THIỀN SƯ TRUNG HOA

TẬP HAI

H.T THÍCH THANH TỪ

ĐỜI THỨ NĂM SAU LỤC TỔ

A. PHÁI HÀNH TƯ

I. NỐI PHÁP VÂN NHAM ĐÀM THẠNH

            Có 4 vị

            1- Thiền sư Lương Giới (Động Sơn)

            2- Thiền sư Giám Hồng

            3- Thiền sư Tăng Mật

            4- Hòa thượng U Khê

II. NỐI PHÁP THIỀN SƯ VIÊN TRÍ (ĐẠO NGÔ)

            Có 3 vị

1- Thiền sư Khánh Chư (Thạch Sương)

2- Thiền sư Trọng Hưng

3- Thiền sư Lộc Thanh

III . NỐI PHÁP THIỀN SƯ ĐỨC THÀNH (HOA ĐÌNH THUYỀN TỬ)

            Có 1 vị

            Thiền sư Thiện Hội (Giáp Sơn)

IV. NỐI PHÁP THIỀN SƯ VÔ HỌC (THÚY VI)

            Có 5 vị

            1- Thiền sư Linh Tôn

            2- Thiền sư Đại Đồng (Đầu Tử)

            3- Thiền sư Như Nột

            4- Thiền sư Ướt

            5- Thiền sư Nguyên Đạo

*

1. THIỀN SƯ LƯƠNG GIỚI

Động Sơn - Khai Tổ Tông Tào Động - (807-869)

Sư họ Du quê ở Hội Kê. Thuở nhỏ theo thầy tụng kinh Bát-nhã đến câu ?vô nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý?, Sư chợt lấy tay rờ mặt hỏi thầy:

- Con có mắt, tai, mũi, lưỡi? cớ sao trong kinh nói không? Ông thầy kinh lạ, bảo:

- Ta chẳng phải thầy của ngươi.

Ông giới thiệu Sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ Thiền sư Linh Mặc xin xuất gia. Năm 21 tuổi, Sư đến Tung Sơn thọ giới cụ túc.

*

Sư du phương, trước yết kiến Nam Tuyền Phổ Nguyện. Gặp ngày kỵ trai Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng:

- Cúng trai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay chăng?

Cả chúng đều không đáp được. Sư bước ra thưa:- Đợi có bạn liền đến.

Nam Tuyền bảo:- Chú nhỏ này tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.

Sư thưa:- Hòa thượng chớ ếm kẻ lành thành đứa giặc.

*

Kế đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu, Sư thưa:

- Được nghe Quốc sư Huệ Trung nói ?vô tình thuyết pháp?, con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy?

Qui Sơn bảo: - Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia.

Sư thưa:- Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.

Qui Sơn dựng đứng phất tử, hỏi:- Hội chăng?

Sư thưa:- Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.

Qui Sơn bảo: - Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươi nói.

Sư thưa:- Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?

Qui Sơn bảo:

- Ở Lễ Lăng tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau, có Đạo nhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió, ắt vị ấy là người ngươi kính trọng.

Sư bèn từ Qui Sơn thă?g đến Văn Nham.

*

Đến Vân Nham, Sư hỏi:- Vô tình thuyết pháp, người nào được nghe?

Vân Nham bảo:- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.

Sư hỏi:- Hòa thượng nghe chăng?

Vân Nham bảo:- Ta nếu nghe, ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.

Sư thưa:- Con vì sao chẳng nghe?

Vân Nham dựng phất tử, hỏi:- Lại nghe chăng?

Sư thưa:- Chẳng nghe.

Vân Nham bảo:

-Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp?

Sư hỏi:-Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?

Vân Nham bảo:

- Đâu không thấy kinh Di-đà nói: ?nước, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật niệm Pháp??

Ngay câu này Sư liền tỉnh ngộ, thuật bài kệ:

            Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

            Vô tình thuyết pháp bất tư nghì

            Nhược tương nhĩ thính chung nan hội

            Nhãn xứ văn thinh phương đắc tri.

DỊCH: Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

            Vô tình nói pháp chẳng nghĩ nghì

            Nếu lấy tai nghe trọn khó hội

            Phải đem mắt thấy mới liễu tri.

Sư thưa:- Con còn dư tập (thói quen) chưa hết.

Vân Nham hỏi:- Ngươi từng làm gì?

Sư thưa:- Thánh đế cũng chẳng làm.

Vân Nham hỏi:- Được hoan hỉ chưa?

Sư thưa:- Hoan hỉ thì chă?g không, như trong đống rác lượm được hòn ngọc sáng.

*

Sư từ Vân Nham đi nơi khác. Vân Nham hỏi:- Đi nơi nào?

Sư thưa:- Tuy lìa Hòa thượng mà chưa định chỗ ở?

Văn Nham hỏi:- Phải đi Hồ Nam chăng?

Sư thưa:- Không.

Vân Nham hỏi:- Phải đi về quê chăng?

Sư thưa:- Không.

Vân Nham hỏi:- Bao lâu trở lại?

Sư thưa:- Đợi Hòa thượng có chỗ ở thì trở lại.

Vân Nham bảo:- Từ đây một phen đi khó được thấy nhau.

Sư thưa:- Khó được chẳng thấy nhau.

Sắp đi, Sư lại thưa:

- Sau khi Hòa thượng trăm tuổi, chợt có người hỏi ?tả được hình dáng của Thầy chăng?, con phải đáp làm sao?

Vân Nham lă?g thinh hồi lâu, bảo: - Chỉ cái ấy.

Sư trầm ngâm giây lâu. Vân Nham bảo:

- Xà-lê Lương Giới thừa đương việc lớn phải xét kỹ.

Sư vẫn còn hồ nghi.

*

Sau, Sư nhân qua suối nhìn thấy bóng, đại ngộ ý chỉ trước, liền làm một bài kệ:

            Thiết kỵ tùng tha mít

            Điều điều dữ ngã sơ

            Ngã kim độc tự vãng

            Xứ xứ đắc phùng cừ.

            Cừ kim chánh thị ngã

            Ngã kim bất thị cừ

            Ưng tu nhậm ma hội

            Phương đắc khế như như.

DỊCH: Rất kỵ tìm nơi khác

            Xa xôi bỏ lảng ta,

            Ta nay riêng tự đến

            Chỗ chỗ đều gặp va.

            Và nay chính là ta

            Ta nay chẳng phải va

            Phải nên như thế hội

            Mới mong hợp như như.

Sư đến Phần Đàm yết kiến Thủ tọa Sơ. Thủ tọa dạy chúng có câu:

            Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

            Phật giới, đạo giới bất tư nghì.

DỊCH

            Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

            Phật giới, đạo giới chẳng nghĩ nghì.

Sư hỏi:

- Phật giới, đạo giới chă?g hỏi, người nói Phật giới đạo giới là gì? Chỉ xin nói một câu?

Thủ tọa làm thinh không đáp. Sư giục:- Sao chă?g nói mau?

Thủ tọa bảo:- Nói chẳng được.

Sư thưa:- Nói cũng chưa từng nói, cái gì mà ?nói chẳng được??

