THIỀN SƯ TRUNG HOA

TẬP MỘT

H.T THÍCH THANH TỪ

ÐỜI THỨ BA SAU LỤC TỔ

A. PHÁI HÀNH TƯ

            I.- ÐỆ TỬ THIỀN SƯ HY THIÊN (có 21 vị)

             1- Thiền sư Duy Nghiễm (Dược Sơn)

             2- Thiền sư Thiên Nhiên (Ðơn Hà)

             3- Thiền sư Ðạo Ngộ (Thiên Hoàng Tự)

             4- Thiền sư Bảo Thông (Ðại Ðiên)

             5- Thiền sư Thị Lợi

             6- Thiền sư Huệ Lãng

             7- Thiền sư Chấn Lãng

             8- Thiền sư Ðại Xuyên

             9- Thiền sư Thạch Lâu

            10- Thiền sư Phật-đà

            11- Thiền sư Hoa Lâm

            12- Thiền sư Tỳ Quảng

            13- Thiền sư Thủy Không

            14- Thiền sư Bảo Thông

            15- Thiền sư Ðại Biện

            16- Thiền sư Chữ Kính      

            17- Thiền sư Ðạo Tiên

            18- Thiền sư Thường Thanh

            19- Thiền sư Túy Thạch

            20- Thiền sư Thương Lãnh

            21- Thiền sư Nghĩa Hưng

*

9. THIỀN SƯ DUY NGHIỄM

Dược Sơn - (751-834)

Sư họ Hàn, quê ở Ráng Châu. Năm mười bảy tuổi, Sư theo Thiền sư Huệ Chiếu ở Tây Sơn Triều Dương xuất gia. Ðời Ðường niên hiệu Ðại Lịch thứ tám (774 T.L.) Sư thọ đại giới nơi Luật sư Hy Tháo ở Hoành Nhạc. Sư học thông kinh luận, nghiêm trì giới luật. Một hôm, Sư tự than:

- Ðại trượng phu phải rời pháp tự tịnh, đâu thể theo việc vụn vặt, làm hạnh áo khăn này.      

Sư tìm đến Thiền sư Hy Thiên (Thạch Ðầu) hỏi:

- Ðối Tam thừa mười hai phần giáo, con còn hiểu biết thô sơ, đến như thường nghe phương Nam nói "chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật", thật con mù tịt. Cúi mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy.

Thiền sư Hy Thiên bảo:

- Thế ấy cũng chẳng được, không thế ấy cũng chẳng được, thế ấy không thế ấy đều chẳng được, ngươi làm sao?

Sư mờ tịt không hiểu.

Thiền sư Hy Thiên bảo:

- Nhân duyên của ngươi không phải ở đây, hãy đến chỗ Mã Ðại sư (Ðạo Nhất).

Sư vâng lệnh đến yết kiến Thiền sư Ðạo Nhất (Mã Tổ). Sư thưa lại câu đã thưa với Thiền sư Hy Thiên.

Thiền sư Ðạo Nhất bảo:

- Ta có khi dạy y nhướng mày chớp mắt, có khi không dạy y nhướng mày chớp mắt; có khi nhướng mày chớp mắt là phải, có khi nhướng mày chớp mắt là không phải, ngươi làm sao?

Ngay câu nói này, Sư liền khế ngộ, bèn lễ bái.

Thiền sư Ðạo Nhất hỏi:- Ngươi thấy đạo lý gì lễ bái?

Sư thưa:- Con ở chỗ Thạch Ðầu như con muỗi đậu trên trâu sắt.

Thiền sư Ðạo Nhất bảo:- Ngươi đã biết như thế, tự khéo gìn giữ.

Sư ở đây hầu hạ ba năm.

Một hôm Thiền sư Ðạo Nhất hỏi:- Ngày gần đây chỗ thấy của ngươi thế nào?

Sư thưa:- Da mỏng da dày đều rớt sạch, chỉ có một chân thật.

Thiền sư Ðạo Nhất bảo:

- Sở đắc của ngươi đã hợp với tâm thể, khắp hết tứ chi. Ðã được như thế, nên đem ba cật tre cột da bụng, tùy chỗ ở núi đi.

