LỜI
NÓI ĐẦU
Tập II Thiền sư
Trung Hoa này, chúng tôi chú mục vào Ngũ gia Tông phái. Muốn
độc giả thấy rõ sự kế thừa của năm Tông phái, chúng tôi soạn
dịch những vị có trọng trách trong việc truyền bá sau này, với
những vị tuy không quan trọng mà vẫn có mặt trong việc kế thừa
của tông phái ấy. Còn lắm vị có nhiều đặc sắc, nhưng không
phải nằm trong hai điều kiện trên chúng tôi lược bớt.
Sử chư Thiền đức
ở Trung hoa còn quá nhiều, song chúng tôi chỉ soạn dịch đến đây
tạm ngưng. Thấy rằng độc giả cần tìm hiểu đạo lý thâm sâu và
những gương cao đẹp, qua bấy nhiêu vị ấy cũng đã đủ lắm rồi.
Nếu cố dịch nhiều thêm nữa, chỉ có thêm người thêm lời, chớ
đạo lý cũng không có gì khác lạ. Cốt chúng ta lãnh hội được
thâm lý qua lời nói hành động của các ngài, không phải cần
đọc nhiều để thêm kiến giải.
Sở nguyện chúng
tôi soạn dịch các tập sử này nhằm vào những người đang tu thiền
mà không biết nguồn gốc manh mối thiền thế nào, và những người
ngưỡng mộ Thiền tông mà không đủ phương tiện tham khảo. Chớ
chúng tôi không cung ứng theo xu hướng những người đọc sách
thiền để tỏ ra mình là trí thức.
Chúng tôi được
biết hiện thời là phong trào giới trí thức trẻ tuổi tìm hiểu
thiền. Bởi muốn tìm hiểu thiền nên quyển sách nào nói về thiền
mà dễ hiểu thì độc giả đông nhất. Song những quyển sách chúng
tôi soạn dịch đây thật là cô đọng khô khan, hẳn độc giả không
hài lòng và sẽ ít người mó tới. Biết trước số phận của nó là
thế, nhưng chúng tôi vẫn giữ nguyên lập trường cũ không đổi
thay. Bởi vì Thiền là một phương pháp tu cao tột, những kẻ căn cơ
chậm lụt, ý chí yếu kém khó mà tu nổi. Nên chi, chư Tổ dùng
lời khó khăn để lọc lựa người.
Chư Tổ đã biết
chúng sanh có bệnh khinh thường, hèn nhát và dễ chán. Dù một
vật quí vô giá mà trao cho họ một cách dễ dàng, họ sẽ khinh
thường, đã khinh thường thì dễ quên mất. Cho nên các ngài khéo
dùng những lời lẽ bí yếu, những hành động lạ thường, khiến
người lãnh nhận những lời ấy phải chết sống với nó năm mười
năm rồi sẽ ngộ. Một khi ngộ, suốt đời không lúc nào quên
lãng. Đó là một đặc điểm trong Thiền tông.
Thiền tông cốt
dạy người làm Tổ làm Phật, chớ không phải chỉ dạy tu phước đức
cõi người cõi trời. Làm Tổ làm Phật đâu phải là việc dung dị.
Cho nên, người bước vào cửa thiền phải là sư tử con phải gầm
phải hét, không phải như những con nai tơ nhút nhát kia. Vì thế,
một Thiền sinh khi ngộ đạo thường có những hành động xem như
ngang ngược đối với bậc thầy. Nhưng với con mắt Thiền sư thấy
thế rất hài lòng, biết đệ tử mình đã thoát khỏi vòng khuôn
sáo, tập quán.
Con đường làm Tổ,
làm Phật xa diệu vợi và đầy gian nguy, nếu con người dễ chán
làm sao tiến đến mục đích cứu kính. Vì thế, cần có những con
người sắt đá, dù thân nát mà chí không mòn, mới đủ tư cách
đảm đang trọng trách này. Phải vượt khỏi đầu sào trăm trượng,
phải buông tay đi trên vực thẳm đó là lời thường nhắc của các
Thiền sư.
Như thế, những câu
nói điếc tai của các ngài không phải không chỗ nhằm. Nếu chúng
ta cố giải thích cho nó dễ hiểu, đâu không phản bội lại các
ngài. Nhiều vị Đại đức tăng hiện tại thường nói: ?người tu
thiền dễ rơi vào chấp không?. Câu nói này, đứng về phương diện
cảnh tỉnh thì quí giá, đứng về phương diện chân thật thì sai lầm.
Vì Thiền là phá chấp, còn chấp không làm sao gọi là hội thiền,
đã không hội thì lấy gì mà tu. Như thế, nói người tu thiền chấp
không thật không thể có.
Tuy nhiên, vẫn có
một số người không hội được thâm lý của thiền, chỉ nói thiền
qua ngôn ngữ rồi sanh bệnh cố chấp. Như hiện tại có một số
thanh niên trí thức đọc sách thiền thấy nói ?không có thiện
không có ác?, liền chấp rằng mọi hành động đều không. Họ
không hiểu Thiền nói ?không thiện không ác? là cố phá chấp có
hai, tương đối. Bởi vì mầm gốc sanh tử luân hồi là tâm yêu
ghét. Còn khen ngợi thiện là yêu thiện, còn mạt sát ác là
ghét ác. Yêu ghét còn làm sao giải thoát sanh tử. Hơn nữa, yêu
mà xa thì khổ, ghét mà gặp cũng khổ. Thế thì tu đến bao giờ mới
hết khổ? Cho nên, khi nói không thiện không ác là lúc tâm đã
bình đẳng như như. Tuy nói không thiện mà lúc nào cũng làm tất
cả việc lành. Tuy nói không ác mà lúc nào cũng xa lìa tất cả
tội lỗi. Đó là tư cách của người đạt được lý thiền. Khổ thay!
hiện tại người ta không hiểu như thế, nói không thiện không ác
để rồi ăn xổi ở thì, hay thậm tệ hơn là làm tất cả việc ác.
Hoặc đọc sách
thiền thấy các Thiền đức nói ?đói thì ăn, mệt thì ngủ? họ mặc
tình buông lung theo bản năng, ưng nói thì nói ưng làm thì làm,
không cần biết phải quấy tốt xấu. Đó là hạng người sa đọa tột
độ, mượn lời nói của thiền để nuôi dưỡng những tham vọng điên
cuồng của họ. Khi các Thiền đức nói ?đói thì ăn mệt thì ngủ?
là tâm các ngài đã sạch vọ?g tưởng, mọi hành động đều hợp
với đạo. Như nước đã lọc sạch rồi thì san sớt cách nào cũng là
nước trong. Tâm đã thanh tịnh thì mọi hành động đều là diệu
dụng.
Thiền cốt dạy tu
chớ không phải lý thuyết suông. Thế nên, các vị Thiền sư sau khi
hội thiền, liền lên núi vào rừng ở năm năm mười năm có khi
hai ba mươi năm. Do sự luyện lọc ấy mới gột sạch hết vọng
tưởng, tâm thể như như, tự tại trong việc sanh tử. Cốt tủy của
đạo Phật là giác ngộ nguồn gốc sanh tử và giải thoát chúng.
Thiền sư đã thực hiện được điều đó trong đời sống hiện tại. Ưng
sống các ngài sống, ưng chết các ngài chết. Đó là bằng chứng
cụ thể nói lên sự trung thực của Thiền đối với đạo Phật.
Thiền dạy người tu
một cách thực tế, tìm lại ?bản lai diện mục? của mình. Bởi quá
thực tế nên người ta không hiểu nổi, con người là hướng ngoại,
con người là cầu xin, con người là ỷ lại. Ở đây Thiền đập tan
ba tánh ươn hèn ấy. Ba tánh ấy đã chôn vùi chúng ta từ vô
lượng kiếp. Chúng ta phải cương quyết quả cảm đập nát chúng, để
rồi chúng ta tìm lại cái mặt thật của chúng ta. Chúng ta là chủ
nhân ông của chúng ta từ vô lượng kiếp. Chúng ta phải khôi
phục lại quyền năng của ông chủ bản hữu nơi chính mình. Đó là
chúng ta tu thiền.
Tu thiền là vượt
qua những thành quách tập quán, ngôn ngữ, văn tự. Bởi vì những
cái ấy đều do vọng tưởng của người đặt ra. Còn mắc kẹt trong
ấy là chúng ta còn làm tôi đòi của vọng tưởng, sẽ bị nó lôi
chúng ta vào vòng sanh tử liên miên. Dù là những ngôn ngữ văn
tự diễn đạt chân lý đi nữa, nó cũng chỉ là chân lý chết.
Chúng ta phải sống với chân lý linh hoạt hiện hữu nơi chúng ta.
Chân lý ấy không cho phép chúng ta mắc kẹt bất cứ cái gì bên
ngoài, dù là tập quán của ngàn xưa. Còn mắc kẹt là còn chấp,
còn chấp thì không đạt được chân lý viên mãn. Như còn mây che
thì không thấy được ánh sáng toàn vẹn của mặt trăng, dù một
áng mây mỏng ánh sáng cũng vẫn bị mờ.
Đạo lý thiền là
đạo lý tu chứng. Có tu chứng mới gọi là thiền, không tu chứng
mà nói thiền, ấy gọi là ?khẩu đầu thiền?, thiền ngoài môi.
Tuy nhiên, tu chứng mà không có tướng tu chứng. Còn thấy có
tướng tu chứng thì gọi là bệnh, chớ chẳng phải thiền. Có lắm
người nghe nói tu thiền liền hỏi đã chứng gì chưa, thế là không
hiểu gì về thiền. Người tu thiền mà khoe mình chứng quả này quả
nọ, ấy là ma chớ không phải Thiền sư. Thiền sư là những người
thâm trầm, tám gió thổi không lay, tự tại trước ngưỡng cửa sanh
tử.
Mong khi đọc những
tập sử của chúng tôi soạn dịch, độc giả sẽ phát minh được ?bản
lai diện mục? của chính mình. Bằng chưa phát minh được, độc giả
hãy bám vào một câu nào không hiểu để sống chết với nó, một
ngày kia sẽ phát minh được.
Kính ghi
THÍCH THANH TỪ
Tu viện CHÂN
KHÔNG, Đầu mùa đông 1972
? |