Thủ tọa cũng không đáp. Sư thưa:- Phật với đạo chỉ là danh tự, sao chẳng dẫn kinh.

Thủ tọa hỏi:- Kinh nói thế nào?

Sư thưa:- Được ý quên lời (đắc ý vong ngôn).

Thủ tọa bảo:- Vẫn còn đem ý kinh đến đầu tâm làm thành bệnh.

Sư thưa:-Nói Phật giới, đạo giới bệnh lớn nhỏ?

Thủ tọa không đáp được, sáng hôm sau tịch. Thời nhân gọi Sư là hỏi chết Thủ tọa.

*

Đến cuối niên hiệu Đại Trung đời Đường (khoảng 840), Sư trụ núi Tân Phong tiếp dẫn học chúng, về sau giáo hóa thạnh hành ở Động Sơn thuộc Dự Chương Cao An.

Một hôm, nhân ngày thiết trai cúng kỵ Vân Nham, có vị Tăng hỏi:

- Hòa thượng ở chỗ Tiên sư được chỉ dạy gì?

Sư đáp:- Tuy ở trong ấy mà chẳng nhờ Tiên sư chỉ dạy.

Tăng hỏi:- Đã chẳng nhờ chỉ dạy, lại thiết trai cúng dường làm gì?

Sư bảo:- Tuy nhiên như thế, đâu dám trái lại Tiên sư.

Tăng hỏi:

- Hòa thượng trước yết kiến Nam Tuyền tìm được manh mối, vì sao lại thiết trai cúng dường Vân Nham?

Sư bảo:

- Ta chẳng trọng Tiên sư đạo đức, cũng chẳng vì Phật pháp, chỉ trọng chẳng vì ta nói phá.

Sau, Sư quyền khai Ngũ vị để giáo hóa học đồ. Ngũ vị là: 1) Chánh trung thiên. 2) Thiên trung chánh. 3) Chánh trung lai. 4) Thiên trung chí. 5) Kiêm trung đáo. Có bài tụng ngũ vị:

            Chánh trung thiên

            Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền

            Mạc quái tương phùng bất tương thức

            Ẩn ẩn du hoài cựu nhựt hiềm.

            Thiên trung chánh

            Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh

            Phân minh địch diện biệt vô chân

            Hưu cánh mê đầu du nhận ảnh.

            Chánh trung lai

            Vô trung hữu lộ cách trần ai

            Đản năng bất xúc đương kim húy

            Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.

            Thiên trung chí

            Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị

            Hảo thủ du như hỏa lý liên

            Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí

            Kiêm trung đáo

            Bất lạc hữu vô thùy cảm hòa

            Nhân nhân tận dục xuất thường lưu

            Chiết hiệp hoàn qui khôi lý tọa.

DỊCH

            Chánh trung thiên

            Đêm tối canh ba trăng rọi hiên

            Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết

            Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.

            Thiên trung chánh

            Mất sáng lão bà tìm cổ kính

            Rõ ràng đối diện đâu riêng chân

            Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.

            Chánh trung lai

            Đường cái trong không cách trần ai

            (bụi bặm)

            Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ

            Đã thă?g tiền triều cắt lưỡi tài.

            Thiên trung chí

            Hai kiếm đua nhau cần gì tránh

            Tay khéo vẫn như lò lửa sen

            Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí

            Kiêm trung đáo

            Chẳng rơi không, có ai dám hòa

            Người người trọn muốn vượt dòng thường

            Tan hiệp trở về ngồi trong tro.

[Đại ý Ngũ vị: Chánh là chỉ cho Thể, Không, Lý. Thiên là chỉ cho Dụng, Sắc, Sự.

Chánh trung thiên: Chánh vị thể có đủ thiên vị dụng sự tướng. Cái hay đủ là thể, cái bị đủ là dụng. Cho nên lấy cái thể hay đủ định làm quân vị (vị vua). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về vị quân. Người tu mới nhận được dụng đủ nơi thể, sự trong lý, là vị tu hành hữu vi. Về ngũ vị công huân nó thuộc vị thứ nhất. Phối hợp vị thứ của Đại thừa thì cùng vị Tam hiền trước thập địa tương đương.

Thiên trung chánh: Thiên vị dụng có đủ chánh vị thể. Nhân cái dụng hay đủ, định là Thần vị (vị tôi). Trong ngũ vị quân thần nó thuộc về thần vị. Trên phương diện tu hành mà luận, người tu nhận được lý đủ nơi sự, thể sẵn trong dụng, là vị liễu đạt được lý các pháp đều không, chỉ một chân như bình đẳng. Đứng về mặt Đại thừa là kiến đạo.

Chánh trung lai: Các pháp hữu vi như lý tùy duyên, như tánh duyên khởi. Là vị quân thị thần (vua xem tôi) vậy. Người tu nơi đây như lý tu sự, như tánh khởi hành, cùng với pháp thân Bồ-tát từ sơ địa đến thất địa tu hành còn dụng công, tương đương.

Thiên trung chí: Sự dụng toàn hợp nơi thể, trở về vô vi. Tức là vị thần hướng quân (tôi nhằm vào vua). Người tu đến đây trọn ngày tu mà lìa niệm tu, trọn đêm dụng mà chẳng thấy dụng công. Là tương đương với hàng Bồ-tát từ bát địa đến thập địa, trong vị tu đạo vô công dụng.

Kiêm Trung đáo: - Thể dụng đồng đến, sự lý cùng hành. Tức là vị quân thần hiệp (vua tôi hiệp) vậy. Là Phật quả tột cùng tối thượng.

Theo Tào Sơn giải: Chánh vị tức là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giới có muôn hình tượng. Chánh Trung thiên, bỏ lý theo sự. Thiên Trung chánh, bỏ sự về lý. Kiêm đới, thần ứng hợp các duyên, không rơi vào các cõi, chẳng phải nhiễm, tịnh, chánh, thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền, chân tông vô trước. (Tào Sơn ngũ vị Quân Thần chỉ quyết)]

Sư thượng đường dạy chúng:

- Khi Hướng làm sao? Khi Phụng làm sao? Khi Công làm sao? Khi Cộng Công làm sao? Khi Công Công làm sao?

Có vị Tăng đứng ra hỏi:- Thế nào là Hướng?

Sư đáp:- Khi ăn cơm thì sao?

- Thế nào là Phụng?

- Khi trái thì sao?

- Thế nào là Công?

- Khi buông cuốc thì sao?

- Thế nào là Cộng Công?

- Chẳng được sắc.

- Thế nào là Công Công?

- Chẳng chung.

Sư nói tụng:

Hướng

            Thánh chúa do lai pháp đế Nghiêu

            Ngự nhân dĩ lễ khúc long yêu

            Hữu thời náo thị đầu biên quá

            Đáo xứ văn minh hạ thánh triều.

Phụng

            Tịnh tẩy nùng trang vi a thùy

            Tử qui thanh lý khuyến nhân qui

            Bách hoa lạc tận đề vô tận

            Cánh hướng loạn phong thâm xứ đề.

Công

            Khô mộc hoa khai kiếp ngoại xuân

            Đảo ky ngọc tượng sấn kỳ lân

            Nhi kim cao ẩn thiên phong ngoại

            Nguyệt kiểu phong thanh hảo nhật thần.

