ÐỜI THỨ BA SAU LỤC TỔ
B.
PHÁI HOÀI NHƯỢNG (tt)
19. THIỀN SƯ TRÍ THƯỜNG
(Qui
Tông)
Lúc còn tại gia
không rõ danh tánh và quê quán ở đâu. Người ta chỉ biết Sư đến
tham vấn Mã Tổ, được đại ngộ. Sau từ giã Mã Tổ, Sư đi tìm nơi an
trụ. Lúc Sư ra đi đồng thời với Sư Phổ Nguyện, Trí Kiên...
Sau, Sư an trụ tại
chùa Qui Tông, ở Lô Sơn.
Sư thượng đường
dạy chúng:
- Các bậc cổ đức
từ trước không phải chẳng hiểu biết, các ngài là bậc cao
thượng chẳng đồng hạng thường. Người thời nay không thể tự
thành tự lập, để tháng ngày qua suông. Các ngươi chớ lầm dụng
tâm, không ai thế được ngươi, cũng không có chỗ ngươi dụng tâm.
Chớ đến người khác tìm, từ trước chỉ nương người khác mà hiểu,
nói ra đều kẹt, ánh sáng không thấy suốt, chỉ vì trước mắt có
vật.
*
Có vị Tăng hỏi:-
Thế nào là huyền chỉ?
Sư đáp:- Không
người hay hội.
- Người hướng về
thì sao?
- Có hướng tức
trái.
- Người chẳng
hướng về thì sao?
- Ai cầu huyền chỉ?
- Ði! Không có chỗ
ngươi dụng tâm.
- Ðâu không có
cửa phương tiện khiến học nhân được vào?
- Quan Âm sức diệu
trí hay cứu khổ thế gian.
- Thế nào là sức
diệu trí Quan Âm?
Sư gõ cái đỉnh ba
tiếng, hỏi:- Ngươi nghe chăng?
- Nghe.
- Sao ta chẳng nghe?
Tăng không đáp
được.
Sư cầm gậy đuổi
ra.
*
Ðại Ngu đến từ
biệt Sư.
Sư hỏi:- Ði đâu?
- Ði các nơi học
ngũ vị thiền.
- Các nơi có ngũ
vị thiền, ta trong ấy chỉ có nhất vị thiền.
- Thế nào là nhất
vị thiền?
Sư liền
đánh.
Ðại Ngu bỗng nhiên
đại ngộ, thưa:- Ngưng, con hội rồi.
- Nói! nói!
Ðại Ngu vừa nghĩ
trả lời.
Sư lại đánh đuổi
ra.
*
Sau, Ðại Ngu đến
Hoàng Bá đem việc này thuật lại, Hoàng Bá thượng đường dạy
chúng:
- Mã đại sư sanh ra
tám mươi bốn vị thiện tri thức, hỏi đến cái tiêu chảy, tiêu
chảy đầy đất chỉ có Qui Tông.
*
Sư vào vườn hái
rau, bèn vẽ một vòng tròn quanh bụi rau, bảo chúng: "Không được
động đến cái này." Toàn chúng đều không dám động. Giây lâu, Sư
lại đến xem bụi rau, thấy còn nguyên, Sư bèn cầm gậy đuổi chúng
Tăng bảo: "Cả bọn mà không có một người trí tuệ."
*
Vân Nham đến tham
vấn, Sư làm thế kéo cung. Vân Nham giây lâu mới làm thế rút
kiếm. Sư bảo:
- Sao đến rất
chậm?
*
Có vị Tăng đến từ
giã, Sư bảo:
- Lại gần đây, ta
vì ngươi nói Phật pháp.
Tăng đến gần.
Sư bảo:
- Các ngươi trọn
còn việc, ngươi khi khác lại đến, trong ấy không người biết
ngươi. Trời lạnh trên đường khéo mà đi.
*
Sư thượng đường
bảo:
- Nay tôi muốn nói
thiền, các ngươi tất cả lại gần đây.
Ðại chúng tiến
đến gần.
Sư bảo:- Các ngươi
nghe, hạnh Quan Âm khéo hiện các nơi chốn.
Tăng hỏi:- Thế
nào là hạnh Quan Âm?
Sư khảy móng tay,
hỏi:- Các ngươi có nghe chăng?
- Nghe.
- Một bọn hướng
trong ấy tìm cái gì?
Sư cầm gậy đuổi
ra, rồi cười lớn, vào phương trượng.
*
Thích sử Giang Châu
là Lý Bột đến hỏi Sư:
- Trong kinh nói:
"hạt cải để trong núi Tu-di", Bột không nghi. Lại nói: "núi Tu-di
để trong hạt cải", phải là nói dối chăng?
Sư gạn lại:
- Người ta đồn Sử
quân đọc hết muôn quyển sách phải chăng?
- Ðúng vậy.
- Rờ từ đầu đến
chân bằng cây dừa lớn, muôn quyển sách để chỗ nào?
Lý Bột cúi đầu
lặng thinh.
*
Sư có làm bài
tụng:
Qui Tông
sự lý tuyệt
Nhật
luân chánh đương ngọ
Tự tại
như sư tử
Bất dữ
vật y cổ
Ðộc bộ
tứ sơn đảnh
Ưu du tam
đại lộ
Khiếm
khư phi cầm trụy
Tần
thân chúng tà bố
Cơ thụ
tiễn dị cập
Ảnh một
thủ nan phú
Thi
trương nhược công kỹ
Tài
tiễn như xích độ
Xảo lũ
vạn ban danh
Qui Tông
hườn tợ thổ
Ngữ mặc
âm thanh tuyệt
Chỉ diệu
tình nan thố
Khí cá
nhãn hườn huy
Thủ cá
nhĩ hườn cổ
Nhất
thốc phá tam quan
Phân
minh tiền hậu lộ
Khả lân
đại trượng phu
Tiên
thiên vi tâm tổ.
Dịch:
Qui Tông
sự lý bặt
Mặt
trời đứng giữa trưa
Tự tại
như sư tử
Chẳng
tựa nương nơi vật.
Riêng
lên chót bốn núi
Dạo chơi
ba đường lớn
Tiếng
gầm chim thú rớt
Hầm hừ
bọn tà kinh.
Máy
dựng tên dễ đến
Bóng
lặn tay khó che
Bày ra
dường thợ khéo
Cắt xén
tợ thước đo.
Chạm
khéo muôn thứ tên
Qui Tông
lại giống đất
Nói nín
tiếng tâm dứt
Diệu chỉ
tình khó dò.
Bỏ mắt
kia thành điếc
Lấy tai
nọ thành mù
Một dùi
phủng ba cổng
Rõ ràng
đường tên sau.
Ðáng
thương đại trượng phu!
Tiên
thiên là tâm tổ.
*
Sau khi Sư tịch, vua
ban sắc hiệu là Chí Chơn Thiền sư.
*
20. THIỀN SƯ PHÁP THƯỜNG
Ðại
Mai - (752 - 839)
Sư họ Trịnh, quê ở
Tương Dương, lúc nhỏ xuất gia theo thầy ở chùa Ngọc Tuyền, Kinh
Châu.
Ban sơ đến tham vấn
Mã Tổ, Sư hỏi:- Thế nào là Phật?
Mã Tổ đáp:- Tức
tâm là Phật.
Sư liền đại ngộ.
*
Ðời Ðường khoảng
niên hiệu Trinh Nguyên (785-805 T.L.), Sư đến núi Ðại Mai cách xa
huyện Ngân bảy mươi dặm, kết cỏ làm am, ở ẩn trong rừng mai.
Trong hội Diêm Quan
(chỗ giáo hóa của Thiền sư Tề An) có vị Tăng vào núi tìm cây
gậy, lạc đường đến am Sư. Vị Tăng hỏi:
- Hòa thượng ở
núi này được bao lâu?
Sư đáp:- Chỉ thấy
bốn núi xanh lại vàng.
- Ra núi đi đường
nào?
- Ði theo dòng
suối.
Vị Tăng về thuật
lại cho Thiền sư Tề An nghe, Tề An nói:
- Ta hồi ở chỗ Mã
Tổ từng thấy một vị Tăng, sau này không biết tin tức gì, có
phải là vị Tăng này chăng?
Tề An bèn sai vị
Tăng ấy đi thỉnh Sư xuống núi.
Sư có bài kệ đáp:
Tồi tàn
khô mộc ỷ hàn lâm
Kỷ độ
phùng xuân bất biến tâm
Tiều
khách ngộ chi du bất cố
Dĩnh
nhân na đắc khổ truy tầm.
Dịch:
Cây khô
gãy mục tựa rừng xanh
Mấy độ
xuân về chẳng đổi lòng
Tiều phu
trông thấy nào đoái nghĩ
Dĩnh
khách thôi thì chớ kiếm tìm.
*
Mã Tổ nghe Sư ở
núi bèn sai một vị Tăng đến thăm dò.
Tăng đến hỏi Sư:
- Hòa thượng gặp
Mã Tổ đã được cái gì? về ở núi này?
Sư đáp:
- Mã Tổ nói với
tôi: "tức tâm là Phật", tôi bèn đến ở núi này.
- Gần đây Mã Tổ
lại nói "phi tâm phi Phật".
- Ông già mê hoặc
người chưa có ngày xong, mặc ông phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết
"tức tâm là Phật".
Vị Tăng trở về
thưa lại Mã Tổ những lời Sư nói.
Mã Tổ nói với
đại chúng:- Ðại chúng! trái Mai đã chín.
Từ đây nhiều vị
Thiền khách đến tham vấn Sư.
*
Cư sĩ Long Uẩn muốn
thí nghiệm Sư, tìm đến phỏng vấn, vừa gặp Sư ông liền hỏi:
- Nghe danh Ðại Mai
đã lâu, chẳng biết trái Mai chín chưa?
Sư đáp:- Chín! Ông
nhằm chỗ nào mà hỏi?
- Trăm thứ vụn
vặt lẫn lộn.
Sư duỗi tay bảo:-
Trả hạt trái cho ta.
Cư sĩ im lặng.
Sư thượng đường
dạy chúng:
Tất cả các ngươi
mỗi người tự xoay tâm lại tận nơi gốc, chớ theo ngọn của nó.
Chỉ được gốc thì ngọn tự đến. Nếu muốn biết gốc cần rõ tâm
mình. Tâm này nguyên là cội gốc tất cả pháp thế gian và xuất
thế gian, tâm sanh thì các thứ pháp sanh, tâm diệt thì các thứ
pháp diệt. Tâm chẳng tựa tất cả thiện ác, mà sanh muôn pháp,
vốn tự như như.
*
Hiệp Sơn cùng Ðịnh
Sơn đồng đi đường cùng nói chuyện với nhau.
Ðịnh Sơn nói:- Trong
sanh tử, không Phật tức phi sanh tử.
Hiệp Sơn nói:-
Trong sanh tử, có Phật tức chẳng mê sanh tử.
Hai người lên núi
lễ vấn Sư. Hiệp Sơn đem câu nói của hai người thuật lại Sư nghe
và hỏi Sư:
- Chưa biết chỗ
thấy của hai người ai được thân (gần gũi)?
Sư bảo:- Một thân
một sơ.
- Ai được
thân?
- Hãy đi sáng mai
lại.
Sáng hôm sau Hiệp
Sơn lại đến hỏi Sư.
Sư bảo:- Người
thân thì chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng thân.
*
Bên núi Ðại Mai
có một pho đá, tương truyền là chỗ để thuốc của thần tiên. Một
đêm, Sư nằm mộng thấy có thần nhân đến bảo:
- Thầy không phải
phàm phu, trong pho đá có quyển sách thánh, người nhận được là
chủ cõi này, chẳng thế cũng là bực đế vương.
Ngay trong mộng Sư
đáp:
- Xưa Tăng Trù
không màng đến kinh tiên thì quyển kinh ấy tự mất. Tôi lấy
Niết-bàn tự vui, tuổi thọ kia đâu thể cùng trời đồng ư?
Thần nói:- Ðất
này là linh phủ, người thế tục ở đây liền sanh tai biến.
Sư bảo:- Tôi tạm
ẩn nơi làng Mai Úy, chẳng phải chiếm lâu.
*
Chợt một hôm, Sư
gọi đồ chúng đến bảo:
- Ðến không thể
kềm, đi không thể tìm.
Sư thản nhiên lặng
lẽ, nghe tiếng chuột kêu, Sư lại hỏi:
- Tức vật này
không phải vật khác, các ngươi phải khéo gìn giữ. Nay ta đi đây.
Nói xong, Sư thị
tịch, thọ tám mươi tám tuổi.
PHỤ.
Sau này Thiền sư
Trí Giác có làm bài tán Diên Thọ rằng:
Sư sơ
đắc đạo
Tức tâm
thị Phật
Tối hậu
thị đồ
Vật phi
tha vật
Cùng
vạn pháp nguyên
Triệt
thiên thánh cốt
Chân
hóa bất di
Hà
phòng xuất một
Dịch:
Sư mới
được đạo
Tức tâm
là Phật
Rốt sau
dạy chúng
Vật
chẳng vật khác.
Tột
nguồn muôn pháp
Thấu
xương muôn thánh
Hóa
thật chẳng dời
Ngại gì
còn mất.
*
21. THIỀN SƯ VÔ NGHIỆP
(760
- 821)
Sư họ Ðỗ, quê ở
Thượng Lạc, Thương Châu. Mẹ Sư họ Lý, một hôm bà nghe trong hư
không có tiếng nói "cho ở nhờ được chăng", bà liền biết có
thai. Sư lọt lòng mẹ nhằm lúc ban đêm, có hào quang sáng đầy
nhà. Ðược bốn năm tuổi mà Sư đi thì nhìn thẳng, ngồi thì tréo
kiết già.
Ðến chín tuổi, Sư
theo Thiền sư Chí Bổn ở chùa Khai Nguyên học kinh Ðại thừa. Năm
mười hai tuổi, Sư cạo tóc xuất gia. Hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ
túc với Luật sư U ở Nhưỡng Châu. Sư học luật Tứ phần vừa xong,
liền vì chúng diễn giảng. Sư giảng kinh Ðại Niết-bàn suốt mùa
hạ mùa đông chẳng dừng.
*
Nghe tiếng Mã Tổ,
Sư tìm đến yết kiến.
Mã Tổ thấy tướng
mạo Sư kỳ đặc, tiếng nói thanh như chuông, bèn bảo:
- Cao lớn nghiêm
chỉnh mà trong ấy không Phật.
Sư lễ bái, quì
thưa:
- Về kinh điển con
hiểu biết đơn sơ, thường nghe thiền môn "tức tâm là Phật" thật
chưa hiểu thấu.
- Chỉ cái tâm chưa
hiểu đó là phải, lại không có vật khác.
- Thế nào là mật
truyền tâm ấn của Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
- Ðại đức chính
đang ồn. Hãy đi! Khi khác lại.
Sư vừa đi, Mã Tổ
gọi:- Ðại đức!
Sư xoay đầu lại.
Mã Tổ hỏi:- Là
cái gì?
Sư liền lãnh hội,
lễ bái.
Mã Tổ bảo:- Kẻ
độn, lễ bái làm gì?
*
Sau khi nhận được
ý chỉ, Sư tìm đến Tào Khê lễ tháp Lục Tổ và đi viếng Lô Sơn,
Thiên Thai... các thánh tích. Sư lại đến Thanh Lương, dừng ở chùa
Kim Các tám năm để xem Ðại Tạng Kinh. Sau đó, Sư sang phương Nam
đến Tây Hà gặp Thích sử Ðổng Thúc Triền thỉnh Sư ở lại tịnh xá
Khai Nguyên.
Sư nói:- Duyên của
ta ở đây vậy.
Ở đây hơn hai mươi
năm, Sư xiển dương thiền học, các nơi đều nghe tiếng, người học
đạo tìm đến càng ngày càng đông. Ðáp những câu hỏi của người,
Sư thường nói câu:
- Chớ vọng tưởng.
*
Sư dạy chúng:
- Chư Phật chưa
từng ra đời, cũng không có một pháp dạy người, chỉ tùy bệnh cho
thuốc nên có mười hai phần giáo, như lấy chuối ngọt nhét thuốc
đắng vào, cốt gột sạch gốc nghiệp cho các ngươi.
Những vị cổ đức
xưa, sau khi hội được ý chỉ, bèn cất am tranh hoặc ở thất đá,
nấu cơm bằng lò bễ, như vậy trải hơn hai, ba mươi năm, danh lợi
không bận lòng, tiền của chẳng phiền nghĩ, quên cả người đời,
ở ẩn chốn núi rừng, vua chúa mời chẳng đến, chư hầu thỉnh cũng
chẳng đi. Ðâu như chúng ta ngày nay, tham danh mến lợi, chìm đắm
trong bụi đời, như bọn con buôn.
Bồ-tát học
Bát-nhã không được khinh mạn, như đi trên băng, như chạy trên
kiếm bén. Khi lâm chung một mảy tình phàm lượng thánh chưa sạch,
chút bụi tư niệm chưa quên liền tùy niệm thọ sanh, thọ thân năm
ấm nặng hay nhẹ, đến trong thai lừa bụng ngựa, hoặc gá sanh trong
địa ngục chịu vạc dầu sôi, đồng cháy quấn mình. Từ trước những
ghi nhớ nghĩ tưởng, hiểu biết trí tuệ thảy đều một thời mất
hết. Sau đó lại sanh làm trùng, kiến, làm muỗi mòng. Tuy là
nhân lành mà mắc quả dữ, lại mong điều gì?
Huynh đệ! chỉ vì
tham dục thành tánh nên hai mươi lăm cõi ràng buộc chân mình,
không biết chừng nào xong xuôi. Tổ sư xem chúng sanh cõi này
(Trung Hoa) có căn tánh Ðại thừa nên chỉ truyền tâm ấn để dạy
mê tình. Người được đó chẳng chọn phàm thánh, ngu hay trí, vả
lại nhiều rỗng, không bằng ít thật. Kẻ đại trượng phu hiện nay
thẳng đó liền hết sạch, chóng dứt muôn duyên, vượt khỏi dòng
sanh tử, ra ngoài tánh cách tầm thường. Linh quang riêng chiếu,
vật không thể buộc, vòi vọi rỡ rỡ riêng đi trong tam giới. Ðâu
chỉ thân cao trượng sáu vàng ròng chói sáng, cổ đeo vòng bóng,
tướng lưỡi rộng dài. "Nếu lấy sắc thấy ta là hành đạo tà." Dù
có quyến thuộc, chẳng cầu mà tự được, quả đất núi sông chẳng
ngại mắt sáng, được đại tổng trì, một nghe ngàn ngộ, trọn chẳng
cần giá trị bằng bữa ăn.
Các ngươi nếu
chẳng như thế, Tổ sư đến cõi này chẳng phải thường, có tổn mà
có ích. Có ích là trong ngàn người chọn lọc được một người, nửa
người là pháp khí. Có tổn, như đoạn trước đã nói. Theo kinh điển
ba thừa tu hành chẳng ngại được tứ quả tam hiền, có phần tiến
tu. Sở dĩ tiên đức nói: "Liễu tức nghiệp chướng xưa nay không,
chưa liễu trở lại đền nợ trước."
*
Vua Hiến Tông nhà
Ðường nhiều phen thỉnh Sư, Sư đều lấy lý do bệnh từ chối không
đến. Ðến Mục Tông lên ngôi lại sai Lưỡng nhai Tăng lục là Linh
Phụ v.v... đến thỉnh Sư. Những vị này đến làm lễ thưa:
- Hoàng thượng ân
chỉ phen này chẳng giống lúc thường, xin Hòa thượng hãy thuận
thiên tâm, không nên nói bệnh.
Sư cười chúm chím
nói:
- Bần đạo có đức
gì làm phiền Thế chủ. Mời các Ngài đi trước, tôi sẽ đi đường
riêng.
Sư bèn tắm gội,
đến nửa đêm bảo đệ tử Huệ Âm v.v...
- Các ngươi! tánh
thấy nghe hiểu biết cùng hư không đồng tuổi, chẳng sanh chẳng
diệt, tất cả cảnh giới vốn tự không lặng, không một pháp có
thật, người mê không hiểu bị cảnh làm lầm, trôi lăn không
cùng. Các ngươi phải biết, tâm tánh vốn tự có, chẳng phải do
tạo tác, ví như Kim cang không thể phá hoại. Tất cả pháp như
bóng như vang không có thật. Cho nên kinh nói: "Chỉ đây một việc
thật, ngoài hai thì chẳng chân." Thường hiểu tất cả không, không
một vật hợp tình, là chỗ chư Phật dụng tâm. Các ngươi cố gắng
thật hành!
Nói xong, Sư ngồi
kiết già thị tịch. Ngày thiêu Sư, có mây lành năm sắc, mùi hương
lạ khắp bốn phương, được xá-lợi như ngọc sáng. Sư thọ sáu mươi
hai tuổi, bốn mươi hai tuổi hạ. Vua sắc ban hiệu là Ðại Ðạt Quốc
sư, tháp hiệu Trừng Nguyên.
*
22. THIỀN SƯ ÐẠO NGỘ
Thiên Vương Ðạo Ngộ - (716 - 808)
Sư xuất gia lúc
mười lăm tuổi, đến hai mươi ba tuổi thọ giới cụ túc. Năm ba mươi
tuổi, Sư yết kiến Thạch Ðầu, được nhiều lần chỉ dạy mà Sư không
khế hội. Kế đó, Sư đến yết kiến Quốc sư Huệ Trung. Năm ba mươi
bốn tuổi, Sư cùng thị giả Ứng Chơn đến yết kiến Mã Tổ.
Mã Tổ bảo:
- Nhận biết tâm
mình xưa nay là Phật, chẳng thuộc thứ lớp, chẳng nhờ tu hành,
thể tự nó như, muôn đức tròn đầy. Ngay câu nói này Sư đại ngộ.
Mã Tổ dặn:- Nếu
trụ trì, ngươi chớ rời chỗ cũ.
*
Sư nhờ chỉ dạy
rồi, trở về Kinh Châu cất một am tranh ở ngoài thành không xa.
Tiết sử họ Lư đến
phỏng vấn Sư, Sư không đáp lễ. Tiết sử nổi nóng bắt Sư đem ném
xuống sông. Tiết sử về đến nha môn thấy khắp nhà đều phát
hỏa, lại nghe trong hư không có tiếng quở trách của thần Thiên
Vương. Tiết sử lễ tạ xin sám hối, phút chốc lửa tắt, nha môn
vẫn còn nguyên, Tiết sử đích thân đi đến bờ sông rước Sư, thấy
Sư ở trong nước mà không ướt y, ông càng thêm quí kính. Ông tạo
ngôi chùa Thiên Vương ở phía tây phủ, cúng dường cho Sư.
*
Sùng Tín hỏi:- Từ
trước việc truyền trao thế nào?
Sư đáp:- Chẳng
phải sáng, chỗ ngươi đến chẳng được.
- Con mắt ấy, mấy
người được đủ?
- Cỏ úa đổi thành
lâu đài.
*
Có vị Tăng hỏi:-
Thế nào là nói huyền diệu?
Sư bảo:- Chớ bảo
ta hiểu Phật pháp là tốt.
- Nỡ để học nhân
ôm nghi mãi sao?
- Sao chẳng hỏi
Lão tăng?
- Hiện nay đã
hỏi.
- Ði! không phải
chỗ ngươi nương tựa.
*
Thường ngày, Sư hay
nói: "Sống vui! sống vui!" Ðến khi sắp qui tịch, Sư kêu: "khổ!
khổ!" lại nói "Diêm vương đến bắt ta".
Viện chủ hỏi:
- Ðương thời Hòa
thượng bị Tiết sử ném xuống sông mà thần sắc chẳng động, hôm
nay sao lại thế ấy?
Sư đưa chiếc gối
lên, bảo:- Ngươi nói đương thời phải, hôm nay phải?
Viện chủ không
đáp được.
*
Sư nhập diệt ngày
mười ba tháng mười niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba (808 T.L.), thọ
tám mươi hai tuổi, sáu mươi ba tuổi hạ.
*
23. THIỀN SƯ LINH MẶC
(747
- 818)
Sư họ Tuyên, quê
ở Tỳ Lăng. Ban sơ Sư đến yết kiến Mã Tổ, nhân đây hiểu đạo
mới cạo tóc xuất gia thọ giới cụ túc.
Sư đến yết kiến
Thạch Ðầu, tự hứa nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp liền
đi. Nhưng khi thưa hỏi, Sư vẫn không khế hợp. Sư bèn ra đi. Thạch
Ðầu theo sau đến cửa ngoài, liền gọi:
- Xà-lê!
Sư xoay đầu lại.
Thạch Ðầu bảo:
- Từ sanh đến tử
chỉ là cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?
Sư nhân câu nói
này liền đại ngộ, dừng lại đây hai năm.
*
Ðời Ðường niên
hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785 T.L.), Sư vào núi Thiên Thai ở đạo
tràng Bạch Sa, lại đến Ngũ Duệ.
Có vị Tăng hỏi:-
Có vật gì lớn trùm trời đất?
Sư đáp:- Không
người biết được y.
- Lại có thể đục
giũa chăng?
- Ngươi thử hạ thủ
xem.
- Cái nấy trong
thiền môn, việc trước sau, thế nào?
- Ngươi nói trước
mắt, từ thành đến nay bao lâu?
- Học nhân chẳng
hội.
- Ta khoảng này
không có người hỏi.
- Hòa thượng đâu
không có chỗ tiếp người?
- Ðợi người cần
tiếp ta sẽ tiếp.
- Thỉnh Hòa thượng
tiếp.
- Ngươi thiếu thốn
chỗ nào?
- Làm sao được
không tâm?
- Dời non lấp biển
vẫn an nhiên lặng lẽ, động đất vẫn ngủ yên, đâu lay động được
y.
*
Niên hiệu Nguyên
Hòa năm thứ mười ba (818 T.L.), ngày hai mươi ba tháng ba, Sư tắm
gội xong, thắp hương ngồi ngay thẳng, bảo chúng:
- Pháp thân hoàn
toàn lặng lẽ, thị hiện có đến đi, ngàn thánh đồng nguồn, vạn
linh về một. Nay ta bọt tan đâu bởi hưng suy, không tự nhọc thân
phải giữ chánh niệm. Nếu tuân lời dạy này là đền ơn ta, bằng
cố trái lời chẳng phải con ta.
Có vị Tăng hỏi:-
Hòa thượng đi về đâu?
Sư bảo:- Không có
chỗ đi.
- Sao con chẳng
thấy?
- Chẳng phải chỗ
mắt thấy.
Nói xong, Sư an
nhiên thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, bốn mươi mốt tuổi hạ.
*
24. THIỀN SƯ DUY KHOAN
(755
- 817)
Sư họ Chúc, quê ở
Tín An, Cù Châu. Lúc mười ba tuổi Sư thấy người sát sanh, bất
nhẫn không nỡ ăn thịt, cầu xin xuất gia. Xuất gia rồi, lúc đầu
Sư học Luật, kế tập tu chỉ quán. Sau, Sư tìm đến yết kiến Mã Tổ,
nơi đây Sư ngộ được tâm yếu.
Ðời Ðường niên
hiệu Trinh Nguyên thứ sáu (790 T.L.), Sư đi du phương. Sau này, Sư
dừng ở chùa Thiếu Lâm tại Tung Sơn.
Có vị Tăng đến
hỏi:- Thế nào là đạo?
Sư đáp:- Núi rất
tốt.
- Con hỏi đạo, sao
Thầy nói núi tốt?
- Ngươi chỉ biết
núi tốt đâu từng đạt đạo?
*
Vị Tăng khác hỏi:-
Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp:- Có.
- Hòa thượng có
chăng?
- Ta không.
- Tất cả chúng
sanh đều có Phật tánh, tại sao riêng Hòa thượng lại không?
- Ta chẳng phải
tất cả chúng sanh.
- Ðã chẳng phải
chúng sanh, là Phật chăng?
- Chẳng phải Phật.
- Cứu kính là vật
gì?
- Cũng chẳng phải
vật.
- Có thể thấy, có
thể nghĩ chăng?
- Nghĩ đó chẳng
đến, bàn đó chẳng được. Cho nên nói: "Không thể nghĩ bàn."
*
Niên hiệu Nguyên
Hòa thứ tư (809 T.L.), vua Hiến Tông thỉnh Sư về kinh đô. Bạch Cư
Dị thường đến thăm hỏi Sư.
Bạch Cư Dị hỏi:-
Ðã nói Thiền sư sao lại thuyết pháp?
Sư đáp:
- Vô thượng
Bồ-đề, trùm nơi thân là Luật, nói ra miệng là Pháp, hành nơi
tâm là Thiền. Ứng dụng thì có ba, chỗ tột cùng chỉ có một. Ví
như sông Hồ, sông Hán, sông Hoài tùy chỗ đặt tên, tên tuy
chẳng phải một, mà tánh nước không hai. Luật tức là Pháp, Pháp
chẳng lìa Thiền, sao trong đó vọng khởi phân biệt?
- Ðã không phân
biệt lấy gì tu tâm?
- Tâm vốn không
tổn thương, tại sao cầu tu sửa? Không luận nhơ cùng sạch, tất cả
chớ khởi niệm.
- Nhơ tức không
nên niệm, sạch không niệm được sao?
- Như trong tròng
con mắt người, không thể dính một vật gì, mạt vàng tuy quí báu,
dính cũng thành bệnh.
- Không tu không
niệm thì đâu khác phàm phu?
- Phàm phu thì vô
minh, Nhị thừa thì chấp trước, lìa hai bệnh này gọi là chân tu.
Người chân tu không được chăm chú, không được quên lãng, chăm
chú thì gần chấp trước, quên lãng liền rơi vào vô minh. Ðây là
tâm yếu vậy.
*
Tăng hỏi:- Ðạo ở
chỗ nào?
Sư đáp:- Ở trước
mắt.
- Sao con không
thấy?
- Vì ngươi có ngã
nên không thấy.
- Con có ngã nên
không thấy, Hòa thượng thấy chăng?
- Có ngươi có ta
nên rồi cũng chẳng thấy.
- Không con không
Ngài lại thấy chăng?
- Không ngươi không
ta còn ai cần thấy?
*
Niên hiệu Nguyên
Hòa thứ mười một (817 T.L.), ngày ba mươi tháng hai, Sư thăng
đường thuyết pháp xong liền thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, hai
mươi chín tuổi hạ. Vua sắc ban hiệu là Ðại Triệt Thiền sư, tháp
hiệu Nguyên Hòa Chánh Chơn.
*
25. THIỀN SƯ NHƯ HỘI
(742
- 821)
Sư quê ở Thủy
Hưng, Khúc Giang. Ban sơ đến tham vấn Cảnh Sơn, sau mới đến yết
kiến Mã Tổ. Nơi Mã Tổ, Sư ngộ yếu chỉ Thiền tông.
Về sau, Sư trụ trì
Ðông Tự, học chúng rất đông đến nỗi nhà Tăng giường chõng gãy
vẹo, thời nhân gọi "hội giường gãy".
Mã Tổ tịch rồi, Sư
thường lo môn đồ lấy câu "tức tâm tức Phật" học thuộc lòng
tụng mãi. Vì thế Sư bảo: Nói Phật trụ ở đâu, mà sao "tức tâm".
Tâm như ông thợ vẽ, mà sao "tức Phật"? Sư bèn dạy chúng:
- Tâm chẳng phải
Phật, trí chẳng phải đạo. Kiếm rơi đã lâu, ngươi mới khắc dấu
thuyền.
*
Tướng quốc Thôi
Công Quần bị đổi ra Hồ Nam làm Quán sát sử, đến yết kiến Sư,
hỏi:
- Thầy lấy gì
được?
Sư đáp:- Thấy tánh
là được.
Ít lâu sau, Sư bị
bệnh con mắt. Thôi Công Quần ngạo rằng:
- Ðã nói thấy
tánh, tại sao con mắt như thế?
Sư bảo:- Thấy tánh
không phải do mắt, con mắt bệnh có hại gì?
Thôi Công Quần lễ
tạ sám hối.
*
Sư hỏi Nam Tuyền: -
Vừa rồi chỗ nào đến?
- Giang Tây.
- Ðem được hình Mã
đại sư đến chăng?
- Chỉ thế ấy.
- Sau lưng rồi.
Nam Tuyền không
đáp.
*
Ngưỡng Sơn (Huệ
Tịch) đến tham vấn.
Sư hỏi:- Ngươi
người ở đâu?
Ngưỡng Sơn thưa:-
Người Quảng Nam.
- Ta nghe ở Quảng
Nam có hạt minh châu trấn hải phải chăng?
- Phải.
- Hạt châu ấy thế
nào?
- Ba mươi thì ẩn,
rằm thì hiện.
- Lại đem đến được
chăng?
- Ðem đến được.
- Sao chẳng trình
tương tợ cho Lão tăng?
Ngưỡng Sơn khoanh
tay đến gần thưa:
- Vừa đến Qui Sơn
cũng bị đòi hạt châu này, bèn được không lời có thể đáp,
không lý có thể bày.
Sư khen:- Thật là
sư tử con rống rất giỏi!
Ngưỡng Sơn lễ bái.
*
Có người hỏi Sư:
- Con tính thỉnh Hòa
thượng khai đường (mở cửa giáo hóa) được chăng?
Sư đáp:- Ðợi đem
vật vùi trong hòn đá mà nóng thì được.
Vị ấy không thể
đáp.
*
Niên hiệu Trường
Khánh (821 T.L.), ngày mười chín tháng tám năm Quí Mão, Sư qui
tịch, thọ tám mươi tuổi. Vua sắc phong hiệu là Truyền Minh Ðại sư,
tháp hiệu Vĩnh Tế.
*
26. THIỀN SƯ BẢO TRIỆT
(Ma
Cốc)
Một hôm, theo Mã
Tổ đi dạo, Sư hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là Ðại
Niết-bàn?
Mã Tổ đáp:-
Gấp!
- Gấp cái gì?
- Xem nước.
*
Sư cùng Nam Tuyền,
Qui Tông đến yết kiến Cảnh Sơn, đi đường gặp một bà già. Sư
hỏi:
- Cảnh Sơn đi đường
nào bà?
Bà già đáp:- Ði
thẳng.
- Ðầu trước nước
sâu qua được chăng?
- Chẳng ướt gót
chân.
- Bờ trên lúa
trúng gai tốt, bờ dưới lúa trúng gai gầy?
- Thảy bị cua ăn
hết.
- Nếp thơm ngon.
- Hết mùi hơi.
- Bà ở chỗ nào?
- Chỉ ở trong ấy.
Ba người đồng vào
quán ngồi. Bà già nấu một bình trà, bưng ba chén chung đến
hỏi:
- Hòa thượng có
thần thông thì uống trà?
Ba người nhìn nhau
chưa nói câu nào.
Bà già liền bảo:-
Xem kẻ già này trình thần thông đây.
Nói xong bà cầm
chung nghiêng bình rót trà, rồi đi.
*
Sư cùng Ðơn Hà đi
dạo núi, thấy cá lội trong nước, Sư lấy tay chỉ. Ðơn Hà nói:
- Thiên nhiên!
Thiên nhiên!
Ðến hôm sau, Sư
hỏi Ðơn Hà:- Hôm qua ý thế nào?
Ðơn Hà nhảy tới
làm thế nằm.
Sư nói:- Trời xanh.
*
Sư cùng Sơn Hà đi
đến núi Ma Cốc. Sư hỏi:
- Tôi đến trong đó
trụ.
Ðơn Hà nói:- Trụ
tức lại trở về, có cái này không?
Sư nói:- Trân
trọng!
*
Có vị Tăng đến
hỏi:
- Mười hai phần
giáo con chẳng nghi. Thế nào ý Tổ sư từ Ấn Ðộ qua?
Sư bèn đứng dậy
lấy trượng xoay quanh thân một vòng, đứng một chân, bảo:
- Hội chăng?
Tăng thưa:- Không
hội.
Sư liền đánh.
*
Tăng hỏi:- Thế
nào là đại ý Phật pháp?
Sư lặng thinh.
*
Ðam Nguyên hỏi:-
Quan Âm mười hai mặt là phàm là thánh?
Sư đáp:- Là thánh.
Ðam Nguyên liền
đánh Sư một cái.
Sư bảo:- Biết ông
chẳng đến cảnh giới ấy.
*
27. THIỀN SƯ TỀ AN
Sư họ Lý, quê ở
quận Hải Môn. Khi Sư ra đời có hào quang chiếu đầy nhà, lại có
vị Tăng lạ đến nói: "Sứ giả dựng cờ vô thắng, xoay mặt trời
Phật soi trở lại, đâu không phải người này?" Lớn lên, Sư xuất
gia với Thiền sư Vâng Tông tại bản quận.
Sau, Sư nghe Mã Tổ
giáo hóa ở núi Cung Công, bèn tìm đến yết kiến. Mã Tổ thấy Sư
có tướng lạ liền thâu nhận và cho vào thất thầm dạy chánh
pháp.
*
Về sau, Sư trụ
viện Hải Xướng tại Diêm Quan Trấn Quốc ở Hàng Châu để hoằng
hóa. Thời nhân gọi là hội Diêm Quan.
Có vị Tăng đến
hỏi:- Thế nào là bản thân Phật Lô-xá-na?
Sư bảo:- Ðem cái
bình đồng kia đến cho ta.
Vị Tăng liền lấy
tịnh bình đem lại.
Sư bảo:- Ðem để
lại chỗ cũ.
Vị Tăng đem bình để
lại chỗ cũ rồi, bèn hỏi lại câu trước.
Sư bảo:- Phật xưa
đã quá khứ lâu rồi.
*
Có vị Giảng sư đến
tham vấn.
Sư hỏi:- Tọa chủ
chứa chất sự nghiệp gì?
Giảng sư đáp:-
Giảng kinh Hoa Nghiêm.
- Có mấy thứ pháp
giới?
- Nói rộng thì có
lớp lớp không cùng, nói lược có bốn thứ pháp giới.
Sư dựng đứng cây
phất tử, hỏi:
- Cái này là pháp
giới thứ mấy?
Giảng sư trầm ngâm
lựa lời để đáp.
Sư bảo:
- Suy mà biết, nghĩ
mà hiểu là kế sống nhà quỉ, ngọn đèn côi dưới trời quả nhiên
mất chiếu.
*
Có vị Tăng hỏi
Ðại Mai (Pháp Thường):
- Thế nào là ý
Tổ sư từ Ấn Ðộ qua?
Ðại Mai đáp: - Tổ
sư từ Ấn Ðộ qua không ý.
Sư nghe câu chuyện
này bèn nói: "Một cái quan tài, hai cái tử
thi."
*
Sư gọi thị giả:-
Ðem cái quạt tê ngưu lại đây.
Thị giả thưa:- Rách
rồi.
- Quạt đã rách,
trả con tê ngưu lại cho ta!
Thị giả không đáp
được.
*
Một hôm, Sư bảo
chúng:
- Hư không là
trống, Tu-di là dùi, người nào đánh được?
Chúng đều không
đáp được.
*
Có Thiền sư Pháp
Không đến thưa hỏi những nghĩa lý trong kinh, mỗi mỗi Sư đáp xong,
Sư bèn bảo:
- Từ Thiền sư lại
đến giờ, bần đạo thảy đều không được làm chủ nhân.
Pháp Không thưa:-
Thỉnh Hòa thượng làm chủ nhân lại.
Sư bảo:
- Ngày nay tối rồi
hãy về chỗ cũ nghỉ ngơi, đợi sáng mai sẽ đến.
Sáng sớm hôm sau,
Sư sai Sa-di đi mời Thiền sư Pháp Không. Pháp Không đến, Sư nhìn
Sa-di bảo:
- Bậy! Ông Sa-di
này không hiểu việc, dạy mời Thiền sư Pháp Không, lại mời cái
người giữ nhà đến!
Pháp Không chẳng
đáp được.
*
Viện chủ Pháp Hân
đến tham vấn.
Sư hỏi:- Ông là
ai?
- Pháp Hân.
- Tôi không biết
ông.
Pháp Hân không
đáp được.
*
Sau, Sư không bệnh
ngồi an nhiên thị tịch. Vua sắc phong hiệu Ngộ Không Thiền sư.
*
28. CƯ SĨ LONG UẨN
Ông người huyện
Hành Dương, Xung Châu, tự là Ðạo Huyền, gia thế chuyên nghiệp
Nho, đời sống rất thanh đạm, hiểu ngộ ít phần trần lao, quyết chí
cầu giải thoát.
Ðời Ðường niên
hiệu Trinh Nguyên năm đầu (785 T.L.), ông đến yết kiến Hòa
thượng Thạch Ðầu, hỏi:
- Chẳng cùng muôn
pháp làm bạn là người gì?
Thạch Ðầu lấy tay
bụm miệng ông. Ông bỗng nhiên tỉnh ngộ.
Một hôm Thạch Ðầu
hỏi:
- Từ ngày ông
thấy Lão tăng đến nay hằng ngày ông làm việc gì?
Ông thưa:
- Nếu hỏi việc
làm hằng ngày tức không có chỗ mở miệng.
Ông liền trình một
bài kệ:
Nhật
dụng sự vô biệt
Duy ngô
tự ngẫu hài
Ðầu đầu
phi thủ xả
Xứ xứ
vật tương oai
Châu tử
thùy vi hiệu
Khưu sơn
tuyệt điểm ai
Thần
thông tịnh diệu dụng
Vận
thủy cập ban sài.
Dịch:
Hằng
ngày không việc khác
Chỉ tôi
tự biết hay
Vật vật
chẳng bỏ lấy
Chỗ chỗ
nào trái bày
Ðỏ tía
gì làm hiệu
Núi gò
bặt trần ai
Thần
thông cùng diệu dụng
Gánh
nước bửa củi tài.
Thạch Ðầu hứa
khả, bảo:- Ông làm cư sĩ hay làm xuất gia?
Ông thưa:- Xin cho
con theo sở nguyện không cạo tóc xuất gia.
Ông đến tham vấn
Mã Tổ, hỏi:
- Chẳng cùng muôn
pháp làm bạn là người gì?
Mã Tổ bảo:
- Ðợi miệng ông
hút hết nước Giang Tây, ta sẽ nói với ông.
Ngay câu nói này,
ông ngộ được huyền chỉ. Ông dừng ở chỗ Mã Tổ hai năm.
*
Sau khi đốn ngộ,
ông về nhà lấy thuyền chở của cải đem đổ xuống sông Tương. Ông
chỉ cất một cái thất nhỏ ở tu hành. Có người con gái tên Linh
Chiếu thường theo hầu hạ, chuyên việc chẻ tre bện sáo bán nuôi
cha.
Ông có làm bài
kệ:
Hữu nam
bất thú
Hữu nữ
bất giá
Ðại gia
đoàn biến đầu
Cọng
thuyết vô sanh thoại.
Dịch:
Có trai
không cưới
Có gái
không gả
Cả nhà
chung hội họp
Ðồng
bàn lời vô sanh.
Ông nói năng lanh
lợi, các nơi đều nghe tiếng. Ông thường đến các chỗ giảng kinh
phát tâm tùy hỉ.
Có vị Sư giảng kinh
Kim Cang đến chỗ "vô ngã vô nhân". Ông bèn hỏi:
- Tọa chủ đã "vô
ngã vô nhân" (không ta không người), vậy ai giảng ai nghe?
Tọa chủ không đáp
được.
Ông nói:- Tuy tôi
là người tục cũng tin biết thô thiển.
Tọa chủ hỏi:- Theo
cư sĩ ý thế nào?
Ông bèn giải bằng
bài kệ:
Vô ngã
phục vô nhân
Tác ma
hữu sơ thân
Khuyến
quân hưu lịch tọa
Bất tợ
trực cầu chân
Kim Cang
Bát-nhã tánh
Ngoại
tuyệt nhất tim trần
Ngã văn
tịnh tín thọ
Tổng thị
giả danh trần.
Dịch:
Không
ngã lại không nhân
Làm gì
có thân sơ
Khuyên
ông đừng ngồi mãi
Ðâu
bằng thẳng cầu chân
Tánh Kim
Cang Bát-nhã
Chẳng
dính một mảy trần
Tôi nghe
với tin nhận
Thảy
đều giả danh trần.
Tọa chủ nghe kệ
rồi, vui vẻ khen ngợi:
- Chỗ cư sĩ đến
phần nhiều các bậc lão túc đã qua.
*
Ông đến viếng Ðơn
Hà. Ðơn Hà làm thế chạy.
Ông nói:- Vẫn là
thế phóng thân, thế nào là thế tần thân?
Ðơn Hà liền ngồi.
Ông lấy gậy vẽ
dưới đất chữ Thất.
Ðơn Hà vẽ đáp chữ
Nhất.
Ông nói:- Nhân
bảy thấy một, thấy một quên bảy.
Ðơn Hà đứng dậy
đi.
Ông gọi:- Hãy
ngồi nán một chút, vẫn còn câu thứ hai.
Ðơn Hà bảo: - Trong
ấy nói được sao?
Ông bèn khóc ra
đi.
*
Một hôm, ngồi
trong am, ông chợt nói:
- Khó khó mười tạ
dầu mè trên cây vuốt. (Nan nan thập thạch du ma thọ thượng than.)
Long bà đáp:
- Dễ dễ trên đầu
trăm cỏ ý Tổ sư. (Dị dị bách thảo đầu thượng Tổ sư ý.)
Linh Chiếu tiếp:
- Cũng chẳng khó
cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. (Dã bất nan, dã
bất dị, cơ lai khiết phạn khốn lai thùy.)
*
Ông ngồi hỏi Linh
Chiếu:
- Cổ nhân nói:
"sáng sáng đầu trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư" (minh minh bách thảo
đầu, minh minh Tổ sư ý) là sao?
Linh Chiếu thưa:
- Lớn lớn già già
thốt ra lời nói ấy. (Lão lão đại đại tác giá cá ngữ thoại.)
Ông hỏi:- Con thế
nào?
- Sáng sáng đầu
trăm cỏ, sáng sáng ý Tổ sư.
Ông bèn
cười.
*
Ông có làm bài
kệ:
Tâm như
cảnh diệc như
Vô thật
diệc vô hư
Hữu
diệc bất quản
Vô diệc
bất cư
Bất thị
Hiền Thánh
Liễu sự
phàm phu
Dị phục
dị
Tức thử
ngũ uẩn hữu chân trí
Thập
phương thế giới nhất thừa đồng
Vô
tướng pháp thân khởi hữu nhị
Nhược
xả phiền não nhập Bồ-đề
Bất tri
hà phương hữu Phật địa.
Dịch:
Tâm như
cảnh cũng như
Không
thật cũng không hư
Có cũng
chẳng quản
Không
cũng chẳng cư
Chẳng
phải hiền thánh
Xong
việc phàm phu
Dễ lại
dễ
Tức năm
uẩn này có chân trí
Thế
giới mười phương đồng một thừa
Pháp
thân không tướng nào có nhị
Nếu bỏ
phiền não vào Bồ-đề
Chẳng
biết nơi nào có Phật địa?
Lại có bài kệ:
Hộ sanh
tu thị sát
Sát tận
thủy an cư
Hội đắc
cá trung ý
Thiết
truyền thủy thượng phù.
Dịch:
Hộ sanh
cần phải giết
Giết
hết mới ở yên
Hiểu
được ý trong đó
Thuyền
sắt nổi phao phao.
*
Sắp tịch, ông bảo
Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra
xem vào thưa:
- Mặt trời đã
đúng ngọ, mà có nguyệt thực.
Ông ra cửa xem.
Linh Chiếu lên tòa
của ông ngồi kiết già chấp tay thị tịch.
Ông vào xem thấy
cười, nói:- Con gái ta lanh lợi quá!
Ông bèn chậm lại
bảy ngày sau.
*
Châu mục Vu Công
đến thăm bệnh ông.
Ông bảo:
- Chỉ mong các cái
có đều không, dè dặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian
đều như bóng vang.
Nói xong, ông nằm
gác đầu trên gối Vu Công mà thị tịch.
*
Tin ông tịch đưa về
nhà cho bà hay.
Bà nói:
- Con gái ngu si
với ông già vô tri, không báo tin mà đi, sao đành vậy?
Bà ra báo tin cho
con trai đang làm ngoài đồng. Bà nói:
- Long công với
Linh Chiếu đi rồi con!
Người con trai đang
bừa đáp:- Dạ!
Rồi lặng thinh
giây lâu bèn đứng mà tịch.
Bà nói:- Thằng
này sao ngu si lắm vậy!
Lo thiêu con xong,
bà đi từ biệt thân thuộc rồi biệt tích.
*
Ông Long Uẩn có
làm thi kệ hơn ba trăm thiên còn lưu truyền ở đời.
] |