Sư thưa:- Con là người gì dám nói ở núi?

Thiền sư Ðạo Nhất bảo:

- Chẳng phải vậy, chưa có thường đi mà chẳng đứng, chưa có thường đứng mà chẳng đi, muốn lợi ích không chỗ lợi ích, muốn làm không chỗ làm, nên tạo thuyền bè, không nên ở đây lâu.

Sư từ giã Mã Tổ trở về Thạch Ðầu.

*

Một hôm Sư ngồi trên cục đá, Thạch Ðầu trông thấy hỏi:

- Ngươi ở đây làm gì?

Sư thưa:- Tất cả chẳng làm.

- Tại sao ngồi yên?

- Nếu ngồi yên tức làm.

- Ngươi nói chẳng làm, chẳng làm cái gì?

- Ngàn thánh cũng không biết.

Thạch Ðầu dùng kệ khen:

            Tùng lai cộng trụ bất tri danh

            Nhậm vận tương tương chỉ ma hành

            Tự cổ thượng hiền du bất thức

            Tạo thứ phàm lưu khởi khả minh.

Dịch:

            Chung ở từ lâu chẳng biết chi

            Lặng lẽ theo nhau chỉ thế đi

            Thượng hiền từ trước còn chẳng biết

            Huống bọn phàm phu đâu dễ tri.

Thạch Ðầu dạy:- Nói năng động dụng chớ giao thiệp.

Sư thưa:- Chẳng nói năng động dụng cũng chớ giao thiệp.   

- Ta trong ấy mũi kim mảnh bụi chẳng lọt vào.

- Con trong ấy như trồng hoa trên đá.

Thạch Ðầu ấn khả.

*

Sau Sư đến ở Dược Sơn Lễ Châu, đồ chúng theo học rất đông. Một hôm, Sư ngồi, Ðạo Ngô, Vân Nham đứng hầu. Sư chỉ hai cây, một tươi, một khô đứng trên núi, hỏi Ðạo Ngô:

- Khô là phải hay tươi là phải?

Ðạo Ngô thưa:- Tươi là phải.

Sư bảo:- Sáng tỏ tất cả chỗ, quang minh xán lạn.

Sư lại hỏi Vân Nham:- Khô là phải hay tươi là phải?

Vân Nham thưa:- Khô là phải.

Sư bảo:- Sáng tỏ tất cả chỗ, thôi dạy khô lạt.

Chợt Sa-di Cao đến. Sư hỏi:- Khô là phải hay tươi là phải?

Sa-di Cao thưa:

- Khô là từ nơi khác mà khô, tươi là từ nơi khác mà tươi. Sư nhìn Ðạo Ngô, Vân Nham bảo:

- Chẳng phải, chẳng phải.

*

Viện chủ thưa:- Ðánh chuông rồi, thỉnh Hòa thượng thượng đường.

Sư bảo:- Ông bưng giùm bát cho tôi.

- Hòa thượng không tay từ bao giờ?

- Ông chỉ là uổng mặc ca-sa.

- Con chỉ là thế, Hòa thượng thì sao?

- Ta không quyến thuộc ấy.

*

Thấy thầy Tri viên trồng rau, Sư bảo:

- Trồng thì không ngăn ngươi trồng, chớ cho nó mọc rễ.

Thầy Tri viên thưa: - Không cho mọc rễ thì đại chúng lấy gì ăn?

Sư bảo:- Ngươi có miệng sao?

Thầy Tri viên không đáp được.

*

Có vị Tăng hỏi:

- Tổ sư chưa đến nước này (Trung Hoa), nước này có ý Tổ sư chăng?        

Sư đáp:- Có.

- Ðã có ý Tổ sư, lại đến làm gì?

- Bởi có, cho nên đến.

*

Sư xem kinh, có vị Tăng thấy, hỏi:

- Hòa thượng bình thường không cho chúng con xem kinh, vì sao Hòa thượng lại xem?

Sư đáp:- Ta xem chỉ để che mắt.

- Chúng con học theo Hòa thượng được chăng?

- Nếu các ngươi xem thì da trâu cũng lủng.

*

Thích sử Lý Tường ở Lãng Châu, nghe danh Sư, nhiều phen sai người đến thỉnh mà Sư không đi. Ông đích thân lên núi yết kiến Sư. Sư cầm quyển kinh xem không nhìn lại. Thị giả bạch:

- Thái thú đến đây!

Lý Tường tánh nóng nảy nói:- Thấy mặt không bằng nghe danh.

Sư gọi:- Thái thú!

Lý Tường:- Dạ!

Sư bảo:- Sao lại quí lỗ tai mà khinh con mắt?

Lý Tường chấp tay xin lỗi, rồi hỏi:- Thế nào là đạo?

Sư lấy tay chỉ trên, chỉ dưới, hỏi:- Hội chăng?

Tường thưa:- Chẳng hội.

Sư bảo:- Mây ở trời xanh, nước trong bình. (Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.)

Lý Tường vui mừng thỏa thích làm lễ, trình một bài kệ:

            Luyện đắc thân hình tợ nhạn hình

            Thiên châu tùng hạ lưỡng hàm kinh

            Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết

            Vân tại thanh thiên thủy tại bình.

Dịch:

            Luyện được thân hình giống nhạn hình

            Dưới tùng ngàn gốc hai hòm kinh

            Ta tìm hỏi đạo không lời khác

            Mây ở trời xanh, nước trong bình.

Tường lại hỏi:- Thế nào là giới định tuệ?

Sư bảo:- Bần đạo trong ấy không có gia cụ nhàn này.

Lý Tường không lường nổi huyền chỉ.

Sư lại bảo:- Thái thú muốn gìn giữ được việc này, cần phải tiến lên ngọn núi cao chót vót mà ngồi, xuống tận đáy biển sâu mà đi, việc trong khuê các nếu bỏ chẳng được bèn là lủng chảy.

*

Sư thượng đường dạy chúng:       

- Tổ sư chỉ dạy bảo hộ, nếu tham sân khởi lên cần phải phòng ngự, chớ cho khởi dậy. Các ngươi muốn biết cây khô ở Thạch Ðầu cần phải gánh vác, trọn không có cành lá. Tuy nhiên như thế, lại phải tự xem, không được bặt ngôn ngữ. Nay ta vì các ngươi nói ngôn ngữ ấy để hiển bày không ngôn ngữ, cái này xưa nay không tướng mạo tai mắt...

*

Một hôm Sư lên núi đi kinh hành, chợt mây tan thấy trăng sáng, Sư cười to một tiếng, vang xa gần chín mươi dặm. Dân chúng ở xa nghe tiếng, hôm sau tìm đến hỏi Tăng chúng. Tăng chúng bảo:

- Ðó là tiếng của Hòa thượng đêm qua ở trên núi cười.

Lý Tường nghe việc này lại làm bài thơ tặng:

            Tuyển đắc u cư hiệp dã tình

            Chung niên vô tống diệc vô nghinh

            Hữu thời trực thướng cô phong đảnh

            Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh.        

Dịch:

            Chọn nơi xa vắng hợp lòng quê

            Năm tròn mặc khách đến hay về

            Có khi tiến thẳng lên đảnh núi

            Mây tan trăng hiện tiếng cười hề!

*

Ðời Ðường niên hiệu Thái Hòa, năm thứ tám (834 T.L.) tháng hai, sắp thị tịch, Sư kêu to:

Pháp đường ngã! Pháp đường ngã!

Ðại chúng đều mang cột đến chống.

Sư khoát tay bảo:- Các ngươi không hiểu ý ta.

Sư bèn từ giã chúng thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi tuổi hạ.

Vua sắc phong là Hoàng Ðạo Ðại sư, tháp hiệu là Hóa Thành.

*

10. THIỀN SƯ THIÊN NHIÊN

Ðơn Hà - (738 - 824)

Không biết Sư quê quán ở đâu, chỉ biết Sư trước học Nho đi vào Trường An ứng cử, dừng nghỉ ở nhà trọ, chợt mộng thấy hào quang trắng đầy nhà. Người chiếm mộng đoán: "điềm hiểu Không". Gặp một Thiền khách hỏi:

- Nhân giả đi đâu?

Sư đáp:- Ði thi làm quan.

- Thi làm quan đâu bằng thi làm Phật?

- Thi làm Phật phải đến chỗ nào?

- Hiện nay ở Giang Tây có Mã Ðại sư ra đời, là trường thi làm Phật, nhân giả nên đến đó.

Sư bỏ thi, tìm đến Giang Tây ra mắt Mã Ðại sư (Ðạo Nhất). Vừa thấy Mã Ðại sư, Sư bèn lấy tay giở chiếc khăn trên đầu.

Mã Ðại sư nhìn giây lâu bảo:- Nam Nhạc Thạch Ðầu là thầy của ngươi.

Sư từ giã Mã Ðại sư đi sang Thạch Ðầu.

Ðến Thạch Ðầu, Sư cũng làm giống như ở Mã Ðại sư.

Thạch Ðầu bảo:- Ra nhà đi.

Sư lễ tạ xong, vào phòng cư sĩ, luân phiên làm bếp ngót ba năm.

*

Một hôm Thạch Ðầu bảo chúng:- Ngày mai cắt cỏ ở trước điện Phật.

Sáng hôm sau, đại chúng mỗi người cầm liềm cầm cuốc đến trước chùa làm cỏ. Chỉ riêng Sư lấy thau múc nước gội đầu, đến quì gối trước Hòa thượng. Thạch Ðầu thấy thế cười, liền cạo tóc cho Sư. Cạo xong Thạch Ðầu lại vì Sư nói giới. Sư bịt tai ra đi.

Sư trở lại Giang Tây yết kiến Mã Ðại sư. Chưa lễ ra mắt, Sư đi thẳng về tăng đường trèo lên cổ tượng Thánh tăng ngồi. Ðại chúng kinh ngạc chạy báo cho Mã Ðại sư hay. Mã Ðại sư đích thân vào tăng đường trông thấy bèn nói:

- Con ta, Thiên Nhiên.

Sư bèn bước xuống đất lễ bái, thưa:- Cảm tạ Thầy ban cho pháp hiệu.

Mã Ðại sư hỏi:- Từ đâu đến?

Sư thưa:- Từ Thạch Ðầu đến.

- Ðường Thạch Ðầu trơn, ngươi có té chăng?

- Nếu có trợt té thì chẳng đến đây.

*

Từ biệt Mã Tổ, Sư đi dọc đường gặp một ông già dắt một đứa bé.

Sư hỏi:- Ông nhà ở đâu?

Ông già đáp: - Trên là trời dưới là đất.

Sư bảo:- Chợt gặp trời đổ đất sụp thì sao?

Ông già đáp: - Trời xanh! Trời xanh!

Ðứa bé: hư! một tiếng.

Sư bảo:- Không phải cha này chẳng sanh được đứa con kia.

Ông già dắt đứa bé vào núi mất. 

*

Sư đi du phương, đến núi Thiên Thai, chót Hoa Ðảnh dừng ở ba năm, sau đó, Sư viếng những nơi như Cảnh Sơn yết kiến Thiền sư Quốc Nhất. Ðời Ðường khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (806-821 T.L.) Sư đến Lạc Kinh Long Môn Hương Sơn làm bạn với Hòa thượng Phục Ngưu. Sư lại đến chùa Huệ Lâm, gặp lúc trời đại hàn, Sư bèn thỉnh tượng Phật gỗ đốt để hơ, Viện chủ Hướng trông thấy quở:

- Sao đốt tượng Phật của tôi?       

Sư lấy gậy bới tro nói:- Tôi thiêu để lấy xá-lợi.

Viện chủ bảo:- Phật gỗ làm gì có xá-lợi.

Sư nói:- Ðã không có xá-lợi thì thỉnh thêm hai vị nữa thiêu.

Viện chủ nghe câu nói này tất cả chấp đều tan vỡ.    

*

Một hôm, Sư đến yết kiến Quốc sư Huệ Trung, trước hỏi thị giả:

- Quốc sư có ở nhà chăng?

Thị giả bảo:- Ở nhà thì ở mà không thấy khách.

Sư bảo:- Rất sâu xa thay!

Thị giả bảo:- Mắt Phật cũng nhìn chẳng thấy.

Sư khen:- Rồng sanh rồng con, phụng sanh phụng con.

Quốc sư ngủ dậy, thị giả thuật lại, Quốc sư đánh thị giả hai chục gậy đuổi ra.     

Sư nghe việc ấy bèn nói:- Không lầm là Nam Dương Quốc sư.

*

Hôm sau, Sư lại đến yết kiến Quốc sư, thấy Quốc sư, Sư bèn trải tọa cụ. Quốc sư bảo:  

- Chẳng dùng, chẳng dùng.

Sư bước lui.

Quốc sư bảo:- Như thế, như thế.

Sư tiến lại trước.

Quốc sư bảo: - Chẳng phải, chẳng phải.

Sư đi quanh Quốc sư một vòng rồi lui ra.           

Quốc sư bảo:- Cách Phật đã xa người nhiều lười biếng, ba mươi năm sau tìm kẻ này lại khó được.

*

Sư đến thăm cư sĩ Long Uẩn, thấy con gái Long Uẩn là Linh Chiếu đang rửa rau, Sư hỏi:

- Cư sĩ có nhà chăng?

Linh Chiếu buông rổ rau xuống, đứng khoanh tay.     

Sư lại hỏi:- Cư sĩ có nhà chăng?

Linh Chiếu bèn bưng rổ rau lên đi thẳng.

Sư bèn trở về. Chốc lát sau, Long Uẩn về. Linh Chiếu đem việc rồi thuật lại. Long Uẩn hỏi:

- Ðơn Hà ở đâu?

Linh Chiếu thưa:- Ðã về.

Long Uẩn bảo:- Con lấy đất đỏ nặn trâu.

Lại một hôm, Sư đến thăm Long Uẩn, vừa đến cửa gặp nhau.

Sư hỏi:- Cư sĩ có nhà chăng?        

Long Uẩn đáp:- Ðói chẳng chọn thức ăn.          

Sư lại hỏi:- Ông Long có nhà chăng?

Long Uẩn đáp:- Trời xanh! trời xanh!    

Nói xong Long Uẩn vào nhà.       

Sư nói:- Trời xanh! trời xanh!

Nói xong Sư trở về.

Hôm sau, Sư lại đến Long Uẩn, Sư bảo:

- Hôm qua thấy nhau đâu giống ngày nay.

Long Uẩn đáp:- Ðúng pháp nhắc lại việc hôm qua để làm con mắt quí.

- Chỉ như con mắt quí lại xem đến Long công chăng?

- Tôi ở trong con mắt của Thầy.

- Con mắt tôi chật hẹp chỗ nào an thân?

- Là con mắt gì chật? là thân nào an?

Sư thôi bỏ đi.

Long Uẩn nói:- Lại nói lấy một câu là được tròn lời này.

Sư vẫn không nói.

Long Uẩn lại nói:- Tựu trung một câu cũng không người nói được.

*

Ðời Ðường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba (808 T.L.) một hôm, Sư nằm ngang trên cầu Thiên Tân. Hội lưu thú là Trịnh Công ra đuổi mà Sư không dậy. Trịnh Công gạn hỏi duyên do. Sư chậm rãi đáp:

- Tăng vô sự.           

Trịnh Công lấy làm lạ, phát tâm dâng hai bó lụa và hai áo ngắn. Từ đây mỗi ngày, Trịnh Công thường dâng cúng gạo bún. Dân chúng ở kinh đô Lạc Dương đồng qui kính Sư.

*

Ðến niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười lăm (820 T.L.) vào mùa Xuân, Sư bảo đồ đệ:

- Ta nhớ suối rừng chỗ gởi thân ngày già.

Môn đệ sai Tề Tịnh Phương đến Nam Dương núi Ðơn Hà cất am cúng dường. Sư về núi Ðơn Hà khoảng ba năm, những người học đạo tìm đến tham học số thường đến ba trăm. Chúng xây cất thành viện lớn.