Cộng công

            Chúng sanh chư Phật bất tương xâm,

            Sơn tự cao hề thủy tự thâm

            Vạn biệt thiên sai minh để sự

            Chá cô đề xứ bách hoa tân.

Công Công

            Đầu giác tài sanh dĩ bất kham      

            Nghĩ tâm cầu Phật hão tu tàm

            Điều điều không kiếp vô nhân hức

            Khẳng hướng nam tuần ngũ thập tam.

DỊCH

Hướng

            Thánh chúa từng dùng pháp đế Nghiêu

            Kẻ hầu theo lễ khúc long yêu

            Chợ ồn có lúc đi qua thẳng

            Đến chỗ văn minh mừng thánh triều.

Phụng

            Tắm sạch máu me đấy là ai?

            Ngươi trong âm hưởng khuyến người về

            Trăm hoa rụng hết, ca không bặt

            Lại đến núi sâu hót mải mê.

Công

            Hoa nở cây khô, xuân kiếp ngoại

            Ngả lưng tượng ngọc, đuổi kỳ lân

            Ngoài ngàn chót núi hôm nay ẩn

            Trăng sáng gió lành buổi sáng tươi.

Cộng Công

            Chúng sanh chư Phật nào lẫn xen

            Núi tự cao chừ nước tự sâu

            Ngàn sai muôn biệt sự quá rõ

            Chá cô vừa hót trăm hoa cười.

Công Công

            Đầu mới mọc sừng việc chẳng nên

            Đem tâm cầu Phật thật hư hèn

            Xa xôi không kiếp nào ai biết

            Chịu hướng về nam năm mươi ba

*

Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) bửa củi, bèn bó một bó củi ném trước mặt Sư. Sư hỏi:- Nặng nhiều ít?

Tuyết Phong thưa:- Người khắp trên mặt đất chung giở không nổi.

Sư hỏi:- Sao đem đến đây được?

Tuyết Phong đáp không được.

*

Có vị Tăng hỏi:

- ?Luôn luôn siêng lau chùi?, vì sao không được y bát? Chẳng biết người nào nên được?

Sư bảo:- Người không vào cửa được.

Tăng thưa:- Vả như người không vào cửa lại được hay không?

Sư bảo:

- Tuy nhiên như thế, chẳng được, chẳng cùng kia từ chối. Nói thẳng rằng ?xưa nay không một vật?, vẫn chưa nên được y bát kia. Ngươi hỏi người nào nên được, nơi đây nên có một chuyển ngữ, hãy nói có chuyển ngữ gì?

Tăng nói đến chín mươi sáu chuyển ngữ mà chưa khế hợp, một chuyển ngữ sau rốt mới khế hợp ý Sư. Sư bảo:

- Xà-lê sao không nói chuyển ngữ ấy trước?

Có vị Tăng hỏi:

- Bình thường Thầy dạy chúng con đi đường chim (điểu đạo), chưa biết thế nào là đường chim?

Sư bảo:- Chẳng gặp một người.

Tăng thưa:- Thế nào là đi?

Sư bảo:- Phải ngay dưới chân không việc khác.

Tăng thưa:- Như đi đường chim, phải là ?bản lai diện mục? chăng?

Sư bảo:- Xà-lê nhân đâu mà điên đảo?

Tăng thưa:- Chỗ nào là con điên đảo?

Sư bảo:- Nếu không điên đảo vì sao lại nhận giặc làm con?

Tăng thưa:-Thế nào là bản lai diện mục?

Sư bảo:- Chẳng đi đường chim.

*

Ban đêm tham vấn mà không thắp đèn. Có vị Tăng ra thưa hỏi xong thối lui. Sư bảo thị giả thắp đèn và gọi vị Tăng vừa thưa hỏi đến. Vị Tăng ấy ra đến gần Sư, Sư bảo:

- Lấy hai ba lượng phấn đến cho Thượng tọa này.

Vị Tăng ấy phủi áo trở lui. Từ đây tỉnh giác bèn đem tất cả y và dụng cụ cho hết, thiết trai cúng dường.

Đến ba năm sau vị Tăng ấy đến từ giã Sư, Sư bảo:

- Đi vui vẻ!

Lúc đó, Tuyết Phong đứng hầu, hỏi Sư:

- Vị Tăng này từ giã bao lâu sẽ trở lại?

Sư bảo:

- Y chỉ biết một lần đi, mà không biết trở lại.

Vị Tăng ấy về nhà tăng đến chỗ để y bát, ngồi tịch. Tuyết Phong đến báo tin cho Sư. Sư bảo:

- Tuy nhiên như thế, so với lão tăng vẫn còn ba đời.

*

Sư thượng đường dạy chúng:

- Lại có người không đền đáp bốn ân ba cõi chăng?

Chúng đều không đáp, Sư lại bảo:

- Nếu chẳng thể nhận ý này, làm sao vượt khỏi hoạn trước sau. Hẳn phải tâm tâm chẳng chạm vật, bước bước không chỗ nơi, thường không gián đoạn mới được tương ưng. Cần phải nỗ lực, chớ nhàn rỗi qua ngày!

*

Tào Sơn Bổn Tịch đến từ Sư, Sư bèn phó chúc:

- Ta ở  chỗ Tiên sư Vân Nham thân được ấn chứng ?Bảo cảnh tam-muội? là yếu chỉ cùng tột, nay phó chúc cho ngươi. Lời rằng:

            Như thị chi pháp                   Phật Tổ mật phó

            Nhữ kim đắc chí                   Nghi thiện bảo hộ.

            Ngân uyển thạnh tuyết         Minh nguyệt tàng lộ

            Loại chi phất tề                    Hỗn tắc tri xứ.

            Ý bất tại ngôn                       Lai cơ diệc phó

            Động thành sào cựu             Sai lạc cố trữ.

            Bối xúc câu phi                   Như đại hỏa tụ

            Đản hình văn thể                 Tức thuộc nhiễm ô.

            Dạ bán chánh minh             Thiên hiểu bất lộ

            Vị vật tác tắc                        Dụng bạt chư khổ.

            Tuy phi hữu vi                      Bất thị vô ngữ

            Như lâm Bảo cảnh               Hình ảnh tương đổ.

            Nhữ bất thị cừ                     Cừ chánh thị nhữ

            Như thế anh nhi                   Ngũ tướng hoàn cụ.

            Bất khứ bất lai                     Bất khởi bất trụ

            Bà bà hòa hòa                      Hữu cú vô cú.

            Chung bất đắc vật               Ngữ vị chánh cố

            Trùng ly lục hào                 Thiên chánh hồi hỗ.

            Điệp nhi vi tam                   Biến tận thành ngũ

            Như trị thảo vị                    Như kim cang Sử.

            Chánh trung diệu hiệp        Sao xướng song cử.

            Thông tông thông đổ          Hiệp đới hiệp lộ

            Thố nhiên tắc cát                Bất khả phạm ngỗ.

            Thiên chân nhi diệu            Bất thuộc mê ngộ

            Nhân duyên thời tiết          Tịch nhiên chiêu trước.

            Tế nhập vô gian                  Đại tuyệt phương sở

            Hào hốt chi sai                   Bất ưng luật lữ.

            Kim hữu đốn tiệm              Duyên lập tông thú

            Tông thú phân hỷ                Tức thị qui củ.

            Thông thông thú cực          Chân thường lưu chú

            Ngoại tịch trung diêu          Hệ câu phục thử.

            Tiên Thánh bi chi                Vị pháp đàn độ

            Tùy kỳ điên đảo                  Dĩ tri vi tố.

            Điên đảo tưởng diệt           Khẳng tâm tự hứa

            Yếu hiệp cổ triệt                 Thỉnh quân tiền cổ.

            Phật đạo thùy thành             Thập kiếp quán thọ

            Như hổ chi khuyết               Như mã chi chú.

            Dĩ hữu hạ liệt                       Bảo kỷ trân ngự

            Dĩ hữu kinh dị                      Ly nô bạch cổ.

            Nghệ dĩ xảo lực                   Xạ trúng bách bộ

            Tiên phong tương trị           Xảo lực hà dư.

            Mộc nhân phương ca          Thạch nữ khởi vũ

            Phi tình thức đáo                Ninh dung tư lự.

            Thần phụng ư quân              Tử thuận ư phụ

            Bất thuận phi hiếu                Bất phụng phi phụ.

            Tiềm hành mật dụng             Như ngu như lỗ

            Đản năng tương tục              Danh chủ trung chủ.

DỊCH

            Pháp như thế ấy                   Phật Tổ thầm trao

            Nay ngươi được đó            Nên khéo giữ gìn.

            Chén bạc đựng tuyết          Trăng sáng che cò

            Loại đó chẳng đồng            Lẫn thì biết chỗ.

            Ý chẳng ở lời                       Cơ đến cũng đến

            Động thành hang ổ              Sai rơi đoái giữ.

            Tránh chạm đều lỗi             Như đống lửa lớn

            Chỉ bày màu vẻ                    Liền thuộc nhiễm ô.

            Nửa đêm sáng tỏ                 Trời sáng chẳng bày

            Vì vật làm phép                   Dùng nhổ các khổ.

            Tuy chẳng hữu vi                 Chẳng phải không nói

            Như đến gương báu             Hình bóng thấy nhau.

            Ngươi chẳng phải y             Y chính là ngươi

            Như trẻ trong nôi                 Năm tướng đầy đủ.

            Chẳng đi chẳng lại              Chẳng dậy chẳng đứng

            Tu oa! Tu oa!                        Có câu không câu

            Trọn chẳng được vật           Vì lời chưa rõ.

            Lại lìa sáu hào                     Thiên chánh hồi hỗ

            Chồng chất làm ba              Biến khắp thành năm

            Như vị cô trị                        Như sử Kim Cang.

            Chánh trung khéo gộp        Nhịp xướng đồng cử

            Thông tông thông đồ          Gộp hẹp gộp rộng

            Yên lặng thì tốt                   Chẳng nên phạm nghịch.

            Thiên chân mà diệu            Chẳng thuộc mê ngộ

            Thời tiết nhân duyên          Lặng lẽ rành rõ.

            Nhỏ vào chẳng hở               Lớn tột chỗ nơi

            Sai trong mảy may             Chẳng hợp luật lữ.

            Nay có đốn tiệm                 Duyên lập tông thú

            Tông thú phân vậy               Tức là qui củ

            Tông không thú tột              Chân thường trôi chảy.

            Ngoài yên trong loạn          Cột ngựa dẹp chuột

            Thánh trước thương đó       Vì làm pháp thí.

            Tùy kia điên đảo                  Lấy nâu làm trắng

            Tưởng điên đảo diệt            Là tâm tự nhận.

            Cốt hiệp vết xưa                   Xin xem xưa trước

            Phật đạo sắp thành               Mười kiếp quán cây.

            Như hang của cọp                Như trạm của ngựa

            Do có thấp kém                   Bàn báu xe quí.

            Do có sợ hãi                        Mèo nhà bò trắng

            Nghề do sức kéo                  Trăm bước bắn trúng.

            Tên nhọn sắp chạm              Sức khéo làm gì?

            Người gỗ vừa ca                   Gái đá đứng múa

            Tình thứ? chẳng đến             Đâu cho suy nghĩ.

            Thần phụng nơi vua              Con thuận nơi cha

            Không thuận chẳng hiếu      Không phụng chẳng phụ.

            Làm thầm dụng kín              Như ngu như ngốc

            Chỉ hay tiếp nối                   Gọi chủ trong chủ.

*

Sư lại bảo: Thời đại mạt pháp người nhiều càn tuệ, nếu cần nghiệm rõ chân ngụy có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy). Một là kiến sấm lậu, căn cơ không rời địa vị, rơi trong biển độc. Hai là tình sấm lậu, dính mắc tại xoay về và bỏ đi, chỗ thấy chênh lệch khô khan. Ba là ngữ sấm lậu, giỏi nghiên cứu mất chân tông, căn cơ mờ mịt trước sau, trí ô trọc trôi chảy. Đối ba thứ này, ngươi phải khéo biết.

Sư lại làm ba bài kệ cương yếu:

            1.- Sao xướng câu hành

                Kim châm song tỏa bị

                 Hiệp lộ ẩn toàn cai

                 Bảo ấn đương phong diệu

                 Trùng trùng cẩm phùng khai.

            2.- Kim tỏa huyền lộ

                Giáo hỗ minh trung ám

                 Công tề chuyển giác nan

                 Lực cùng vong tiến thối

                 Kim tỏa võng man man.

            3.- Bất đọa phàm thánh

                 Sư lý câu bất thiệp

                 Hồi chiếu tuyệt u vi

                 Bối phong vô xảo chuyết

                 Điện hỏa thước nan trung.

DỊCH

            1.- Nhịp xướng đồng hành

            Chìa vàng hai khóa đủ

            Ẩn bày thảy bao trùm

            Ấn báu tài chống gió

            Lụa gấm đứt đường khâu

            2.- Lưới vàng bủa đường huyền

            Lẫn nhau sáng trong tối

            Chuyển giác khó, công bằng

            Sức tột quên lui tới

            Lưới vàng bủa khắp nơi

            3.- Chẳng rơi phàm thánh

            Sự lý đều chẳng mắc

            Soi lại bặt u vi

            Trái gió không khéo vụng

            Điện chớp khó theo tầm.

Sư lại làm kệ rằng:

            Đạo vô tâm hiệp nhân

            Nhân vô tâm hiệp đạo

            Dục thức cá trung ý

            Nhất lão nhất bất lão.

DỊCH

            Đạo không tâm hợp người

            Người không tâm hợp đạo

            Muốn biết ý trong đó

            Một già một chă?g già.

Sư bệnh, sai Sa-di báo tin Vân Cư hay. Sư dặn Sa-di:

- Vân Cư hoặc hỏi Hòa thượng an vui chăng, ngươi chỉ nói ?con đường Vân Nham sắp dứt?. Ngươi nói xong phải đứng xa, e y đánh ngươi.

Sa-di lãnh mệnh đi báo tin, nói chưa dứt lời đã bị Vân Cư đánh một gậy.

*

Sắp viên tịch, Sư bảo chúng:

- Ta có tiếng tăm ở đời, người nào vì ta trừ được?

Cả chúng đều không đáp được, lúc đó ông Sa-di ra thưa:

- Xin pháp hiệu Hòa thượng.

Sư bảo:- Tiếng tăm của ta đã hết.

Có vị Tăng hỏi:- Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?

Sư đáp:- Có.

Tăng thưa:- Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?

Sư bảo:- Lão tăng xem y có phần.

Tăng thưa:- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?

Sư bảo:- Khi Lão tăng xem chẳng thấy có bệnh.

Sư lại hỏi Tăng:

- Lìa cái thân hình hài rỉ chảy này, ngươi đến chỗ nào cùng ta thấy nhau?

Tăng không đáp được

Sư bèn làm bài kệ:

            Học giả hằng sa vô nhất ngộ

            Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ

            Dục đắc vong hình dẫn tung tích

            Nỗ lực ân cần không lý bộ.

DỊCH

            Kẻ học hằng sa ngộ mấy người

            Lỗi tại tầm y trên đầu lưỡi

            Muốn được quên thân bặt dấu vết

            Nỗ lực trong không bước ấy ngươi.

Sư sai cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư chợt mở mắt bảo:

- Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật, là tu hành chân chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?

Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn luyến mến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai, Sư cũng tùng chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: - Tăng-già không việc, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo.

Sư vào trượng thất ngồi yên mà tịch.

Bấy giờ là tháng ba năm thứ mười niên hiệu Hàm Thông nhà Đường (869). Sư thọ sáu mươi ba tuổi, được bốn mươi hai tuổi hạ. Vua sắc phong là Ngộ Bổn Thiền sư.

*

2. THIỀN SƯ TĂNG MẬT

(?-?)

Sư ở chỗ Nam Tuyền đến phiên đập sợi. Nam Tuyền thấy hỏi:

- Làm gì?

Sư đáp:- Đập sợi.

Nam Tuyền hỏi:- Ông lấy tay đập hay chân đập?

Sư thưa:- Thỉnh Hòa thượng nói hộ.

Nam Tuyền bảo:

- Hãy ghi nhớ rõ ràng đợi sau gặp người tác gia sáng mắt đem ra hỏi lại.

*

Sư cùng Động Sơn (Lương Giới) qua suối . Động Sơn bảo:

- Chớ lầm hạ chân.

Sư bảo:- Lầm tức qua chẳng được.

Động Sơn bảo:- Việc chẳng lầm thì sao?

Sư bảo:- Cùng Trưởng lão qua suối.

*

Một hôm, Sư cùng Động Sơn đi cuốc cỏ trong vườn trà. Động Sơn ném cây cuốc xuống đất bảo:

- Hôm nay tôi mệt không còn một chút khí lực.

Sư bảo:- Nếu không khí lực cái gì còn nói được?

Động Sơn bảo:- Huynh sẽ bảo có khí lực là phải chăng?

*

Sư cùng Động Sơn đi núi, chợt thấy một con thỏ bạch chạy qua. Sư khen:

- Giỏi thay!

Động Sơn hỏi:- Cái gì?

Sư bảo:- Đại sĩ bạch y bái tướng.

Động Sơn nói:

- Lão lão đại đại tác gia cá thuyết thoại. (Lớn lớn già già nói ra lời ấy.)

Sư hỏi:- Huynh thì sao?

Động Sơn nói:- Bậc trâm anh thời xưa tạm thời mất hồn.

*

Sư may đồ. Động Sơn thấy, hỏi:- Việc may đồ thế nào?

Sư bảo:- In tuồng may may.

Động Sơn bảo:

- Hai mươi năm đồng hành, nói ra lời ấy đâu có được công phu.

Sư hỏi:- Huynh nói sao?

Động Sơn nói:- Đạo lý này như đại địa phát hỏa.

Sư hỏi:

- Chỗ trí thức đã thông, sao chẳng đi qua lối tắt, thỉnh huynh một lời?

Động Sơn bảo:- Sư bá ý đâu được chấp công.

Sư nhân đây đốn giác, lời nói phi thường.

*

Sư cùng Động Sơn qua cây cầu khỉ, Động Sơn qua trước rồi, giở cây cầu lên bảo:

- Qua đây! Qua đây!

Sư gọi:- Xà-lê Giới!

Động Sơn bèn hạ cây cầu xuống.

*

Bùi Hưu hỏi chúng Tăng:- Cúng dường Phật có đến ăn chăng?

Chúng Tăng đáp:- Như Đại phu tế gia thần.

Bùi Hưu đem câu này đến hỏi Vân Nham. Vân Nham đáp:

- Có bao nhiêu thức ăn đồng thời đem đến.

Vân Nham lại hỏi Sư:- Đồng thời đem đến sau làm gì?

Sư đáp:- Sau dậy trã, bát.

Vân Nham gật đầu.

*

Sau, Sư về trụ tại Thần Sơn thuộc Đàm Châu. Có vị Tăng đến hỏi:

- Thế nào không có chỗ nghe mới là nghe kinh?

Sư bảo:- Ghét hội chăng?

Tăng thưa:- Cần hội.

Sư bảo:- Chưa hiểu nghe kinh.

Tăng hỏi:- Tại sao Nhất địa chẳng thấy Nhị địa?

Sư bảo:- Ông chẳng lầm ư? Ông là địa nào?

*

Có một Cư sĩ hỏi:- Vì việc sanh tử xin Thầy một lời.

Sư bảo:- Ngươi khi nào sanh tử?

Cư sĩ thưa:- Con chẳng hội, thỉnh Thầy nói.

Sư bảo:- Chẳng hội cần một chỗ chết đi.

*

3. THIỀN SƯ KHÁNH CHƯ

Thạch Sương - (806-888)

Sư họ Trần quê ở Tân Cam, Lô Lăng. Năm mười ba tuổi, Sư theo Thiền sư Thiệu Loan xuất gia, hai mươi ba tuổi đến Tung Nhạc thọ giới Cụ túc, sang Đông Lạc học luật. Tuy học luật, Sư vẫn biết là Tông tiệm. Sư lại sang Đại Qui, vào pháp hội làm mễ đầu (tri khố).

*

Một hôm, Sư ở trong liêu sàng gạo, Qui Sơn (Linh Hựu) đến bảo:

- Vật của thí chủ chớ ném bỏ.

Sư thưa:- Chẳng dám ném bỏ.

Qui Sơn lượm trên đất một hạt gạo, bảo:

- Ngươi nói chẳng ném bỏ, cái này từ đâu đến?

Sư lặng câm. Qui Sơn lại bảo:

- Chớ khi một hạt này, trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh.

Sư thưa:

- Trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh, chưa biết một hạt này từ chỗ nào sanh?

Qui Sơn cười hả hả trở về phương trượng.

Đến chiều, Qui Sơn thượng đường bảo chúng:

- Đại chúng! Trong gạo có sâu.

*

Sư đến tham Đạo Ngô, hỏi:- Thế nào chạm mắt là Bồ-đề?

Đạo Ngô gọi:- Sa-di!

Sa-di ứng thanh:- Dạ!

Đạo Ngô bảo:- Thêm nước trong tịnh bình.

Đạo Ngô lại hỏi Sư:- Ông vừa nói cái gì?

Sư thuật lại câu hỏi trước. Đạo Ngô đứng dậy đi. Sư nhân đây tỉnh giác.

*

Đạo Ngô bảo chúng: Ta đau gần muốn chết, bởi trong tâm có một vật để lâu thành bệnh, người nào hay vì ta dẹp nó?

Sư thưa:- Tâm vật đều phi, dẹp đó thêm bệnh.

Đạo Ngô khen:- Hiền thay! Hiền thay!

Làm Tăng mới được hai tuổi hạ, Sư bèn ẩn trong dân gian, vào xóm thợ gốm vùng Lưu Dương, Trường Sa, sáng sớm dạo đi, đến chiều trở về, mọi người không biết được Sư.

Nhân một vị Tăng từ Động Sơn đến. Sư hỏi:

- Hòa thượng có lời gì dạy chúng?

Tăng đáp:

- Hôm giải hạ, Hòa thượng thượng đường dạy: ?Đầu thu cuối hạ, huynh đệ hoặc đi đông đi tây, đi nên đi thẳng đến chỗ muôn dặm không có một tấc cỏ, đi làm gì?

Sư hỏi:- Có người đáp được chăng?

Tăng nói:- Không.

Sư bảo:- Sao chẳng nói ?ra khỏi cửa liền là cỏ?.

Tăng trở về thuật lại cho Động Sơn nghe. Động Sơn bảo:

- Ở Lưu Dương có cổ Phật.

*

Chúng thỉnh Sư trụ trì tại núi Thạch Sương, Sư cũng cho đây là nơi hợp với chí mình.

Đạo Ngô sắp viên tịch giải tán chúng, tìm đến Thạch Sương, lấy Sư làm Trưởng tử. Sư hằng ngày chuyên cần hầu hạ, giữ đúng tư cách thờ thầy. Sau khi Đạo Ngô qui tịch, học chúng qui tụ thường trên năm trăm.

*

Có vị Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?

Sư đáp:- Trong không, một phiến đá.

Tăng lễ bái. Sư hỏi:- Hội chăng?

Tăng thưa:- Chẳng hội.

Sư bảo:- May! Ngươi chẳng hội, nếu hội ngươi đã bị vỡ đầu.

*

Sư ở trong phương trượng, có vị Tăng ở ngoài song hỏi:

- Cách nhau mấy tấc, vì sao chă?g thấy mặt Thầy?

Sư đáp:- Ta nói khắp hết chẳng từng giấu.

Vị Tăng ấy đến hỏi Tuyết Phong:

- Khắp hết chẳng từng giấu, ý chỉ thế nào?

Tuyết Phong đáp:- Chỗ nào chẳng phải Thạch Sương.

Vị Tăng trở lại thuật lời Tuyết Phong cho Sư nghe. Sư bảo:

- Cái lão này sao mà chết gấp.

Tuyết Phong nghe lời này, tự nói:- Lão tăng tội lỗi.

*

Vân Cái đến hỏi:

- Muôn cửa đều đóng chẳng hỏi, khi muôn cửa đều mở thì thế nào?

Sư đáp:- Trong nhà làm việc gì?

Cái đáp:- Không người tiếp được y.

Sư bảo:- Nói đến tột chỗ nói, chỉ nói được tám chín phần.

Cái hỏi:- Chẳng biết Hòa thượng nói thế nào?

Sư đáp:- Không người biết (tiếp) được y.

*

Tú tài Trương Chuyết đến tham vấn, Sư hỏi:- Tú tài tên họ gì?

Tú tài thưa:- Tôi họ Trương tên Chuyết.

Sư bảo:

- Tìm cái xảo (khéo) còn không thể được, cái Chuyết (vụng) từ đâu lại?

Chuyết chợt tỉnh ngộ, trình kệ:

            Quang minh tịch chiếu biến hà sa

            Phàm thánh hàm linh cộng ngã gia.

            Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện

            Lục căn tài động bị vân già.

            Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh

            Thú hướng chân như diệc thị tà.

            Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại

            Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.

DỊCH

            Quang minh lặng chiếu khắp hà sa

            Phàm thánh hàm linh vốn chung nhà.

            Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện

            Sáu căn vừa động bị che lòa.

            Phá trừ phiền não càng thêm bệnh

            Tìm đến chân như âu cũng tà.

            Tùy thuận các duyên không chướng ngại.

            Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.

*

Bùi tướng công đến. Sư nắm giở cái hốt của Bùi Công hỏi:

- Cái này ở trong tay Thiên tử gọi là Khuê, ở trong tay quan nhân gọi là Hốt, ở trong tay lão tăng gọi nó là gì?

Bùi Công lặng câm. Sư giữ cái hốt lại.

*

Sư dạy chúng:

- Kẻ sơ học chưa gặp được việc lớn, trước phải nhận ra đầu thì đuôi tự đến. Sơ Sơn hỏi:

- Thế nào là đầu?

Sư đáp:- Phải thẳng biết có.

- Thế nào là đuôi?

- Dẹp hết hiện giờ.

- Khi có đầu không đuôi thì sao?

- Mửa được vàng ròng kham làm việc gì?

- Khi có đuôi không đầu thì sao?

- Vẫn còn nương tựa.

- Khi đầu đuôi được cân xứng thì sao?

- Y chẳng khỏi giải hội, cũng chưa cho y ở.

*

Sư ở Thạch Sương hai mươi năm, Học chúng thường ngồi chẳng nằm, ngồi thă?g như gốc cây. Thời nhân gọi là ?chúng cây khô?.

Vua Đường Hiến Tông nghe đạo hạnh của Sư, sai sứ đem tử y ban cho. Sư cố từ chối không nhận.

*

Niên hiệu Quang Khải năm thứ tư (889), ngày hai mươi tháng hai năm Mậu Thân, Sư có chút ít bệnh, báo tin chúng hay sắp tịch, thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi chín tuổi hạ.

Vua sắc phong là Phổ Hội Đại sư, tháp hiệu Kiến Tướng.

*

4. THIỀN SƯ ĐẠI ĐỒNG

Núi Đầu Tử - (819-914)

Sư họ Lưu người Hoài Ninh, Châu Thơ. Thuở bé, Sư xuất gia với Thiền sư Mãn ở Bảo Đường. Ban đầu, Sư tập quán hơi thở, kế xem kinh Hoa Nghiêm phát minh Tánh hải, lại đến núi Thúy Vi nơi hội của Thiền sư Vô Học tham vấn và được thâm ngộ.

Một hôm Sư hỏi:- Thế nào là Phật lý?

Thiền sư Vô Học đáp:-Phật tức chẳng lý.

- Chẳng rơi vào không chăng?

Thiền sư Vô Học lại dùng bài kệ sấm ký rằng:

Phật lý hà tằng lý                              Phật lý đâu từng lý

Chân không hựu bất không.             Chân không lại chẳng không.

Đại-Đồng cư tịch trụ                        Đại-Đồng ở tịch trụ

Phu diễn ngã sư tông.                       Bày diễn đạo cha ông.

Sau, Sư về ở ẩn tại núi Đầu Tử cất am tranh tên Tịch Trụ.

*

Một hôm, Triệu Châu Tùng Thẩm đến huyện Đồng Thành, Sư cũng có việc xuống núi, giữa đường hai người gặp nhau mà không biết nhau. Triệu Châu hỏi thăm những người cư sĩ biết là Đầu Tử, liền nghịch rằng:

- Phải chủ núi Đầu Tử chăng?

Sư đáp:- Cho tôi xin tiền trà muối.

Triệu Châu đi thẳng đến am trước, ngồi chờ. Sư mang một bình dầu về am.Triệu Châu hỏi:

- Nghe danh Đầu Tử đã lâu, đến đây chỉ thấy ông già bán dầu.

Sư đáp:- Thầy chỉ thấy ông già bán dầu, là không biết Đầu Tử.

- Thế nào là Đầu Tử?

Sư đưa bình dầu lên đáp:-Dầu! dầu!

*

Triệu Châu hỏi:- Khi ở trong chết được sống là thế nào?

Sư đáp:- Chẳng cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến.

Triệu Châu nói:- Ta sớm là trắng, y lại là đen.

*

Từ đó, đạo hạnh của Sư đồn khắp, khách tâ? đạo đua nhau kéo đến.

Sư bảo chúng rằng:

- Các ngươi đến đây nghĩ tìm ngôn ngữ hay đẹp, góp lời văn vẻ, trong miệng quí có nói ra, lão già này khí lực yếu kém, môi lưỡi chậm lụt. Nếu các ngươi hỏi ta, ta tùy câu hỏi mà đáp. Đối đáp không có gì huyền diệu có thể kịp được ngươi, cũng không dính gì đến tai ngươi. Trọn không nói hướng thượng hướng hạ, có Phật có Pháp, có phàm có thánh. Trong chỗ các ngươi bị trói buộc, biến hiện ngàn thứ, thảy đều khiến các ngươi sanh hiểu rồi tự mang gánh lấy, sau này tự làm tự chịu. Trong ấy không có gì cho các ngươi, chẳng dám lừa dối các ngươi, không ngoài không trong, có thể nói được na ná. Các ngươi lại biết chăng?

*

Tuyết Phong (Nghĩa Tồn) đứng hầu, Sư chỉ một phiến đá trước am bảo:

- Chư Phật ba đời thảy ở trong ấy.

Tuyết Phong thưa:-Nên biết có cái chẳng ở trong ấy.

Sư bảo:- Chẳng thích, thùng sơn.

*

Một hôm, Tuyết Phong theo Sư đi thăm am chủ Long Miên. Tuyết Phong hỏi: ?Đường Long Miên đi về phía nào?? Sư lấy cây gậy chỉ tới trước mặt. Tuyết Phong hỏi: ?Đi bên đông hay đi bên tây?? Sư bảo: ?Chẳng thích! Thùng sơn.?

*

Hôm khác, Tuyết Phong hỏi:

- Khi một chùy liền thành thì thế nào?

Sư đáp:- Chẳng phải kẻ tánh thô tháo.

- Khi chẳng nhờ một chùy thì sao?

- Chẳng thích, thùng sơn.

*

Sư ngồi trong am, Tuyết Phong hỏi: ?Hòa thượng độ này có người tham vấn chăng?? Sư với lấy cây cuốc dưới sàn ném trước mặt Tuyết Phong. Tuyết Phong thưa: ?Thế ấy, chính chỗ này cuốc đi.? Sư bảo: ?Chẳng thích, thùng sơn.?

*

Tuyết Phong từ ra đi, Sư tiễn ra cửa, liền gọi: ?Đạo giả? Tuyết Phong ngoái đầu lại: ?dạ!? Sư bảo: ?đi đường vui vẻ?.

*

Có vị Tăng hỏi Triệu Châu: ?Trẻ con mới sanh có đủ sáu thức chăng?? Triệu Châu đáp: ?Trên dòng nước chảy xiết, đá cầu.? Sau, vị Tăng ấy đến hỏi Sư: ?Trên dòng nước chảy xiết, đá cầu, ý nghĩa thế nào?? Sư đáp:

- Niệm niệm chẳng tạm dừng.

*

Có vị Tăng hỏi Sư:- Cũng đồng là nước, tại sao ở biển mặn, ở sông lạt?

Sư đáp:- Trên trời sao, dưới đất cây.

- Hòa thượng lâu nay ở đây có cảnh giới gì?

- Bé gái chừa hai chỏm, đầu bạc như tơ.

- Thế nào là Tỳ-lô (pháp thân)?

- Đã có danh tự.

Thế nào là Tỳ-lô sư (thầy Pháp thân)?

- Khi chưa có Tỳ-lô hội lấy.

- Khi bốn núi (sanh, lão, bệnh, tử) ép ngặt làm thế nào?

- Năm uẩn đều không.

- Khi một niệm chưa sanh là thế nào?

- Thật là lời nói dối.

- Trên trời dưới trời chỉ ta là hơn hết, thế nào là ta?

- Xô té ông già Hồ (Phật) có lỗi gì?

- Thế nào là Hòa thượng Sư?

- Đón đó chẳng thấy đầu kia, theo đó chẳng thấy hình kia.

- Khi mặt trời mặt trăng chưa sáng, Phật cùng chúng sanh ở chỗ nào?

- Thấy Lão tăng giận liền nói giận, thấy Lão tăng mừng liền nói mừng.

*

Sư hỏi một vị Tăng mới đến:- Ở đâu đến?

Tăng thưa:- Ở núi Đông núi Tây lễ Tổ sư mới đến.

Sư bảo:- Tổ sư không ở núi Đông núi Tây.

Tăng lặng câm

*

Trà đầu (trưởng phòng trà) vào phương trượng thưa hỏi. Sư bảo:

- Hãy đi, đợi khi không người sẽ đến, ta vì xà-lê nói.

Hôm sau, Trà đầu rình đợi lúc không người đến thưa: ?Thỉnh Hòa thượng nói.? Sư bảo: ?Lại gần đây.? Trà đầu đến gần. Sư bảo: ?Liền chẳng đặng nói lại cho người.?

*

Tăng hỏi:- Sư tử là vua trong loài thú, tại sao bị sáu trần nuốt?

Sư đáp:- Chẳng làm, tột không ngã nhân.

*

Sư ở núi Đầu tử hơn ba mươi năm, những Thiền khách qua lại tham vấn thường đầy cả thất. Sư dùng biện tài vô úy tùy hỏi liền đáp, ứng cơ đối đáp lời lẽ tinh vi rất nhiều, đây lược ghi ít phần mà thôi.

*

Đời Đường niên hiệu Trung Hòa (881) giặc cướp nổi dậy, dân chúng tán loạn, có bọn cuồng đồ cầm đao lên núi, hỏi Sư: ?Ở đây làm gì?? Sư tùy nghi thuyết pháp, bọn chúng nghe đều bái phục, cổi y phục cúng dường, rồi giải tán.

*

Thời Ngũ đại niên hiệu Càn Hóa năm thứ tư (914) ngày mùng sáu tháng tư, Sư có chút ít bệnh. Đại chúng rước thầy thuốc.

Sư bảo chúng:

- Động tác của tứ đại họp tan là phép thường, các ngươi chớ lo, ta tự giữ lấy.

Nói xong, Sư ngồi kiết già an nhiên thị tịch. Thọ  chín mươi sáu tuổi, vua ban hiệu là Từ Tế Đại sư, tháp hiệu ?Chân Tịch?.

*

5. THIỀN SƯ THIỆN HỘI

Giáp Sơn - (741-817)

Sư họ Liêu, quê ở Hiện Đình, Quảng Châu. Lức chín tuổi, Sư xuất gia tại núi Long Nha, Lễ Châu. Sau, Sư đến Giang Lăng tập học kinh luận chuyên luyện tam học và gắng sức tham thiền. Sư trụ trì tại Kinh Khẩu (Lễ Châu), một hôm nhân Đạo Ngô (Viên Trí) đi đến, rồi mách Sư đến tham vấn Hoa Đình Thuyền Tử, do đó được ngộ đạo. Sư trốn ẩn nơi vắng vẻ, mà học giả vẫn tấp nập tìm đến.

*

Đời Đường niên hiệu Hàm Thông thứ 11 (870), toàn chúng thỉnh Sư đến trụ tại Giáp Sơn, nơi đây liền biến thành Thiền viện.

Sư thượng đường dạy chúng:

- Từ có Tổ đến đây, người ta lầm hội, nối  nhau đến nay đều lấy lời Phật, Tổ làm mô phạm dạy người. Như thế, trở thành kẻ cuồng người vô trí rồi. Kia chỉ bày tỏ cho các ngươi: ?Không pháp vốn là đạo, đạo không một pháp; không Phật có thể thành, không Đạo có thể đắc, không Pháp có thể xả.? Cho nên nói: ?trước mắt không pháp, ý tại trước mắt (mục tiền vô pháp, ý tại mục tiền)?. Kia chẳng phải là pháp trước mắt. Nếu nhằm bên Phật, Tổ mà học, người này chưa có mắt sáng, đều thuộc về pháp có chỗ nương không được tự tại, vẫn là thức tánh sanh tử mênh mang không có phần tự do.

Ngàn muôn dặm tìm thiện tri thức, cốt có cái thấy chân chánh hằng thoát khỏi hư dối, định lấy cái sanh tử trước mắt xem là thật có hay là thật không? Nếu có người định được lẽ này, hứa nhận ông sẽ giải thoát.

Người thượng căn ngay lời nói liền rõ đạo; kẻ căn khí bậc trung, bậc hạ chạy lăng xăng như sóng bủa. Sao chẳng nhằm trong sanh tử mà an định? Sẽ nhận lấy chỗ nào? Lại nghi Phật nghi Tổ thế cái sanh tử cho ông được sao? Người có trí sẽ cười ông. Nghe kệ đây:

Lão trì sanh tử pháp                       Nhọc gìn pháp sanh tử

Duy hướng Phật biên cầu.             Chỉ nhằm bên Phật cầu

Mục tiền mê chánh lý                    Trước mắt lầm lý chánh

Bác hỏa mích phù âu.                     Trong lửa bọt có đâu.

Có vị Tăng hỏi:

- Từ trước lập ý Tổ và ý kinh, vì sao độ này Hòa thượng nói không?

Sư đáp:- Ba năm chẳng ăn cơm, trước mắt không người đói.

- Đã không người đói, tại sao con chẳng ngộ?

- Chỉ vì ngộ mê đuổi Xà-lê. Sư nói tụng:

Minh minh vô ngộ pháp                  Rõ ràng không pháp ngộ

Ngộ pháp khước mê nhân               Pháp ngộ đuổi người mê.

Trường tho lưỡng cước thùy          Duỗi thẳng hai chân ngủ

Vô ngụy diệc vô chân.                     Không ngụy cũng không chân.

*

Sư có nuôi một đạo nhỏ theo làm thị giả đã lâu; sau khi Sư dừng trụ bèn khiến đi hành khước. Ông dạo đi khắp các Thiền hội mà không có chỗ dụng tâm, nghe thầy hợp chúng dạy đạo nổi danh vang dậy. Ông bèn trở về hầu hạ, thưa:

- Hòa thượng có việc kỳ đặc như thế, tại sao trước chẳng chỉ dạy cho con?

Sư bảo:

- Ngươi nấu cơm thì ta nhóm lửa, ngươi bưng dọn thì ta giở chén, có chỗ nào mà ta cô phụ ngươi?

Ông đạo nhân đây ngộ nhập.

*

Có Đại đức đến hởi:

- Về ý kinh thì con chẳng nghi, chỉ việc trong Thiền môn là thế nào?

Sư đáp:- Lão tăng cũng chỉ biết biến sống thành chín.

- Thế nào là lý thật tế?

- Cây trên đá không rễ, núi ngậm mây chẳng động.

- Thế nào là sư tử ra khỏi hang?

- Hư không chẳng hình bóng, dưới chân mây đồng nội dậy.

*

Trong hội của Sư có một vị Tăng đi đến Thạch Sương, vào cửa liền nói: ?Chẳng xét.? (bất thẩm) Thạch Sương bảo: ?Chẳng cần Xà-lê.? Ông liền nói: ?Thế ấy thì trân trọng.? Ông lại đi đến Nham Đầu, cũng nói: ?Chẳng xét.? Nham Đầu bèn ?hư! hư!? Ông nói: ?Thế ấy thì trân trọng.? Ông vừa bước trở ra, Nham Đầu bảo: ?Tuy là hậu sanh cũng khá sắp xếp.?

Ông về tường thuật cho Sư.

Hôm sau, Sư lên tòa bèn gọi:

- Vị Tăng hôm qua từ Thạch Sương, Nham Đầu về ra xem! Vị Tăng bước ra thuật lại toàn chúng nghe. Tăng thuật xong, Sư bảo:

- Đại chúng lại hội chăng? Nếu không người nói, Lão tăng chẳng tiếc hai sợi lông mày để nói ra; Thạch Sương tuy có đao sát nhân mà không có kiếm hoạt nhân (người sống). Nham Đầu có đao sát nhân cũng có kiếm hoạt nhân.

*

Tăng hỏi:- Thế nào là cảnh Giáp Sơn?

Sư đáp:- Vượn bồng con về ngọn núi xanh.

Chim ngậm hoa rơi trước đỉnh biếc.

*

Đời Đường niên hiệu Trung Hòa năm đầu (881) ngày mùng bảy tháng mười một, Sư gọi Chủ sự bảo:

- Nay chất huyễn của ta khi hết liền đi, các ông khéo gìn giữ như ngày ta còn, chớ giống như người đời sinh ra buồn thảm.

Ngay đêm ấy, Sư an nhiên mà tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi. Vua phong là Truyền Minh Đại sư, tháp hiệu Vĩnh Tế.

]

     
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM