
Các ngươi nhận ta
dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa
tùy thời thuyết
Bồ-đề
diệc chỉ ninh
Sự lý
câu vô ngại
Ðương
sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm
tùy thời nói
Bồ-đề
cũng thế thôi
Sự lý
đều không ngại
Chính
sanh là chẳng sanh.
*
Có vị Tăng hỏi:-
Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sư đáp:- Vì vỗ con
nít khóc.
- Con nít nín rồi
thì thế nào?
- Phi tâm phi Phật.
- Người trừ được
hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nói với y là
"phi vật".
- Khi chợt gặp
người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãy dạy y thể
hội đại đạo.
*
Có vị Tăng hỏi:
- Ly tứ cú tuyệt
bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư đáp:
- Hôm nay ta mệt
nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏi Trí Tạng. Vị Tăng ấy
đến hỏi Trí Tạng.
Trí Tạng bảo:- Sao
không hỏi Hòa thượng?
Tăng đáp:- Hòa
thượng dạy đến hỏi Thầy.
Trí Tạng hỏi:
- Hôm nay tôi đau
đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynh Hải.
Tăng đến hỏi Hoài
Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũng chẳng hội.
Tăng trở lại trình
Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầu hắc.
*
Cư sĩ Long Uẩn đến
hỏi:
- Nước không gân
xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý này thế nào?
Sư đáp:- Trong ấy
không nước cũng không thuyền, nói gì là gân xương?
Uẩn bảo:- Người
không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìn lên!
Sư liền nhìn thẳng
xuống.
Uẩn nói:- Một cây
đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sư liền nhìn thẳng
lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng. Uẩn theo sau thưa:- Vừa
rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Một đêm, Trí Tạng,
Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sư hỏi:- Ngay bây
giờ nên làm gì?
Trí Tạng thưa:- Nên
cúng dường.
Hoài Hải thưa:-
Nên tu hành.
Phổ Nguyện phủi
áo ra đi.
Sư bảo:- Kinh vào
Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyện vượt ngoài sự vật.
*
Hoài Hải hỏi:-
Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sư đáp:- Chính là
chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sư lại hỏi Hoài
Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
Hoài Hải dựng
đứng cây phất tử.
Sư bảo:- Chỉ thế
thôi hay còn gì khác?
Hoài Hải ném cây
phất tử xuống.
*
Tăng hỏi:- Thế
nào được hiệp đạo?
Sư đáp:- Ta sớm
chẳng hiệp đạo.
Tăng hỏi:- Thế
nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sư liền đánh và
nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽ cười ta.
*
Ðặng Ẩn Phong từ
biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
Ẩn Phong thưa:- Ði
đến Thạch Ðầu.
- Ðường Thạch Ðầu
trơn.
- Có cây gậy tùy
thân, gặp trường thì đùa.
Ẩn Phong vừa đi
đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền một vòng, dựng tích trượng
động đất một tiếng, hỏi:
- Ấy là tông chỉ
gì?
Thạch Ðầu nói:-
Trời xanh! trời xanh!
Ẩn Phong không đáp
được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươi nên đi lại
bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi "hư! hư!"
Ẩn Phong lại đi
đến Thạch Ðầu làm như trước.
Thạch Ðầu bèn: Hư!
hư!
Ẩn Phong không đáp
được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Ta đã nói với
ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Có vị Giảng sư đến
hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sư hỏi lại:- Tọa
chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôi giảng được
hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâu không phải
là sư tử con?
- Không dám.
Sư thốt ra tiếng:
Hư! hư!
Giảng sư nói:- Ðây
là pháp.
- Là pháp gì?
- Pháp sư tử ra
khỏi hang.
Sư bèn im lặng.
Giảng sư nói:- Ðây
cũng là pháp.
- Là pháp gì?
- Pháp sư tử ở
trong hang.
- Không ra không
vào là pháp gì?
Giảng sư không đáp
được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủ tọa!
Giảng sư xoay đầu
lại.
Sư hỏi:- Là pháp
gì?
Giảng sư cũng
không đáp được.
Sư bảo:- Ông thầy
độn căn.
*
Một hôm Sư dạy
chúng:
- Ðạo không dụng
tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâm sanh tử, tạo
tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốn hội thẳng đạo ấy,
tâm bình thường là đạo. Sao gọi là tâm bình thường? -Không tạo
tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm
thánh. Kinh nói: "Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh
thánh hiền, là hạnh Bồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm,
ứng cơ tiếp vật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến
diệu dụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phải
vậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tận
đăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tên đều là
tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm là cội gốc của
muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồn nên hiệu là
Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả pháp đều đồng thuần nhất
không lẫn lộn.
Nếu ở trong giáo
môn được tùy thời tự tại thì dựng lập pháp giới trọn là pháp
giới, lập chân như là chân như, lập lý tất cả pháp trọn là
lý, lập sự tất cả pháp trọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo,
sự lý không khác, toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng,
đều do xoay lại của tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có,
mà bao nhiêu mặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì
có, mà bao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượng
thì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nói đạo
lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêu các
thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được, dẹp hết
cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọn là nhà mình,
chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân, thảy đều là thể
của nhà mình.
Nếu chẳng vậy,
lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phật pháp, các pháp tức
là giải thoát, giải thoát tức là chân như, các pháp không
ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảy là dụng bất tư nghì, không
đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗ chỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là
năng nhân, có trí tuệ khéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho
tất cả chúng sanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không
v.v... tình chấp phàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển
bánh xe không gì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại,
sự lý đều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳng
để dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh không diệt.
Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuất triền gọi là
Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm, hay lớn hay nhỏ, hay
vuông hay tròn, hợp vật hiện hình như trăng trong nước, vận dụng
mênh mông, không lập mầm gốc chẳng hết hữu vi, không trụ vô
vi. Hữu vi là dụng của vô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi,
chẳng trụ chỗ nương, nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa
tâm sanh diệt, nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng
soi vật tượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấp
pháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.
Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanh văn tai nghe
Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễu đạt không hai gọi
là bình đẳng tánh. Tánh không có khác, dụng thì chẳng đồng. Tại
mê là thức, tại ngộ là trí. Thuận lý là ngộ, theo sự là mê.
Mê tức là mê bản tâm mình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen
ngộ là hằng ngộ chẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc
lên không trở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chung
cùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liền trừ
vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháp tánh sẵn
có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồi tức có chấp
trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệp đạo, tùy duyên qua
ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnh huân thêm, nhóm nơi tịnh
nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳng thông.
Ðệ tử của Sư được
nhập thất (được vào thiền thất, là đã ngộ đạo) có đến tám
mươi bốn vị, mỗi người làm chủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðời Ðường niên
hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảng tháng giêng, Sư lên
núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hành trong rừng thấy chỗ hang
động bằng phẳng, bèn bảo thị giả:
- Thân cũ mục của
ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong, Sư trở về.
Ðến ngày mùng bốn
tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồi kiết già nhập
diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươi tuổi hạ.
Sau vua sắc ban
hiệu Ðại Tịch.
] |