Sư thượng đường dạy chúng:

- Tất cả các ngươi đều phải bảo hộ một vật linh, chẳng phải các ngươi tạo tác danh mạo, lại nói gì là tiến cùng chẳng tiến. Ta ngày xưa yết kiến Hòa thượng Thạch Ðầu cũng chỉ dạy cần phải tự bảo hộ. Việc này không phải tự các ngươi nói bàn mà được. Tất cả mỗi người các ngươi đều tự có một chỗ đất ngồi, lại nghi cái gì? Thiền đâu phải là vật để các ngươi hiểu, đâu có Phật khá thành. Một chữ Phật hằng không thích nghe. Các ngươi tự xem, thiện xảo phương tiện từ bi hỉ xả chẳng phải từ ngoài được, chẳng dính một tấc vuông, thiện xảo là Văn-thù, phương tiện là Phổ Hiền. Các ngươi lại nghĩ tìm đuổi vật gì? Chẳng cần hằng cầu, chẳng rơi vào không. Học giả thời nay lăng xăng lộn xộn cho là tham thiền hỏi đạo. Ta dạo này không đạo có thể tu, không pháp có thể chứng, miếng ăn thức uống mỗi cái tự có phần, đâu cần phải nghi ngờ. Mỗi nơi mỗi chỗ có cái gì? Nếu biết Thích-ca tức là ông già phàm phu, các ngươi phải tự xem xét lấy. Chớ để một người mù dẫn đám mù kéo nhau rơi vào hầm lửa, đêm tối hai đường, màu sắc mập mờ. Vô sự trân trọng!

*

Có vị Tăng đến tham học, vừa tới chân núi gặp Sư. Tăng hỏi:

- Núi Ðơn Hà phải đi đường nào?

Sư chỉ núi bảo:- Chỗ xanh sâm sẩm.

Tăng thưa:- Chớ chỉ cái ấy là phải sao?

Sư bảo:- Thật sư tử con, một phen khêu động liền nhảy.

*

Sư hỏi vị Tăng:- Nghỉ ở đâu?

Tăng thưa:- Nghỉ dưới núi.

- Ăn cơm chỗ nào? Người đem cơm cho Xà-lê ăn có đủ mắt không?          

Tăng không đáp được.

*

Niên hiệu Trường Khánh năm thứ tư (824 T.L.) ngày hai mươi ba tháng sáu, Sư gọi đệ tử bảo:

- Lấy nước nóng tắm, ta sắp đi đây.

Tắm xong, Sư đội mũ mang giày cầm trượng, duỗi một chân chưa đến đất liền tịch, thọ tám mươi sáu tuổi. Vua sắc phong là Trí Thông Thiền sư, tháp hiệu Diệu Giác.

*

Sư có làm hai bài "Ngoạn Châu Ngâm", hiện còn lưu hành.

*

11. THIỀN SƯ ÐẠO NGỘ

Thiên Hoàng Tự - (747 - 806)

[Ðạo Ngộ có hai vị đồng thời đồng xứ, một vị ở chùa Thiên Hoàng đệ tử Thạch Ðầu, một vị ở chùa Thiên Vương đệ tử Mã Tổ. Truyền Ðăng Lục chép một vị là sai.]

Sư họ Trương, quê ở Ðông Dương, Vụ Châu. Lúc bé, Sư dung nghi thù đặc, không học mà biết. Năm mười bốn tuổi, Sư xin cha mẹ xuất gia, cha mẹ không cho, Sư thệ bớt ăn bớt uống, mỗi ngày ăn một bữa, dần dần thân thể tiều tụy. Cha mẹ bất đắc dĩ hứa cho Sư xuất gia.

Sư xuất gia với Ðạo Ðức ở Minh Châu. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư đến chùa Trúc Lâm ở Hoàng Châu thọ giới cụ túc. Sư tinh tấn tu hành giới luật trang nghiêm. Ban đêm, Sư thường ra gò mả ngồi thiền, không kể gió mưa, chẳng chút sợ sệt.

Sau, Sư đến Cảnh Sơn yết kiến Thiền sư Quốc Nhất, nhận được tâm pháp, ở lại đây hầu năm năm. Niên hiệu Ðại Lịch (766 T.L.), Sư đến Chung Lăng yết kiến Mã Tổ, chỉ được ấn định lại những chỗ hiểu trước, không có pháp gì khác. Sư dừng lại đây hai năm.

Sư lại đến yết kiến Thạch Ðầu. Ðến Thạch Ðầu, Sư hỏi:

- Lìa định tuệ lấy pháp gì dạy người?

Thạch Ðầu đáp:- Ta trong ấy không có nô tỳ, lìa cái gì?       

- Thế nào rõ được? 

- Ngươi chụp được hư không chăng?

- Thế ấy tức chẳng từ ngày nay đi.

- Chưa biết bao giờ ngươi từ bên này đến?

- Ðạo Ngộ chẳng phải người bên này.   

- Ta đã biết trước chỗ ngươi đến.

- Sao Thầy lấy tang vật vu khống người?

- Thân ngươi hiện tại.

- Tuy nhiên như thế, cứu kính làm sao chỉ dạy người sau?

- Ngươi nói ai là người sau?

Sư nhân đây đốn ngộ, đối với lời dạy của hai vị thầy trước tâm còn sở đắc, nơi đây sạch hết dấu vết.

*

Về sau Sư đến Kinh Châu ở núi Sài Tử Ðương Dương, học chúng theo học rất đông. Dân chúng trong đô thành nghe danh lũ lượt kéo đến tham vấn. Trong đô thành có chùa Thiên Hoàng là nơi danh lam, bị hỏa hoạn hư sập, thầy trụ trì là Linh Giám tìm cách xây cất lại. Linh Giám ước rằng: "Nếu được Thiền sư Ðạo Ngộ về làm Hóa chủ ở đây là phước lớn của ta." Lúc nửa đêm, Linh Giám đến cầu thỉnh Sư, Sư hoan hỉ nhận chịu. Từ đây về sau, Sư dựng trụ ở chùa Thiên Hoàng.

Có Bùi Công đến cúi đầu hỏi pháp, Sư trọn không đưa đón. Bùi Công càng kính trọng. Ðối với khách, Sư không phân biệt sang hèn đều ngồi chào họ.

Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là nói huyền diệu?  

Sư đáp:- Chớ bảo ta hiểu Phật pháp.

- Nỡ để học nhân đeo nghi mãi sao?

- Sao chẳng hỏi Lão tăng?

- Hỏi rồi.

- Ði! Không phải chỗ ngươi ngụ.

Ðời Ðường niên hiệu Nguyên Hòa (806 T.L.) tháng tư, Sư có chút bệnh bảo đệ tử báo trước ngày tịch. Ðến ngày cuối tháng, chúng họp nhau đến thăm bệnh Sư. Bỗng nhiên, Sư gọi: Ðiển tọa! Ðiển tọa lại gần, Sư bảo:

- Hội chăng?

Ðiển tọa thưa:

- Chẳng hội.

Sư cầm chiếc gối ném xuống đất, rồi từ biệt chúng thị tịch. Sư thọ sáu mươi tuổi, ba mươi lăm tuổi hạ.

* 

12. THIỀN SƯ BẢO THÔNG

(Ðại Ðiên)

Không biết quê quán và tên tộc của Sư. Chỉ biết buổi đầu Sư đến tham vấn Thạch Ðầu. Thạch Ðầu hỏi:

- Cái gì là tâm ngươi?

Sư thưa:- Nói năng là tâm.

Bị Thạch Ðầu nạt đuổi ra. 

Hơn một tuần, Sư lại đến hỏi:

- Trước đó đã chẳng phải, ngoại trừ cái này, gì là tâm?

Thạch Ðầu bảo:- Trừ bỏ nhướng mày chớp mắt, đem tâm lại!

- Không tâm có thể đem lại.

- Nguyên lai có tâm sao nói không tâm? Không tâm trọn đồng với không.

Nghe câu nói ấy, Sư đại ngộ.

*

Một hôm Sư đứng hầu, Thạch Ðầu hỏi:

- Ngươi là Tăng tham thiền hay là Tăng châu huyện?

Sư thưa:- Tăng tham thiền.

- Sao là thiền?

- Nhướng mày chớp mắt.

- Trừ ngoài nhướng mày chớp mắt, đem "bản lai diện mục" (bộ mặt thật xưa nay) của ngươi ra trình xem?

- Trừ ngoài nhướng mày chớp mắt, thỉnh Hòa thượng xem con!

- Ta trừ xong.

- Con trình Hòa thượng rồi.

- Ngươi đã đem trình, tâm ta thế nào?

- Chẳng khác Hòa thượng.

- Không quan hệ việc ngươi.

- Vốn không vật.     

- Ngươi cũng không vật.

- Ðã không vật tức vật thật.

- Vật thật không thể được. Tâm ngươi thấy lượng ý chỉ như vậy phải khéo hộ trì.

*

Sau, Sư từ biệt Thạch Ðầu đến Linh Sơn, Triều Châu, ở ẩn. Học chúng bốn phương qui tụ về khá đông.

Sư thượng đường dạy chúng:       
     - Phàm người học đạo phải biết bản tâm nhà mình, đem tâm chỉ nhau mới có thể thấy đạo. Thấy nhóm người hiện thời phần nhiều chỉ nhận nhướng mày chớp mắt, một nói một nín, chợt nhận ấn khả cho là tâm yếu, đây thật là chưa rõ. Nay ta vì các ngươi nói trắng ra, mỗi người phải lắng nghe nhận lấy: "Chỉ trừ bỏ tất cả vọng động tưởng niệm xét lường, tức chân tâm của ngươi." Tâm này cùng trần cảnh và khi kềm giữ lặng lẽ hoàn toàn không dính dấp. Tức tâm là Phật không đợi tu sửa. Vì cớ sao? Vì hợp cơ tùy chiếu, lặng lẽ tự dùng, tột chỗ dùng kia trọn không thể được. Bảo là diệu dụng chính là bản tâm, cần yếu hộ trì chớ nên dễ ngươi.

Có vị Tăng hỏi:- Trong kia, khi người thấy nhau thì thế nào?

Sư đáp:- Trước chẳng có trong kia.

- Trong kia thế nào?

- Chẳng hỏi câu ấy.

*

Hàn Văn Công hỏi Sư:- Hòa thượng tuổi được bao nhiêu?

Sư cầm xâu chuỗi giở lên bảo:- Hội chăng?

Văn Công thưa:- Chẳng hội.

Sư bảo:- Ngày đêm trăm lẻ tám.

Văn Công không hiểu trở về.

Hôm sau, Văn Công lại đến, vừa tới cửa gặp Thủ tọa, Văn Công thuật câu nói hôm qua của Sư, hỏi ý kiến thế nào? Thủ tọa vỗ răng ba cái. Văn Công vào trong gặp Sư, hỏi lại ý kiến hôm qua. Sư cũng vỗ răng ba cái.

Văn Công thưa:- Nguyên lai Phật pháp không hai thứ.

Sư hỏi:- Là đạo lý gì?

Văn Công thưa:- Vừa đến hỏi Thủ tọa cũng như thế.

Sư gọi Thủ tọa hỏi:- Phải ngươi đáp như thế chăng?

Thủ tọa thưa:- Phải.

Sư đánh đuổi ra.

Lại một hôm Văn Công đến bạch Sư:

- Ðệ tử ở quận châu nhiều việc, xin Thầy cho một câu tóm tắt hết Phật pháp.

Sư lặng thinh.

Văn Công mờ mịt.

Lúc ấy Tam Bình làm thị giả đứng hầu, bèn gõ giường thiền ba cái.

Sư hỏi:- Làm gì?

Tam Bình thưa:- Trước lấy định động, sau lấy trí nhổ.

Văn Công thưa:- Môn phong Hòa thượng cao vót, đệ tử từ bên thị giả được chỗ vào.

*

Có vị Tăng hỏi:- Biển khổ sóng to lấy gì làm thuyền bè?

Sư bảo:- Lấy cây làm thuyền bè.

- Thế nào được qua?

- Người mù nương kẻ mù trước, người câm nương kẻ câm trước.

Không biết Sư tịch lúc nào và nơi nào.

]

     
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM