NỐI PHÁP
CHƯƠNG KỈNH HOÀI UẨN
40. THIỀN SƯ HOẰNG BIỆN
Vua Ðường Tuyên
Tông hỏi Sư:
- Thiền tông sao
có tên Nam, Bắc?
Sư đáp:
- Thiền môn vốn
không có Nam, Bắc. Xưa Như Lai đem chánh pháp nhãn trao cho Tổ Ðại
Ca-diếp, lần lượt truyền nhau đến đời thứ hai mươi tám là Tổ
Bồ-đề-đạt-ma. Tổ Ðạt-ma sang phương này (Trung Hoa) là Sơ Tổ,
truyền đến vị Tổ thứ năm là Ðại sư Hoằng Nhẫn. Tổ Hoằng Nhẫn
mở bày chánh pháp ở Ðông Sơn có hai đệ tử lỗi lạc là Huệ
Năng và Thần Tú. Ðại sư Huệ Năng được truyền y bát, về ở Lãnh
Nam làm Tổ thứ sáu. Ðại sư Thần Tú ở phương Bắc giáo hóa. Sau
này, đệ tử Sư Thần Tú là Phổ Tịch lập thầy mình lên làm Tổ
thứ sáu, rồi tự xưng là Tổ thứ bảy. Hai vị ấy được pháp là
một, mà mở đạo khai ngộ có đốn tiệm khác nhau, cho nên gọi là
Nam đốn, Bắc tiệm. Chẳng phải Thiền tông sẵn có tên Nam, Bắc
vậy.
- Thế nào gọi là
giới Sư?
- Ngừa lỗi dừng
ác gọi là giới.
- Sao gọi là định?
- Sáu căn tiếp
xúc với cảnh mà không chạy duyên theo là định.
- Sao là tuệ?
- Tâm cảnh đều
không, chiếu soi chẳng lầm là tuệ.
- Sao là phương
tiện?
- Phương tiện là
ẩn che tướng thật, là cửa khéo léo tạm thời, để giáo hóa bậc
trung, hạ căn chiều uốn dẫn dụ họ gọi là phương tiện. Dù là
bậc thượng căn nói bỏ phương tiện chỉ nói đạo vô thượng, đây
cũng là nói phương tiện. Cho đến Tổ sư dùng lời huyền diệu quên
công bặt lời, cũng không vượt ngoài dấu vết phương
tiện.
- Sao là Phật tâm?
- Phật là tiếng
Ấn Ðộ, Trung Hoa gọi là Giác. Nghĩa là người có trí tuệ giác
chiếu là Phật tâm. Tâm là tên riêng của Phật. Có trăm ngàn
tên khác mà nghĩa là một, vốn không có hình trạng, chẳng phải
tướng xanh, vàng, đỏ, trắng, nam nữ v.v... ở nơi trời mà chẳng
phải trời, ở nơi người mà chẳng phải người, mà hay hiện trời
người, hiện nam nữ chẳng trước, chẳng sau, không sanh không diệt,
cho nên gọi là tánh linh giác. Như bệ hạ hằng ngày ứng dụng
muôn việc tức là Phật tâm của bệ hạ. Giả sử được ngàn vị
Phật đồng truyền, vẫn không nghĩ mình có sở đắc.
- Như nay có người
niệm Phật là sao?
- Như Lai ra đời là
bậc thầy thiện tri thức của người. Ngài tùy căn cơ nói pháp, vì
bậc thượng căn mở Tối thượng thừa đốn ngộ lý cùng tột, vì bậc
trung hạ căn chưa có thể chóng hiểu, ấy là Phật vì bà Vi-đề-hi
tạm mở cửa "mười sáu pháp quán" dạy niệm Phật sanh về Cực
lạc. Cho nên kinh nói: "Tức tâm tức Phật, tâm ấy là Phật,
ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm."
- Có người tụng
kinh, trì chú, niệm Phật để cầu làm Phật thì sao?
- Như Lai mở bày
các thứ đều vì một thừa tối thượng, như trăm sông đều chảy về
biển. Các pháp sai biệt như thế đều trở về biển Bát-nhã (Phật
trí).
- Tổ sư đã khế
hội tâm ấn, kinh Kim Cang nói "không có pháp sở đắc" là sao?
- Phương pháp giáo
hóa của Phật thật không có một pháp cho người. Chỉ vì chỉ dạy
cho mọi người, mỗi người đều có một kho pháp bảo. Chính khi Phật
Nhiên Ðăng ấn chứng cho Phật Thích-ca pháp căn bản ấy, Phật
Thích-ca không có sở đắc mới khế hội bản ý của Phật Nhiên
Ðăng. Cho nên kinh nói: "Không ngã không nhân không chúng sanh
không thọ giả, pháp ấy bình đẳng, tu tất cả pháp lành mà chẳng
trụ nơi tướng."
- Thiền sư đã hội
ý Tổ, lại có lễ Phật tụng kinh chăng?
- Sa-môn Thích tử
lễ Phật tụng kinh là pháp thường của Trụ trì, có bốn quả báo
vậy. Song y Phật giới để tu thân, tìm học với các bậc thiện tri
thức để tập tu hạnh thanh bạch, bước theo dấu Như Lai đã đi.
- Sao lại đốn ngộ?
Sao là tiệm tu?
- Chóng thấy tự
tánh cùng Phật đồng bậc, song còn có tập nhiễm từ vô thủy nên
mượn tiệm tu để đối trị, khiến theo tánh khởi dụng. Như người ăn
cơm không thể một miếng được no.
Hôm ấy, Sư đối
đáp với vua bảy khắc. Vua ban cho Sư tử y (y đỏ) và phương bào
(áo vuông) và ban hiệu là Viên Trí Thiền sư.
*
41. THIỀN SƯ TRÍ CHƠN
(782
- 865)
Sư họ Liễu, quê ở
Dương Châu, xuất gia tại chùa Hoa Lâm ở bản châu. Ðời Ðường
niên hiệu Nguyên Hòa năm đầu (806 T.L.), Sư đến Nhuận Châu thọ
giới ở chùa Thiên Hương. Sư không thích học tập Kinh Luận, chỉ mộ
tu Thiền.
Sư tìm đến yết
kiến Thiền sư Hoài Uẩn (Chương Kỉnh).
Hoài Uẩn hỏi:- Ở
đâu đến?
Sư thưa:- Ðến không
chỗ đến, lại không chỗ lại.
Hoài Uẩn lặng
thinh, Sư thầm khế hội.
*
Niên hiệu Khai
Thành năm đầu (836 T.L.), Sư sang Phước Châu đến ấp Trường Khê
có Trần Lượng, Hoàng Du thỉnh Sư ở lại núi Qui giáo hóa.
Một hôm, Sư dạy
chúng:
- Nheo mày chớp
mắt chẳng ngoài người này (người chân thật), một niệm tịnh tâm
xưa nay là Phật.
Sư nói kệ:
Tâm bản
tuyệt trần hà dụng tẩy
Thân
trung vô bệnh khởi cầu y
Dục tri
thị Phật phi thân xử
Minh
giám cao huyền vị chiếu thì.
Dịch:
Tâm vốn
bặt trần đâu cần rửa
Trong
thân không bệnh rước thầy chi
Phật kia
chẳng phải nơi thân ở
Gương
sáng treo cao chưa chiếu gì.
*
Gặp thời Võ Tôn
(841-846 T.L.) hủy diệt Phật giáo, bắt Tăng còn trẻ phải hoàn
tục, Sư cũng phải hoàn tục. Lúc ấy, Sư có làm hai bài kệ dạy
chúng:
Minh
nguyệt phân hình xứ xứ tân
Bạch y
ninh trụy giải không nhân
Thùy
ngôn tại tục phòng tu đạo
Kim Túc
tằng vi trưởng giả thân.
*
Nhẫn
Tiên lâm hạ tọa thiền thời
Tằng bị
Ca Vương cát tài chi
Huống
ngã thánh triều vô thử sự
Chi kim
hưu đạo diệc hà bi?
Dịch:
Trăng
sáng phân hình chỗ chỗ tươi
Bạch y
dễ kéo giải không người
Tại gia
ai bảo tu học khó?
Kim Túc
từng làm Trưởng giả chơi.
[Kim Túc nói đủ
là Kim Túc Như Lai tức là tiền thân của cư sĩ Duy-ma-cật.]
*
Nhẫn
Tiên thiền tọa ở rừng sâu
Từng bị
Lợi Vương chặt cắt đau
Huống
nay thánh chúa không việc ấy
Chỉ bắt
thôi tu đáng buồn đâu?
Ðến vua Tuyên Tông
lên ngôi (847 T.L.) sùng phụng Phật pháp, Sư trở về chùa như xưa.
Niên hiệu Hàm Thông năm thứ sáu (865 T.L.), Sư tịch tại núi này,
thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi tuổi hạ.
Vua ban hiệu là Qui
Tịch Thiền sư, tháp hiệu Bí Chơn.
*
NỐI PHÁP
NAM TUYỀN PHỔ NGUYỆN
42. THIỀN SƯ CẢNH SẦM
(Trường Sa)
Sau khi đắc pháp
nơi Nam Tuyền, Sư đến Lộc Uyển an trụ. Về sau, Sư không ở một
chỗ nhất định, chỉ tùy duyên tùy cảnh giáo hóa độ sanh. Vì thế,
người đương thời gọi Sư là Hòa thượng Trường Sa.
Sư thượng đường
dạy chúng:
- Nếu ta một bề
nêu cao tông giáo thì trong pháp đường này cỏ mọc cao một
trượng. Vì sự bất đắc dĩ, ta bảo các ngươi rằng: Tột mười phương
thế giới là mắt của Sa-môn, tột mười phương thế giới là thân
của Sa-môn, tột mười phương thế giới là ánh sáng của mình, tột
mười phương thế giới ở trong ánh sáng của mình, tột mười phương
thế giới không có người nào là chẳng phải chính mình. Ta thường
nói với các ngươi: Chư Phật trong đời cùng chúng sanh khắp pháp
giới là ánh sáng Ma-ha Bát-nhã. Khi ánh sáng này chưa phát, cả
thảy các ngươi đến nương nơi đâu? Khi ánh sáng này chưa phát, còn
không có tăm dạng Phật và chúng sanh, thì chỗ nào có núi sông
thế giới?
Có vị Tăng hỏi:-
Thế nào là mắt Sa-môn?
Sư đáp:
- Dài dài ra chẳng
đặng, thành Phật thành Tổ ra chẳng đặng, sáu đạo luân hồi ra
chẳng đặng.
- Chẳng biết ra
cái gì chẳng đặng?
- Ngày thấy mặt
trời, đêm thấy sao.
- Con không hội.
- Núi Diệu Cao sắc
xanh lại xanh.
*
Sư sai một vị Tăng
đến hỏi bạn đồng sư là Hòa thượng Hiệp rằng:
- Hòa thượng sau
khi thấy Nam Tuyền rồi thế nào?
Hòa thượng Hiệp
lặng thinh.
Tăng hỏi:- Hòa
thượng trước khi chưa thấy Nam Tuyền thì sao?
Hòa thượng Hiệp
đáp:- Không thể lại riêng có.
Vị Tăng về thuật
lại Sư nghe, Sư làm một bài kệ chỉ bày:
Bách
trượng can đầu bất động nhân
Tuy
nhiên đắc nhập vị vi chân
Bách
trượng can đầu tu tấn bộ
Thập
phương thế giới thị toàn thân.
Dịch:
Trăm
trượng đầu sào vẫn đứng yên
Tuy là
được nhập chẳng phải hiền
Ðầu sào
trăm trượng cần vượt khỏi
Mười
phương thế giới thảy thân mình.
*
Có quan khách đến
yết kiến, Sư gọi:- Thượng thơ!
Quan khách:- Dạ!
- Chẳng phải bổn
mạng thượng thơ.
- Không thể rời
người đối đáp hiện nay lại có chủ nhân thứ hai.
- Gọi thượng thơ
là chí tôn được chăng?
- Thế là khi chẳng
đối, đâu không phải là chủ nhân của đệ tử?
- Chẳng những khi
đối và khi không đối, mà từ vô thủy kiếp đến giờ cái ấy là
cội gốc của sanh tử.
Sư làm bài kệ:
Học đạo
chi nhân bất thức chân
Chi vị
tùng lai nhận thức thần
Vô thủy
kiếp lai sanh tử bản
Si nhân
hoán tác bản lai nhân.
Dịch:
Học đạo
mà không hiểu lẽ chân
Bởi tại
lâu rồi nhận thức thần
Gốc
nguồn sanh tử vô thủy kiếp
Người
ngu lại gọi chủ nhân ông.
*
Tăng Hạo Nguyệt
hỏi:
- Những vị thiện
tri thức trong thiên hạ chứng được ba đức Niết-bàn chưa?
Sư đáp:
- Ðó là Ðại đức
hỏi trên quả Niết-bàn hay trong nhân Niết-bàn?
- Trên quả
Niết-bàn.
- Những thiện tri
thức trong thiên hạ chưa chứng.
- Vì sao chưa chứng?
- Vì công chưa bằng
chư thánh.
- Công chưa bằng
chư thánh sao làm thiện tri thức.
- Thấy rõ Phật
tánh cũng được gọi là thiện tri thức.
- Chẳng biết công
bằng chừng nào mới được chứng Niết-bàn?
Sư có bài kệ:
Ma-ha
Bát-nhã chiếu
Giải
thoát thậm thâm pháp
Pháp
thân tịch diệt thể
Tam nhất
lý viên thường.
Dục
thức công tề xứ
Thử danh
thường tịch quang.
Dịch:
Trí tuệ
lớn rộng soi
Pháp
giải thoát sâu xa
Thể
pháp thân vắng lặng
Ba một
lý thường tròn.
Muốn
biết chỗ công bằng
Ðây gọi
thường tịch quang.
- Trên quả ba đức
Niết-bàn đã nhờ chỉ dạy, thế nào là trong nhân Niết-bàn?
- Ðại đức ấy.
- Trong kinh nói ý
huyễn là có chăng?
- Ðại đức nói gì?
- Thế là ý huyễn
tại không chăng?
- Ðại đức nói gì?
- Thế là ý huyễn
tại chẳng có chẳng không chăng?
- Ðại đức nói gì?
- Con ba phen nhận
định chẳng hợp ý huyễn, chưa biết Hòa thượng thế nào để rõ
được ý huyễn trong kinh?
- Ðại đức tin tất
cả pháp không thể nghĩ bàn chăng?
- Lời thành thật
của Phật đâu dám không tin.
- Ðại đức nói tin,
trong hai thứ tin là thứ tin nào?
- Theo con hiểu,
trong hai thứ tin là tin duyên (tín duyên).
- Y giáo môn nào
được sanh tin duyên?
- Theo kinh Hoa
Nghiêm nói: "Bồ-tát lớn lấy trí tuệ không chướng không ngại tin
tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai." Lại, kinh Hoa
Nghiêm nói: "Chư Phật Thế Tôn thảy biết thế pháp và Phật pháp
tánh không sai khác, quyết định không hai." Cũng kinh Hoa Nghiêm
nói: "Phật pháp thế gian pháp, nếu thấy chỗ chân thật của nó,
tất cả không sai khác."
- Ðại đức nêu chỗ
tin duyên trong giáo môn rất có bằng cứ. Nghe Lão tăng vì Ðại
đức nói rõ ý huyễn trong kinh:
Nhược
nhân kiến huyễn bản lai chân
Thị tắc
danh vi kiến Phật nhân
Viên
thông pháp pháp vô sanh diệt
Vô diệt
vô sanh thị Phật thân.
Dịch:
Nếu
người thấy huyễn xưa nay chân
Thế ấy
tức là thấy Phật nhân (người)
Suốt
tròn các pháp không sanh diệt
Không
diệt không sanh ấy Phật thân.
*
Có vị Tăng hỏi:-
Hòa thượng nối tiếp người nào?
Sư đáp:- Tôi không
có người được nối tiếp.
- Lại có tham học
không?
- Tôi tự tham học.
- Ý Hòa thượng
thế nào?
Sư có bài kệ:
Hư không
vấn vạn tượng
Vạn
tượng đáp hư không
Thùy
nhân thân đắc văn
Mộc xoa
quán giác đồng.
Dịch:
Hư không
hỏi vạn tượng
Vạn
tượng đáp hư không
Người
nào gần được nghe
Trẻ con
đầu hai chỏm
*
Có vị Tăng hỏi:-
"Sắc tức là không, không tức là sắc", lý này thế nào?
Sư có bài kệ:
Ngại xứ
phi tường bích
Thông
xứ vật hư không
Nhược
nhân như thị giải
Tâm sắc
bản lai đồng
Phật
tánh đường đường hiển hiện
Trụ
tánh hữu tình nan kiến
Nhược
ngộ chúng sanh vô ngã
Ngã
diện hà thù Phật diện.
Dịch:
Chỗ
ngại chẳng tường vách
Chỗ
thông đâu hư không
Nếu
người tìm hiểu như thế
Tâm sắc
xưa nay đồng
Phật
tánh hiển hiện rõ ràng
Trụ
tánh hữu tình khó thấy
Nếu ngộ
chúng sanh vô ngã
Mặt ta
mặt Phật khác gì.
Sư có
bài kệ khuyến học:
Vạn
trượng can đầu vị đắc hưu
Ðường
đường hữu lộ thiểu nhân du
Thiền sư
nguyện đạt Nam Tuyền khứ
Mãn mục
thanh sơn vạn vạn thu.
Dịch:
Muôn
trượng đầu sào chẳng được dừng
Sờ sờ
đường cái ít người đi
Thiền sư
muốn đạt Nam Tuyền lộ
Ðầy mắt
núi xanh muôn muôn thu.
Vì Sư không có nơi
trụ nhất định nên không biết tịch lúc nào và nơi nào.
*
43. THIỀN SƯ TÙNG THẨM
Triệu Châu - (778 - 897)
Sư họ Hác, quê ở
làng Hác, thuộc Tào Châu. Lúc bé Sư xuất gia ở Hỗ Thông Viện
tại bản châu, nhưng chưa thọ giới. Sư tìm đến Trì Dương tham vấn
Nam Tuyền (Phổ Nguyện) gặp lúc Nam Tuyền nằm nghỉ, mà vẫn hỏi:
- Vừa rời chỗ
nào?
Sư thưa:- Vừa rời
Ðoan Tượng.
- Thấy Ðoan Tượng
chăng?
- Chẳng thấy Ðoan
Tượng, chỉ thấy Như Lai nằm.
- Ngươi là Sa-di có
chủ hay không chủ?
- Sa-di có chủ.
- Chủ ở chỗ nào?
- Giữa mùa đông
rất lạnh, ngưỡng mong tôn thể Hòa thượng được muôn phước.
Nam Tuyền khen ngợi
liền nhận vào chúng.
*
Sư hỏi Nam Tuyền:-
Thế nào là đạo?
Nam Tuyền đáp:-
Tâm bình thường là đạo.
- Lại có thể nhằm
tiến đến chăng?
- Nghĩ nhằm tiến
đến là trái.
- Khi chẳng nghĩ
làm sao biết là đạo?
- Ðạo chẳng thuộc
biết và chẳng biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký.
Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh thang rỗng
rang đâu thể gắng nói phải quấy?
Ngay câu nói này
Sư ngộ lý.
*
Sư đến đàn Lưu Ly
tại Tung Nhạc thọ giới. Thọ giới xong, Sư trở lại Nam Tuyền.
Sư hỏi Nam Tuyền:-
Biết có người ấy đến chỗ nào an nghỉ?
Nam Tuyền bảo:-
Ðến nhà đàn việt dưới núi làm con trâu đi.
- Cảm tạ Thầy chỉ
dạy.
- Ðêm qua canh ba
trăng soi cửa.
*
Sư đến Hoàng Bá
(Hy Vận). Hoàng Bá thấy Sư đến liền đóng cửa phương trượng. Sư
lấy lửa đem vào pháp đường kêu:
- Cứu lửa! cứu
lửa!
Hoàng Bá mở cửa,
nắm Sư đứng lại, bảo:- Nói! nói!
Sư bảo:- Cướp qua
rồi mới trương cung.
*
Sư đến Ðạo Ngô
(Viên Trí), vừa vào nhà, Ðạo Ngô nói:
- Mũi tên Nam
Tuyền đến!
Sư bảo:- Xem tên!
Ðạo Ngô nói:-
Trật.
Sư bảo:- Trúng.
*
Sư đến Giáp Sơn
(Thiện Hội) cầm gậy vào pháp đường.
Giáp Sơn hỏi:- Làm
gì?
Sư đáp:- Dò nước.
Giáp Sơn bảo:- Một
nhỏ cũng không, dò cái gì?
Sư chống gậy đi ra.
*
Sau khi được Nam
Tuyền ấn khả, Sư về Tào Châu thăm bổn sư. Những người quen
thuộc hay tin Sư về đều muốn đến thăm, Sư nghe được bèn nói:
- Lưới ái trần
tục không có ngày dứt được, ta đã từ bỏ xuất gia, không muốn
gặp lại.
Sư liền mang bát
cầm gậy dạo khắp các nơi. Sư thường nói:
- Trẻ con bảy tuổi
hơn ta thì ta hỏi nó, ông già trăm tuổi chẳng bằng ta thì ta dạy
họ.
*
Sau chúng thỉnh Sư
ở viện Quan Âm tại Triệu Châu. Có vị Tăng hỏi:
- Thế nào là
Phật?
Sư bảo:- Ở trong
điện.
- Trong điện đâu
không phải bùn đất đắp thành tượng?
- Phải.
- Thế nào là
Phật?
- Ở trong điện.
- Con mê muội xin
Thầy chỉ dạy.
- Ăn cháo xong
chưa?
- Ăn cháo xong.
- Rửa chén bát đi!
Tăng nhân đây đại
ngộ.
*
Sư thượng đường
dạy chúng:
- Như minh châu
trong tay, Hồ đến thì hiện Hồ, Hán đến thì hiện Hán. Lão tăng
nắm một nắm cỏ dùng làm thân vàng (thân Phật) một trượng sáu,
đem thân vàng một trượng sáu dùng làm nắm cỏ, Phật là phiền
não, phiền não là Phật.
Có vị Tăng đứng
lên hỏi:- Chưa biết Phật là phiền não của ai?
Sư đáp:- Là phiền
não của tất cả người.
- Làm sao khỏi
được?
- Dùng khỏi làm
gì?
*
Có người hỏi:- Con
chó có Phật tánh không?
Sư đáp:- Không.
- Trên đến chư
Phật, dưới đến loài trùng kiến đều có Phật tánh, vì sao con chó
không có Phật tánh?
- Vì nó còn có
nghiệp thức.
Lại, có người
hỏi:- Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp:- Có.
- Ðã có Phật tánh
vì sao chui vào trong đãy da?
- Vì biết mà cố
phạm.
*
Sư hỏi vị Tăng mới
đến:- Từng đến đây chưa?
Tăng thưa:- Từng
đến.
- Uống trà đi!
Sư lại hỏi Tăng:-
Từng đến đây chưa?
Tăng thưa:- Chưa
từng đến.
- Uống trà đi!
Sau Viện chủ hỏi
Sư:
- Vì sao từng đến
dạy uống trà đi, chưa từng đến cũng dạy uống trà đi?
Sư gọi:- Viện chủ!
Viện chủ đáp:-
Dạ!
Sư bảo:- Uống trà
đi!
*
Sư cầm chổi quét
đất, có người hỏi:
- Hòa thượng là
thiện tri thức vì sao có bụi?
Sư bảo:- Bên ngoài
đến.
- Già-lam thanh tịnh
vì sao có bụi?
- Lại có một
điểm.
*
Có ông Tú tài
đến hỏi Sư:
- Phật chẳng trái
sở nguyện của chúng sanh phải chăng?
Sư đáp:- Phải.
- Con muốn xin cây
gậy trong tay Hòa thượng được chăng?
- Người quân tử
không đoạt cái sở thích của người.
- Con không phải
là quân tử.
- Ta cũng chẳng
phải là Phật.
*
Có người hỏi:
- Ðã lâu nghe
tiếng cầu đá Triệu Châu, nay đến chỉ thấy cầu nổi.
Sư bảo:- Ông chỉ
thấy cầu nổi mà không thấy cầu đá.
- Thế nào là cầu
đá?
- Ðộ lừa độ ngựa.
- Thế nào là cầu
nổi?
- Mỗi mỗi độ
người.
*
Sư dạy chúng:
- Vừa có phải
quấy thì lăng xăng mất tâm, lại có người đáp thoại (câu nói)
hay chăng?
Có vị Tăng bước
ra vỗ thị giả một cái, nói:
- Sao không đáp
Hòa thượng?
Sư liền vào phương
trượng.
Sau, thị giả thưa:
- Vừa rồi có vị
Tăng làm thế ấy là hội hay chẳng hội?
Sư bảo:- Ngồi thấy
đứng, đứng thấy ngồi.
*
Sư dạy chúng:
- Ðạo chẳng khó,
chỉ hiềm lựa chọn, vừa có nói năng là lựa chọn, là minh bạch.
Lão tăng chẳng ở trong minh bạch, các ngươi lại tiếc giữ chăng?
Có vị Tăng đứng ra
hỏi:
- Ðã chẳng ở trong
minh bạch thì tiếc giữ cái gì?
Sư bảo:- Ta cũng
chẳng biết.
- Hòa thượng đã
chẳng biết, vì sao chẳng ở trong minh bạch?
- Hỏi việc thì
được, lễ bái xong lui ra.
*
Quan Ðại phu họ Mã
đến hỏi:- Hòa thượng có tu hành chăng?
Sư đáp:- Lão tăng
nếu tu hành là việc họa.
- Hòa thượng đã
chẳng tu hành thì dạy người nào tu hành?
- Ðại phu là người
tu hành.
- Con sao bảo là tu
hành?
- Nếu không tu
hành thì đâu được đánh đập người, ở trong địa vị nhân vương đói
có cơm, lạnh có áo, không biết ngày ra khỏi.
Ðại phu nghe cảm
động rơi nước mắt, lễ tạ Sư.
*
Có vị Tăng hỏi:-
Trong mười hai giờ dụng tâm thế nào?
Sư đáp:- Ngươi bị
mười hai giờ sai khiến, ta sai khiến được mười hai giờ.
Sư bèn nói:
- Huynh đệ! Chớ
đứng lâu. Có việc thì thương lượng, không việc thì đến nhà sau
ngồi, tìm xét lý là tốt. Lão tăng lúc đi hành khước, trừ hai
thời cơm cháo là tạp dụng tâm, ngoài ra không có dụng tâm
khác. Nếu chẳng như thế rất là xa vậy.
*
Sư thượng đường
dạy chúng:
- Phật vàng không
độ được lò đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ
được nước, Phật thật ngồi ở trong. Bồ-đề Niết-bàn Chân như
Phật tánh trọn là y phục đắp vào thân, cũng gọi phiền não,
thật tế lý địa để ở chỗ nào? Một tâm chẳng sanh, muôn pháp
không lỗi. Ngươi cứ nghiên cứu lý này, ngồi quán xét hai ba mươi
năm, nếu chẳng hội thì chặt đầu Lão tăng đi! Nhọc nhằn nắm bắt
mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất như.
Ðã chẳng từ ngoài được thì câu chấp làm gì? Giống in như con dê
gặp vật gì cũng liếm cũng nhai. Lão tăng thấy Hòa thượng Dược
Sơn (Duy Nghiễm) có người hỏi, Ngài liền bảo "ngậm lấy miệng
chó". Lão Tăng cũng dạy: "Ngậm miệng chó." Chấp ngã thì nhơ,
không chấp ngã thì sạch, giống như con chó săn tìm kiếm vật để
ăn. Phật pháp ở chỗ nào? Ngàn người muôn người thảy đều là
kẻ tìm Phật, mà ở trong đó tìm một đạo nhân (người học đạo
thật) không có. Nếu cùng vua KHÔNG làm đệ tử, chớ bảo tâm
bệnh khó trị. Khi chưa có thế giới, trước đã có tánh này, khi
thế giới hoại, tánh này chẳng hoại. Một phen được thấy Lão
tăng, sau lại chẳng phải người khác, chỉ là chủ nhân này. Cái
đó lại hướng ngoài tìm làm gì? Khi ấy chớ xoa đầu moi óc, nếu
xoa đầu moi óc liền mất vậy.
Có vị Tăng hỏi:
- Theo lời Thầy
dạy "khi thế giới hoại, tánh này chẳng hoại", thế nào là tánh
này?
Sư đáp:- Tứ đại
ngũ uẩn.
- Các thứ ấy vẫn
là hoại, thế nào là tánh này?
- Tứ đại ngũ uẩn.
*
Có vị Tăng đến từ
giã Sư. Sư hỏi:- Ði đâu?
Tăng thưa:- Ðến
Tuyết Phong.
- Tuyết Phong nếu
hỏi ngươi: "Hòa thượng dạy những lời gì", ngươi đáp thế nào?
- Con nói chẳng
được, thỉnh Hòa thượng nói.
- Ðông thì nói
lạnh, hạ thì nói nóng.
Sư lại hỏi:- Tuyết
Phong lại hỏi ngươi: "việc cứu kính thế nào".
- Con nói chẳng
được.
- Chỉ nói: chính từ
Triệu Châu lại, chẳng phải miệng người truyền.
Vị Tăng ấy đến
Tuyết Phong thuật lại cho Tuyết Phong nghe.
Tuyết Phong bảo:-
Phải là Triệu Châu mới được.
*
Thời gian trụ trì
tại viện Quan Âm, có vua nước Yên, nước Triệu đồng đến ra mắt
Sư. Sư vẫn ngồi tiếp, không đứng dậy. Vua Yên hỏi:
- Nhân vương đáng
tôn trọng hay Pháp vương đáng tôn trọng?
Sư đáp:
- Nếu ở trong nhân
vương thì Nhân vương trọng, nếu ở trong pháp vương thì Pháp vương
trọng.
Hai vua nghe rồi
đều vui vẻ kính phục và đồng cúng dường.
*
Sư học theo người
xưa trụ trì rất kham khổ, trong Tăng đường trước sau trống rỗng
không có bàn ghế, chỉ nằm cái giường dây gãy một góc, lấy dây
ràng rịt lại. Có người xin đóng giường mới, Sư không cho. Trụ trì
hơn bốn mươi năm, Sư chưa từng biên một lá thơ cho thí chủ.
*
Niên hiệu Càng
Ninh năm thứ tư đời Ðường (894 T.L.), ngày mùng hai tháng mười
một, Sư nằm nghiêng bên mặt an nhiên thị tịch, Sư thọ một trăm
hai mươi tuổi. Vua ban hiệu là Chơn Tế Ðại sư.
*
NỐI PHÁP
THIÊN VƯƠNG ÐẠO NGỘ
44. THIỀN SƯ SÙNG TÍN
(Long Ðàm)
Sư con nhà bán
bánh. Thuở nhỏ có những điềm lạ. Lúc Thiền sư Ðạo Ngộ được
Tiết sử họ Lư thỉnh ở chùa Thiên Vương, người ta không thể hiểu
được. Nhà Sư ở đầu đường vào chùa, mỗi ngày Sư đem mười cái
bánh vào cúng dường Thiền sư Ðạo Ngộ. Ðạo Ngộ nhận ăn xong,
thường để lại một cái bánh, bảo:
- Ta cho ngươi để
ân huệ cho con cháu.
Một hôm, Sư tự
nghĩ: "Bánh là ta đem đến, cớ sao Hòa thượng lại cho ngược lại
ta? Biết đâu không có ý chỉ." Sư bèn đến hỏi Ðạo Ngộ.
Ðạo Ngộ bảo:
- Bánh của ngươi
đem đến, ta cho lại ngươi có lỗi gì?
Sư nghe lời này
hiểu được thâm ý liền xin xuất gia.
Ðạo Ngộ bảo:
- Ngươi trước sùng
phước thiện, nay tin lời ta, có thể gọi là Sùng Tín.
Từ đây, Sư hầu hạ
bên thầy.
*
Một hôm, Sư thưa:
- Từ ngày con vào
đây đến giờ, chưa được Thầy chỉ dạy tâm yếu.
Ðạo Ngộ bảo:
- Từ ngày ngươi
vào đây, ta chưa từng chẳng chỉ dạy ngươi tâm yếu.
- Chỉ dạy ở chỗ
nào?
- Ngươi dâng trà
lên, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận.
Ngươi xá lui ra thì ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?
Sư cúi đầu lặng
thinh giây lâu.
Ðạo Ngộ bảo:
- Thấy thì thẳng
đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.
Ngay câu nói đó,
Sư khai ngộ. Lại hỏi thêm:
- Làm sao gìn giữ?
- Mặc tánh tiêu
dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm, chẳng có thánh
giải khác.
Sau Sư đến Lễ Dương
dừng trụ tại Long Ðàm.
Có vị Tăng hỏi:-
Hạt châu trong búi tóc người nào được?
Sư bảo:- Người
không thưởng ngoạn được.
- Ðể ở chỗ nào?
- Có chỗ tức nói
đến.
*
Có cô Ni hỏi:-
Làm sao được làm Tăng?
Sư bảo:- Làm Ni đã
bao lâu?
- Lại có khi làm
Tăng chăng?
- Hiện nay ngươi là
gì?
- Hiện nay thân Ni
ai chẳng biết?
- Ai biết ngươi?
*
Thích sử Lý Tường
hỏi:- Thế nào là chân như Bát-nhã?
Sư đáp:- Tôi không
có chân như Bát-nhã.
- Hân hạnh được
gặp Hòa thượng.
- Ðây vẫn là lời
nói ở bên ngoài.
*
Tuyên Giám (Ðức
Sơn) hỏi:
- Ðã lâu nghe danh
Long Ðàm (đầm rồng), đến đây thì Ðàm (đầm) chẳng thấy, Long
(rồng) cũng chẳng hiện.
Sư bảo:- Ngươi đã
đến gần được Long Ðàm.
Tuyên Giám liền
thôi.
] |