ĐỜI THỨ NĂM SAU LỤC TỔ
B.
PHÁI HOÀI NHƯỢNG (tt)
9. HƯƠNG
NGHIÊM TRÍ NHÀN
(724-814)
Sư quê ở Thanh
Châu, chán tục xuất gia, đi tham vấn các nơi. Khi ở chỗ Tổ Bá
Trượng, Sư tánh thức minh mẫn, tham thiền chẳng ngộ. Đến Tổ Bá
Trượng tịch, Sư theo tham học với Qui Sơn Linh Hựu.
Một hôm Qui Sơn
bảo:
- Ta nghe ngươi ở
chỗ Tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, đó
là ngươi thông minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng là cội gốc sanh
tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem?
Sư bị một câu hỏi
này mờ mịt không đáp được. Trở về liêu, Sư soạn hết sách vở
đã học qua, tìm một câu đáp trọn không thể có. Sư than:
?Bánh vẽ chẳng no
bụng đói.? Đến cầu xin Qui Sơn nói phá. Qui Sơn bảo:
- Nếu ta nói cho
ngươi, về sau ngươi sẽ chửi ta; ta nói là việc của ta đâu can hệ
gì đến ngươi?
Sư bèn đem những
sách vở đã thu thập được đồng thời đốt hết. Sư nói:
?Đời này chẳng
học Phật pháp nữa, chỉ làm Tăng thường làm việc cơm cháo, khỏi
nhọc tâm thần.? Sư khóc từ giã Qui Sơn ra đi.
*
Thẳng đến Nam Dương
chỗ di tích Quốc sư Huệ Trung. Sư trụ tại đây. Một hôm nhân cuốc
cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang tiếng, Sư
chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Sư trở về tắm gội thắp hương nhắm
hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca tụng rằng: ?Hòa thượng từ bi ơn như cha
mẹ, khi trước nếu vì con nói rồi thì làm gì có ngày nay.? Sư làm
bài tụng:
Nhất
kích vong sở tri
Cách
bất giả tu trì.
Động
dung dương cổ lộ
Bất đọa
thiểu (tiểu) nhiên ki (cơ).
Xứ xứ
vô tung tích
Thanh
sắc ngoại oai nghi.
Chư nhân
đạt đạo giả
Hàm
ngôn thượng thượng ki (cơ).
(Một
tiếng quên sở tri
Chẳng
cần phải tu trì.
Đổi sắc
bày đường xưa
Chẳng
rơi cơ lặng yên.
Nơi nơi
không dấu vết
Oai nghi
ngoài sắc thanh.
Những
người bậc đạt đạo
Đều gọi
thượng thượng cơ.)
*
Qui Sơn nghe được,
nói với Ngưỡng Sơn: ?Kẻ này đã triệt ngộ.? Ngưỡng Sơn thưa: ?Đây
là máy tâm ý thức trước thuật được, đợi con đến nơi khám phá
mới chắc.?
Ngưỡng Sơn đến
thăm Sư, bảo:
- Hòa thượng khen
ngợi Sư đệ đã phát minh đại sự, thử nói tôi nghe?
Sư đọc bài tụng
trước cho Ngưỡng Sơn nghe. Ngưỡng Sơn bảo:
- Đó là do trước
kia học tập ghi nhớ mà thành, nếu thật chánh ngộ hãy làm bài
tụng khác.
Sư nói tụng:
Khứ
niên bần vị thị bần
Kim niên
bần thủy thị bần
Khứ
niên bần du hữu trác chùy chi địa
Kim niên
bần chùy dã vô.
(Năm xưa
nghèo chưa thật nghèo
Năm nay
nghèo mới thật nghèo
Năm xưa
nghèo vẫn còn có đất cắm dùi
Năm nay
nghèo dùi cũng không.)
Ngưỡng Sơn bảo:- Sư
đệ ngộ Như Lai thiền mà chưa ngộ Tổ sư thiền.
Sư lại nói bài
tụng:
Ngã hữu
nhất ki (cơ) Ta có một ki (cơ)
Thuấn
mục thị y Chớp mắt chỉ y
Nhược
nhân bất hội Nếu người chẳng hội
Biệt
hoán Sa-di Riêng gọi Sa-di.
Ngưỡng Sơn gật đầu
và về thưa lại Qui Sơn:
- Đáng mừng! Sư đệ
Trí Nhàn đã ngộ Tổ sư thiền.
*
Sau, Sư về trụ tại
Hương Nghiêm, Tăng chúng nghe danh kéo nhau đến tham vấn.
Sư thượng đường:
- Đạo do ngộ mà
đạt, chẳng tại ngữ ngôn, huống là thấy miên mật rỡ rỡ chưa
từng cách rời, chẳng nhọc tâm ý. Tạm nhờ hồi quang phản chiếu,
hằng ngày công dụng trọn vẹn, kẻ mê thì tự trái.
*
Tăng hỏi:
- Khi chẳng mộ chư
thánh, chẳng trọng tánh linh mình thì thế nào?
Sư đáp:- Muôn cơ
thôi bỏ, ngàn thánh chẳng đeo.
Khi ấy có Sơ Sơn ở
trong chúng phát tiếng ụa, hỏi:
- Ấy là tiếng gì?
Sư hỏi:- Ai đó?
Chúng thưa:- Sư
thúc.
Sư hỏi:- Chẳng
bă?g lòng Lão tăng sao?
Sơ Sơn bước ra
nói:- Phải.
Sư hỏi:- Ngươi nói
được chăng?
Sơ Sơn nói:- Nói
được.
- Ngươi thử nói
xem.
- Nếu bảo tôi nói
cần phải đáp lại lễ thầy trò mới được.
Sư liền bước xuống
tòa lễ bái, hỏi lại câu trước.
Sơ Sơn nói:
- Sao chẳng nói,
khẳng (nhận) trọng chẳng được toàn.
Sư bảo:
- Ngươi nói thế
ấy, ba mươi năm tiêu ngược, dù ở núi không có củi đốt, ở gần
nước không có nước uống. Rõ ràng nhớ lấy!
(Sau Sơ Sơn bị bệnh
mửa hai mươi bảy năm mới bớt, còn ba năm sau mỗi khi ăn xong
cũng lấy tay móc cho mửa ra. Đúng như lời Hương Nghiêm thọ ký.)
Tăng hỏi: ?Thế
nào là đạo?? Sư đáp: ?Rồng ngâm trong cây khô.? - ?Con chẳng
hội.? Sư bảo: ?Tròng con mắt trong đầu lâu.? Hỏi: ?Ly tứ cú
tuyệt bách phi, thỉnh Hòa thượng nói?? Sư đáp: ?Trước thợ săn
chẳng được nói giới của Bổn sư.?
*
Sư bảo chúng:
Ví như người leo
lên cây cao, dưới là vực thẳm ngàn thước. Người ấy miệng ngậm
cành cây, chân không đạp chỗ nào, tay không bám vào đâu. Chợt
có người đến hỏi ?ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?. Nếu mở miệng đáp
thì mất mạng nát thân, bằng chẳng đáp thì phụ lòng người hỏi.
Chính khi ấy phải làm sao?
Khi ấy có Thượng
tọa Chiêu bước ra thưa:
- Chẳng hỏi khi đã
leo lên cây, lúc chưa leo lên cây thì thế nào?
Sư cười rồi thôi.
*
Có vị Tăng từ Qui
Sơn đến, Sư hỏi: ?Những ngày gần đây Hòa thượng có dạy những
câu gì?? Tăng thưa: ?Có người hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ
sang, Hòa thượng liền dựng đứng phất tử.? Sư hỏi tiếp: ?Trong ấy
huynh đệ hiểu ý Hòa thượng thế nào?? Tăng thưa: ?Trong ấy bàn
với nhau rằng ?chính nơi sắc mà rõ được tâm, gá nơi vật mà hiển
được lý?.? Sư bảo: ?Hội thì liền hội, chẳng hội mắc kẹt nơi ấy
chết gấp.? Tăng lại hỏi Sư: ?Ý Thầy thế nào?? Sư liền giở phất
tử lên.
Sư có làm bài kệ:
Tử thốt
mẫu trác Con kêu mẹ mổ
Tử giác
mẫu xác Con biết mẹ vỏ
Tử mẫu
câu vong Con mẹ đều quên
Ứng
duyên bất thát Hợp duyên chẳng lố.
Sư tùy cơ dạy
chúng những lời đơn giản, và có làm trên hai trăm bài tụng đối
cơ ứng dụng không theo qui luật, các nơi truyền bá rất thạnh.
*
10. THIỀN
SƯ THƯỜNG THÔNG
Ở
núi Tuyết Đậu - (834-905)
Sư họ Lý quê ở
Hình Châu, vào núi Thước xuất gia. Năm hai mươi tuổi, Sư trở về
chùa Khai Nguyên ở bổn Châu thọ giới, ở đây học kinh luật bảy
năm. Sư tự than: ?Ma-đằng sang Hán dịch ra văn này, Đạt-ma đến
Lương nói rõ việc gì? Sư bèn cất bước du phương, đến tham vấn
Hòa thượng Trường Sa.
Trường Sa hỏi:-
Ngươi người ở xứ nào?
Sư thưa:- Ở Hình
Châu.
- Ta bảo chẳng
phải từ kia đến.
- Hòa thượng đã
từng ở đây chăng?
Trường Sa chấp
nhận, cho vào thất.
Sau, Sư đến Động
Sơn, Thạch Sương thấy pháp không có vị khác. Đến niên hiệu Hàm
Thông, Sư dạo Tuyên Thành, Quận thú lập Thiền uyển nơi núi Ta
Tiên để hiệu Đoàn Thành Viện thỉnh Sư trụ trì. Tăng chúng tìm
đến tham vấn
*
Tăng hỏi: ?Thế
nào là mật thất?? Sư đáp: ?Chẳng thông gió.? Tăng hỏi: ?Thế
nào là người trong mật thất?? Sư đáp: ?Các thánh tiên xem chẳng
thấy.? Lại nói: ?Ngàn Phật không thể nghĩ, muôn thánh chẳng thể
bàn, càn khôn hoại mà không hoại, hư không bao mà chẳng bao,
tất cả so sánh không bằng, ba đời xướng mà chẳng khởi.?
*
Khoảng niên hiệu
Quang Khải (883-885) giặc cướp nổi loạn, Sư đem đồ chúng đến Tứ
Minh. Đến niên hiệu Đại Thuận năm thứ hai (891), Quận thú thỉnh
Sư ở núi Tuyết Đậu, ở đây sự giáo hóa được hưng thạnh.
*
Niên hiệu Thiên
Hựu năm thứ hai (905) tháng bảy, Sư có chút ít bệnh, nhóm chúng
thắp hương phó chúc xong, chấp tay thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.
*
11. NI LIỄU
NHIÊN Ở MẠT SƠN
(?_?)
Hòa thượng Quán
Khê Nhàn đi du phương đến núi này, tự nói: ?Nếu tương đương thì
ở, chẳng vậy thì xô ngã giường thiền. Nhàn vừa vào Tăng
đường, Liễu Nhiên sai thị giả đến hỏi: -Thượng tọa du phương
đến? hay vì Phật pháp đến?. Nhàn đáp: -Vì Phật pháp đến.? Liễu
Nhiên lên tòa, Nhàn đến tham. Liễu Nhiên hỏi: ?Hôm nay Thượng
tọa rời ở đâu đến? Nhàn đáp: -Rời cửa đường đến.? Liễu Nhiên
bảo: ?Sao chẳng đậy lại?? Nhàn không đáp được, mới lễ bái hỏi:
?Thế nào là Mạt Sơn?? Liễu Nhiên đáp: -Chẳng bày đảnh.? Nhàn
hỏi: -Thế nào chủ Mạt Sơn?? Nhiên đáp: ?Chẳng phải tướng nam
nữ.? Nhàn nạt rằng: -Sao chẳng biến đi?? Nhiên đáp: -Chẳng phải
thần, chẳng phải quỉ, biến cái gì?? Nhàn mới kính phục, ở lại
làm Tri viên ba năm.
*
Có vị Tăng đến
tham vấn, Nhiên bảo: ?Rất lam lũ vậy?. Tăng đáp: -Tuy nhiên như thế vẫn là
sư tử con.? Nhiên bảo: -Đã là sư tử con, vì sao bị Văn-thù cỡi? Tăng không
đáp được. Tăng hỏi: -Thế nào là tâm cổ Phật?. Nhiên đáp: -Thế giới nghiêng
đổ?
Tăng hỏi: ?Thế
giới vì sao nghiêng đổ? Nhiên đáp: -Trọn không thân ta.?
*
12. ĐỨC SƠN
TUYÊN GIÁM
(780-865)
Sư họ Chu quê ở
Kiếm Nam, Giản Châu, xuất gia lúc hai mươi tuổi, cũng năm ấy thọ
giới cụ túc. Sư nghiên cứu tinh thâm Luật tạng, thông suốt chỉ
thú các kinh thuộc Tánh tông và Tướng tông. Vì thường giảng kinh
Kim Cang Bát-nhã, nên thời nhân gọi Sư là Chu Kim Cang. Sư thường
nói với đồng học: ?Một sợi lông nuốt bể cả, tánh bể không
thiếu; hạt cải nhỏ ném trên mũi nhọn, mũi nhọn chẳng động,
học cùng không học chỉ có ta biết thôi.?
Nghe phương Nam
Thiền tông thạnh hành, Sư bất bình nói: ?Kẻ xuất gia muôn kiếp
học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật, chẳng
còn được thành Phật. Những kẻ ma ở phương Nam dám nói ?trực chỉ
nhân tâm kiến tánh thành Phật?. Ta phải ruồng tận hang ổ của
chúng, diệt hết những giống ấy để đền ơn Phật.? Sư bèn khăn
gói lên đường mang theo bộ Thanh Long sớ sao, ra khỏi đất Thục,
nhắm Lễ Dương tiến bước.
Trên đường, Sư gặp
một bà già bán bánh, bèn dừng nghỉ chân và bảo bà lấy ít cái
bánh điểm tâm. Bà già chỉ gánh của Sư hỏi: ?Gói ấy là sách vở
gì?? Sư bảo: ?Thanh Long sớ sao.? Bà hỏi: ?Thầy thường giảng kinh
gì?? Sư đáp: ?Kinh Kim Cang.? Bà nói: ?Tôi có một câu hỏi, nếu
Thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp
chẳng được, mời Thầy đi nơi khác?? Sư chịu. Bà hỏi: ?Kinh Kim Cang
nói ?quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị
lai tâm bất khả đắc?, xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào?? Sư đáp
không được, bèn hỏi đường lên Long Đàm.
*
Đến Pháp đường
(nhà nói pháp) gặp Long Đàm, Sư nói: ?Lâu nay nghe danh Long Đàm,
đi đến nơi Đàm (đầm) chẳng thấy, mà Long (rồng) cũng không
hiện.? Sùng Tín bảo: ?Ngươi đã gần đến Long Đàm.? Sư không đáp
được, liền dừng lại đây.
*
Một đêm, Sư đứng
hầu. Sùng Tín bảo: ?Đêm khuya sao chẳng xuống?? Sư kính chào bước
ra, lại trở vào, thưa: ?Bên ngoài tối đen.? Sùng Tín thắp đèn
cầy đưa Sư. Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó, Sư
đại ngộ, liền lễ bái. Sùng Tín hỏi: ?Ngươi thấy cái gì?? Sư thưa:
?Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư lão Hòa thượng trong
thiên hạ.?
Hôm sau, Sùng Tín
lên tòa bảo chúng:
- Trong chúng đây
có một gã răng như kiếm bén, miệng tợ chậu máu, đánh một gậy
chẳng ngó lại, khi khác y lên ngọn núi cao vót dựng lập đạo
của ta.
*
Sư đem bộ sớ sao
chất đống trước pháp đường (nhà nói pháp) nổi lửa đốt, nói:
- Tột cùng các
biện luận siêu huyền như một sợi lông ném trong hư không; hết
sạch các trọng yếu ở đời in một nhỏ nước gieo trong hồ lớn. Sư
lễ từ Sùng Tín đi du phương.
*
Đến Qui Sơn, Sư vào
pháp đường từ phía tây đi qua phía đông, lại từ phía đông sang
phía tây, hỏi: ?Có chăng? Có?chăng?? Qui Sơn ngồi lặng lẽ không
ngó tới. Sư nói: ?không, không?, liền đi thẳng ra cửa tự nói:
?Tuy nhiên như thế cũng chẳng đặng thô xuất.? Sư bèn đầy đủ oai
nghi đi trở vào. Vừa bước ra cửa, Sư đưa tọa cụ lên, gọi: ?Hòa-
thượng?, Qui Sơn toan nắm phất tử, Sư liền hét, phủi áo ra đi.
Chiều, Qui Sơn hỏi
Thủ tọa: ?Vị Tăng mới đến khi sáng còn ở chăng?? Thủ tọa thưa:
?Ngay khi đó, y trở ra pháp đường mang giày cỏ đi luôn.? Qui Sơn
bảo: ?Gã ấy về sau, lên tận ngọn núi cao, cất am cỏ ở, để rồi
quở Phật mắng Tổ.?
Sư dừng lại Lễ
Dương 30 năm. Gặp lúc Đường Võ Tôn phế giáo, Sư tị nạn ở một
mình trong thạch thất tại Phù Sơn. Đến thời Đại Trung năm đầu
(847), Thái thú tên Tiết Đình Vọng tái trùng tu tịnh xá Đức Sơn
để hiệu là Cổ đức Thiền viện, tìm kiếm những vị đạo hạnh trụ
trì. Nghe tiếng Sư, Đình Vọng nhiều phen đến thỉnh, Sư chẳng chịu
xuống núi. Đình Vọng lập kế, lấy trà, muối đến phao vu Sư phạm
cấm pháp, điệu Sư về Châu chiêm lễ. Đình Vọng cố thỉnh cho được
Sư ở Đức Sơn. Sau cùng Sư chấp nhận. Ở đây, Sư xiển dương Tông
phong rất thạnh.
*
Sư thượng đường
bảo chúng:
- Nơi mình vô sự
thì chớ vọng cầu, vọng cầu mà được cũng chẳng phải được. Các
ông chỉ vô sự nơi tâm, vô tâm nơi sự thì hư (rỗng) mà linh (lanh
lẹ), không mà diệu.
Nếu có nói gốc
ngọn chừng đầu mảy lông đều là tự dối. Còn có mảy may nghĩ
nhớ, là nghiệp nhân tam đồ. Bất chợt sanh tình (vọng khởi) là
muôn kiếp bị khóa kín (địa ngục). Danh thánh hiệu phàm trọn là
tiếng rỗng, tướng đặc biệt hình xấu xa đều là sắc huyễn. Các
ông muốn cầu đó, mà không bị lụy sao? Và các ông chán đó, lại
thành bệnh lớn? Cả hai đều là vô ích.
*
Sư thượng đường
bảo:
- Hôm nay tối
không được thưa hỏi, ai thưa hỏi sẽ ăn ba mươi gậy. Khi ấy có
một vị Tăng bước ra lễ bái, Sư liền đánh. Tăng ấy thưa:
- Con chưa thốt ra
lời hỏi, vì sao Hòa thượng đánh con?
Sư hỏi:- Ông là
người xứ nào?
- Con người Tân La
(Triều Tiên).
Sư bảo:- Ông khi
chưa xuống thuyền đã đáng ăn ba mươi gậy rồi.
*
Long Nha hỏi:
- Khi con cầm kiếm
Mạc Da toan chặt đầu Thầy thì sao?
Sư đưa cổ đến
trước. Long Nha nói: ?Rơi.? Sư cuời hả! hả! Sau, Long Nha đến Động
Sơn, thuật lại việc ấy. Động Sơn hỏi: ?Đức Sơn nói thế nào??
Long Nha thưa: ?Đức Sơn không nói.? Động Sơn bảo: ?Chớ nói Đức Sơn
không nói, hãy đem đầu Đức Sơn trình Lão tăng xem?? Long Nha biết
lỗi xin sám hối.
Có người đem việc
ấy thuật lại Sư, Sư bảo: ?Ông già Động Sơn không biết tốt xấu,
gã ấy đã chết được bao lâu, cứu được chỗ dụng gì??
*
Sư thượng đường
bảo: ?Hỏi tức có lỗi, chẳng hỏi lại trái.? Có vị Tăng bước ra
lễ bái. Sư liền đánh. Tăng thưa: ?Con mới lễ bái vì sao Hòa
thượng đánh?? Sư bảo: ?Đợi ngươi mở miệng làm gì kịp.?
*
Sư sai thị giả gọi
Nghĩa Tồn, Nghĩa Tồn đến, Sư bảo: ?Ta bảo kêu Nghĩa Tồn, ngươi đến
làm gì?? Nghĩa Tồn không đáp được.
*
Sư thấy vị Tăng
đến, liền đóng cửa. Vị Tăng gõ cửa. Sư hỏi: ?ai? Tăng thưa: ?sư
tử con?. Sư mở cửa. Tăng lễ bái. Sư liền leo lên cổ cỡi, nói:
?Súc sanh này từ xứ nào đến??
*
Tuyết Phong Nghĩa
Tồn hỏi: ?Tông thừa từ trước, riêng con có phần chăng?? Sư đánh
một gậy, bảo: ?Nói gì?? Nghĩa Tồn thưa: ?Chẳng hội.? Hôm sau, giờ
thưa hỏi, Sư nói: ?Tông của ta không cầu lời, thật không có một
pháp dạy người.? Tuyết Phong nhân câu này được tỉnh.
*
Sư dạy chúng:
- Các ông từ sáng
đến chiều có việc gì? chẳng cần trình môi lừa, mỏ ngựa hỏi Lão
già Đức Sơn sao? Ta chẳng sợ các ông, chưa biết các ông có
những nghi vấn gì?
Gần đây trong thời
kỳ mạt pháp, có rất nhiều bọn quỉ thần ở nhà bên nói rằng ?ta
là Thiền sư?. Chẳng biết học được bao nhiêu thiền đạo, nói tương
tợ cho Lão tăng nghe? Các ông! Những lão trọc ở mọi nơi dạy
các ông tu hành thành Phật, chạy bên ngoài thành được bao nhiêu
ông Phật? Các ông nếu không thể học, lại chạy tìm cái gì? Nếu
có học các ông thử đem cái học được trình cho Lão tăng xem? Một
câu chẳng tương đương phải ăn một gậy đau điếng mới được.
Các ông bị những
lão trọc mọi nơi dùng ma mị làm bệnh, nói ta là người tu hành,
làm ra hình thức in tuồng bộ mặt người đắc đạo. Chớ có nhận
dụng tâm như thế, muôn kiếp ngàn đời luân hồi trong tam giới
đều là ?Có tâm?. Vì cớ sao? Vì tâm sanh thì các thứ pháp sanh.
Nếu khéo một niệm chẳng sanh thì hằng thoát khỏi sanh tử, chẳng
bị sanh tử trói buộc, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, lại còn
có việc gì?
*
Nhân giả! ta thấy
các ông phát tâm đến trong hội những lão trọc học Phật pháp,
gánh vác chẳng tiếc thân mạng, rốt cuộc các ông đều bị đâm đui
mắt, đoạn đứt mạng căn. Có vài ba trăm kẻ tương tợ dâm nữ,
nói: ?ta làm hóa chủ dựng lập pháp tràng, vì người sau mở mắt
cho họ?. Kẻ ấy tự cứu được chăng?
Nhân giả! nói tu
hành như thế, các ông đâu chẳng nghe Lão Hồ (ông già Ấn Độ,
chỉ Phật) trải ba kiếp A-tăng-kỳ tu hành mà nay còn đâu? Sau tám
mươi (80) năm chết mất, cùng các ông có khác gì?
Các ông chớ
cuồng! Khuyên các ông không gì hơn THÔI HẾT đi, VÔ SỰ đi. Tâm
vừa khởi một niệm tức là quyến thuộc nhà ma, là kẻ tục phá
giới.
Các ông thấy Đức
Sơn ra đời năm năm, mười năm, đồng nghĩ tụ họp nhau đến nạn
vấn, mong ta đớ lưỡi không lời. Các ông thật là bọn lâu la. Sao
nay chẳng để cây dùi xoi phủng đãy đựng, xuất đầu hay chẳng
xuất đầu là tốt, ta cần hỏi thật các ông , chớ lầm.
*
Nhân giả! Các ông
chạy lăng xăng bên nhà ngoài, nói ?ta hiểu thiền, hiểu đạo?;
chỉ ngực, chỉ sườn, khen ngợi, trịnh trọng. Những cái ấy cần phải
mửa hết mới được Vô Sự.
Các ông chỉ cần
ngoài không mắc thanh sắc, trong không hiểu biết năng sở. Vì thể
không phàm thánh, lại học cái gì? Dù học được trăm ngàn diệu
nghĩa, chỉ là con quỉ ăn ghẻ bướu, thảy đều là tinh mị. Ta trong
ấy rỗng thênh, nói có chẳng phải có, nói không chẳng phải
không, nói phàm chẳng phàm, nói thánh chẳng thánh, tất cả chỗ
để y chẳng được, mà làm thầy muôn pháp, cái ấy ta chẳng dám
chê y.
Sở dĩ Lão Hồ
(Phật) mửa ra bao nhiêu phương tiện đàm dãi dạy các ông VÔ SỰ
đi, chớ nhằm bên ngoài tìm. Các ông lại chẳng nhận, muốn được
gom góp những ngôn cú thù thắng, dồn trong hông trong ngực, nói
lời khéo léo, lấy đầu lưỡi biện đến quần vải, cốt mong cho
người biết, nói ta là Thiền sư, mong có chỗ xuất đầu lộ diện.
Nếu có kiến giải như thế là con quỉ ở xương trôn, có ngày sẽ
vào địa ngục Bạt thiệt. Đến đó rồi, tìm người nói ta là Thiền
sư đi!
Kẻ khách trong nhà
thiền vừa bị người hỏi đến việc bổn phận, miệng in cây cọc,
liền trở lại nói với họ Bồ-đề Niết-bàn chân như giải thoát,
dẫn rộng trong ba tạng, nói giáo là thiền là đạo, dối gạt
người chung quanh, có gì là dính dáng, chê bai tiên Tổ của ta.
Chỗ thấy của lão
Đức Sơn này chẳng phải thế, trong ấy Phật cũng không, pháp cũng
không; Đạt-ma là ông già Hồ tanh hôi, Bồ-tát thập địa là kẻ
gánh phẩn, Đẳng giác Diệu giác là kẻ phàm phu phá giới, Bồ-đề
Niết-bàn là cây cọc cột lừa, mười hai phần giáo là bộ sổ của
quỉ thần là giấy lau ghẻ, Tứ quả Tam hiền Sơ tâm Thập địa là quỉ
giữ mồ xưa, tự cứu được chăng? Phật là cục phân của ông già
Hồ (Ấn).
*
Nhân giả! chớ lầm
thân mặc áo ghẻ bướu, học việc gì? Ăn cơm no rồi, nói chân như
Niết-bàn, ngoài da lại có máu chăng? Cần phải có ý khí trượng
phu mới được.
Các ông chớ mến
thánh, thánh là danh từ rỗng. Đến tam giới mười phương thế gian,
nếu có một hạt bụi, một pháp thật để cho các ông nhận lấy,
sanh hiểu gìn giữ quí trọng, trọn rơi vào thiên ma ngoại đạo, ấy
là có học được, cũng là bọn tinh mị dã hồ nương cỏ dựa cây.
Các ông! khoảng
này không có một pháp cho các ông giải hội, tự mình cũng chẳng
hội thiền. Ta cũng chẳng phải thiện tri thức, mọi việc đều
không hiểu, chỉ biết đi ỉa đi đái, ăn cơm mặc áo, còn có việc
gì?
Lão Đức Sơn này
khuyên các ông chi bằng giữ bổn phận đi, sớm thôi dứt đi, chớ
học cuồng loạn, mỗi người gánh tử thi một cách linh hoạt đi.
Các lão trọc trong miệng ưa ăn đàm dãi của người, nói ?ta là
người vào tam giới tu hạnh uẩn tích, nuôi lớn thai thánh, nguyện
thành quả Phật?. Những bọn như thế, Lão Đức Sơn này thấy như
tên độc bắn vào tim, kim châm vào mắt, đã cô phụ tiên Tổ, làm
lụy Tông đồ của ta. Họ nói ?ta là kẻ xuất gia?, như thế ăn
tiêu của thí chủ mười phương, thật sự một giọt nước cũng chẳng
tiêu đặng, còn chẳng dám đi trên đất quốc vương, cha mẹ không
nuôi món ngon vật lạ, đâu phải là không việc. Chớ lầm dụng
tâm, vua Diêm-la sẽ thăm hỏi ngươi, sẽ xỏ mũi ngươi trói vào
cột trụ để đền lại nợ trước. Chớ bảo Lão tăng chẳng nói.
Các ông thật là
có phước gặp Đức Sơn ra đời, vì các ông cổi dây trói buộc,
thoát khỏi lồng giam, gỡ khỏi lưng ngựa, được làm người tốt, tam
giới lục đạo bắt ông chẳng được. Lại không có pháp khác. Cái
sáng rỡ rỗng rang không ngại tự tại ấy, chẳng phải vật do các
ông trang nghiêm được. Từ Phật đến Tổ đều truyền pháp này mà
được xuất ly. Một Đại tạng kinh chỉ là chỉnh lý các ông hiện
thời.
Các ông chớ nhằm
chỗ khác tìm kiếm, cho đến Đạt-ma _ vị Tăng nước Hồ con mắt xanh
nhỏ_ đến xứ này cũng chỉ dạy các ông Vô Sự đi, dạy các ông
chớ tạo tác, mặc áo ăn cơm, đi ỉa đi đái, lại không có sanh tử
đáng sợ, cũng không Niết-bàn nên được, không Bồ-đề để chứng,
chỉ là tầm thường một người Vô Sự.
Nhất là, chớ
khoanh tay làm Thiền sư, tìm chỗ xuất đầu, dùng lời khéo léo lừa
gạt kẻ hậu sanh, muốn được người gọi mình là Trưởng lão, trên
phần của chính mình không chút dính dáng, vẫn là tâm thức lăng
xăng ngày đêm tác quái chẳng dừng, tán thán trịnh trọng ta là
tông đồ của Mã Đại sư ở Giang Tây. Lão Đức Sơn này chẳng phải
thế.
Này hết thảy các
ông! ta thấy Hòa thượng Thạch Đầu ông già không biết tốt xấu,
sở dĩ mă?g các đồ đệ: ?các ngươi chớ mắc nơi thanh sắc, danh
ngôn, cú nghĩa, cảnh trí, cơ quan, đạo lý thiện ác, phàm thánh,
thủ xả, phan duyên, nhiễm tịnh, minh ám, hữu vô, trong các cái
đáng nghĩ, được thế mới phải là người Vô Sự. Phật cũng chẳng
bằng ngươi, Tổ cũng chẳng bằng ngươi.?
*
Nhân giả! chớ
chạy mòn gót chân các ông, không có thiền đạo nào khác có
thể học. Nếu có học được, tức là hai đầu ba cổ, là kiến giải
của ngoại đạo. Cũng không có thần thông biến hóa thật. Nếu
ông nói thần thông là thánh thì chư thiên, long thần, tiên,
ngoại đạo được ngũ thần thông và tu-la cũng có thần thông lý
ưng là Phật sao?
Ở trên đảnh núi
một mình, ngày ăn một bữa, ngồi mãi chẳng nằm, sáu thời lễ
tụng, vẫn còn hồ nghi sanh tử. Lão Hồ (Phật) có nói: ?các hạnh
vô thường là pháp sanh diệt?. Nếu nói nhập định ngưng thần tịnh
lự mà được, bọn Ni-kiền-tử v.v? các thầy ngoại đạo cũng nhập
được đại định tám muôn kiếp, đâu chẳng phải là Phật ư? Phải
biết rõ tà kiến tinh mị.
*
Nhân giả! Lão Hồ
chẳng phải Thánh. Phật là cục cứt của Lão Hồ. Cần thiết nhân
giả biện rành tốt xấu, chớ mắc nhân ngã thì khỏi bị chư thánh
cột, Bồ-đề cột, giải thoát, thù thắng, danh ngôn, diệu nghĩa
nhận chìm, trói buộc. Vì cớ sao? - Vì một niệm vọng tâm chẳng
sạch tức là sanh tử tiếp nối.
Nhân giả! thời
giờ chẳng đợi người, chớ để trôi qua tháng ngày, thời gian đáng
tiếc. Lão tăng chẳng mong các ông làm kẻ tớ gánh vác ruộng
nhà. Nếu các ông chấp nhận thì tin lấy, nếu chẳng chấp nhận thì
mỗi người có một cái bát mang lên vai mà đi. Lão tăng cũng
chẳng cần các ông.
Các lão trọc ở
mọi nơi, một người chiếm cứ một xứ, nói thiền nói đạo, các
ông mau đi học lấy chép lấy. Ta trong đây không có một pháp cho
các ông.
Nhân giả! hỏi lấy
học lấy để làm tri giải, Lão tăng không thể vào địa ngục Bạt
thiệt. Nếu có một hạt bụi, một pháp chỉ dạy cho người, nói
rằng có Phật có pháp, có tam giới để ra, đều là dã hồ tinh mị.
*
Chư nhân giả! muốn
được biết chăng? Chỉ là cái rỗng không, còn không có một mảy
bụi có thể được, nơi nơi thanh tịnh, sáng rỡ rỗng suốt, trong
ngoài đều sáng suốt, vô sự, vô y, không chỗ nương gá thì có
việc gì? Lão tăng từ sanh đến tử chỉ là Lão tỳ-kheo, tuy sanh
trong tam giới mà không cấu nhiễm, còn muốn được ra khỏi chỗ
nào? Dù có chỗ đi, cũng là lồng bẫy, ma sẽ có cơ hội thuận
tiện.
Nhân giả! chớ
dụng thân tâm, vì không thể được, chỉ cần trong tất cả thời chớ
kẹt nơi thanh sắc, cốt phải những hành lý từ trước một lúc ném
hết, chóng thoát xiềng xích, hằng lìa cái (ngũ cái) triền (thập
triền). Một niệm không sanh thì mé trước mé sau dứt, không nghĩ
không nhớ, không một pháp hợp tình.
*
Nhân giả! làm sao
cắm mỏ xuống, các ông nhiều tri giải, đã từng biết mặt mày y
chăng? Kẻ xuất gia, cho đến bậc Bồ-tát thập địa mãn tâm tìm dấu
vết của y cũng chẳng được. Do đó, chư thiên hoan hỉ, địa thần đỡ
chân, mười phương chư Phật khen ngợi, ma vương khóc lóc. Vì cớ sao?
Bởi cái rỗng không này hoạt bát rạng ngời, không cội gốc,
không chỗ nơi. Nếu người đến được trong ấy, con mắt đứng chớp
đều không liên hệ.
*
Nhân giả! chớ cầu
Phật, Phật là kẻ giặc đại sát nhân lừa bao nhiêu người rơi vào
hầm ma dâm. Chớ cầu Văn-thù Phổ Hiền, là kẻ tớ ruộng nhà.
Đáng tiếc, là bậc trượng phu đường đường mà uống thuốc độc của
người. Bèn toan làm Thiền sư, trước mặt thấy thần thấy quỉ, về
sau cuồng loạn chạy sang nhà bên tìm Sư bà đập ngói bói cho. Bị
các lão trọc vô tri, xủ quẻ bảo lễ quỉ Tổ sư, quỉ Phật, quỉ
Bồ-đề Niết-bàn. Kẻ dâm nữ nhỏ ấy chẳng hội, liền hỏi ?thế
nào là ý Tổ sư từ tây sang?, lão trọc kia liền đánh giường
thiền làm cảnh, hoặc dựng phất tử, bảo ?trời trong tốt, mưa
tốt, lồng đèn tốt?, lời lẽ khéo léo gượng làm tiết mục, có
huyền lộ, điểu đạo, xè tay. Nếu nhận những lời nói như thế,
khác nào đem bát báu đựng đồ dơ, như đem phẩn làm hương
chiên-đàn.
*
Nhân giả! kia đã
là trượng phu, ta cũng vậy, khiếp nhược với ai? Mà trọn ngày
đến các lão trọc mọi nơi nhận lấy đàm dãi của họ, trọn không
biết hổ thẹn, khổ thay! khổ thay! làm cuồng loạn ngươi, nhân quả
rõ ràng sẽ làm thân trâu kéo cày mang bừa.
Hoặc kẻ tròng mắt
chợt hiện, khí lực chẳng thêm, dùng gậy to đập xương sống ông,
ăn cướp áo cơm của Phật, nói ?ta tu hành xong?.
*
Sư dạy chúng:
- Có khi cỡi đầu
cọp nắm đuôi cọp, câu thứ nhất rõ tông chỉ, khi không nói thấy
bày cơ phong, như đồng điện chớp.
*
Sư có bệnh, Tăng
hỏi: ?Lại có cái chẳng bệnh chăng?? Sư đáp: ?Có.?
Tăng hỏi: ?Thế
nào là cái chẳng bệnh?? Sư bảo: ?Ôi da! Ôi da!?
Sư lại bảo chúng:
- Chụp không tìm
tiếng luống nhọc tâm thần các ngươi; mộng tỉnh, tỉnh rồi trọn
không có việc gì.
Nói xong, Sư ngồi
yên mà tịch. Nhằm đời Đường niên hiệu Hàm Thông năm thứ sáu
(865), ngày mùng ba tháng chạp năm Ất Dậu. Sư thọ tám mươi sáu
tuổi. Vua sắc thụy Kiến Tánh Đại sư.
*
LỜI DỊCH
GIẢ
Chúng tôi cố
tránh né không dám lạm bàn những ngôn ngữ và hành động của
chư Thiền đức. Bởi lẽ không muốn độc giả nhai lại những bã xác
mía khô, để mỗi độc giả tự thưởng thức vị cam lồ của chính mình
phát minh.
Nhưng, qua ngôn ngữ
của ngài Đức Sơn, nếu chúng tôi không bàn e có nhiều độc giả
hiểu lệch lạc, khiến bản nguyện của chúng tôi không đạt được,
mà có thể trái lại là khác. Do đó, chúng tôi có ít lời bình
như sau:
Đức Sơn là một
ngôi sao sáng trong Thiền môn vào thời Đường mạt. Những Thiền
sinh đến tham vấn đa số được Ngài cho ăn gậy. Mỗi khi thượng
đường dạy chúng, Ngài thường dùng những ngôn ngữ táo bạo, mà
người ta gọi là ?mắng Phật mạ Tổ?.
Vì sao Đức Sơn có
hành động ngôn ngữ ấy? Bởi lẽ, Ngài quá NHIỆT TÌNH, nói theo
danh từ nhà Thiền có ?tâm lão bà?. Chúng ta thấy, khi Ngài cất
gánh kinh lên vai sang phương Nam, không vì tìm hiểu thiền, mà cốt
?tiêu diệt chúng ma quái (Thiền tông) để báo ân Phật?. Tâm
niệm ấy, đã nói lên Ngài là sứ giả của Luật, Giáo. Luật,
Giáo là lý tưởng tối thượng đời Ngài phải phụng thờ. Như vậy,
Ngài sang phương Nam với NHIỆT TÌNH hộ pháp ?tồi tà phụ chánh?
(dẹp tà giúp chánh).
Sau khi gặp Long
Đàm, lý tưởng tối thượng của Ngài tôn thờ đã trở thành hình
ảnh chết, là cặn bã của người xưa. Chí nguyện ?tồi tà phụ
chánh? của Ngài đã tan biến như mây khói, hay ngược lại chính
Ngài tự thấy mình là nguời ?phụ tà tồi chánh? (giúp tà dẹp
chánh). Đột biến bất thần ấy, khiến Ngài mang gánh kinh ra trước
pháp đường thiêu sạch.
Có ngồi nhà giam
mới biết thương những người bị giam, đó là NHIỆT TÌNH của Đức Sơn
qua giai đoạn hai.
Thiền, Đạo là cái
linh minh hiện hữu nơi mình. Song vừa khởi tâm tìm nó liền mất,
mong thấy nó đã chẳng hiện. Nó không phải những văn tự khô
cằn, cũng không phải ngôn ngữ sanh diệt. Bám vào văn tự, vào
ngôn ngữ để cầu Thiền cầu Đạo thật là đại sai lầm. Bỏ mình đi
cầu Thiền cầu Đạo nơi người, thật là việc ?cỡi trâu tìm trâu?,
?bính đinh cầu hỏa?.
Nhưng, nhà giam văn
tự ngôn ngữ, dây xiềng cầu cạnh bên ngoài đã và đang giam giữ
xiềng xích bao nhiêu người có thiện chí học đạo. Do đó, với
NHIỆT TÌNH của Đức Sơn phải đập tan nó bằng gậy, mạt sát chúng
bằng lời, hầu mong cổi trói cho mọi người. Đúng như lời bình của
Vân Môn sau này ?chỉ có Đức Sơn mới hay khen ngợi Phật, Tổ?.
Phật, Tổ cố lập
mọi phương tiện để phá chấp cho chúng ta. Chúng ta không mượn
phương tiện ấy để gột sạch vọng chấp của mình, trái lại bám
lấy phương tiện cho là cứu kính, thật là tự lấy dây trói mình.
Khi đã bị trói rồi, chạy cầu người khác mở trói. Đó là từ sai
lầm này sang sai lầm khác, cả đời lẩn quẩn làm sao thoát được!
Ai đã có ?tâm lão
bà? trông thấy thế mà chẳng thương? Huống nữa Đức Sơn là một
nạn nhân vừa thoát nạn, trông thấy bạn đồng hành của mình đang
bị bao vây, làm sao không có những cái đánh tóe lửa, những lời
mắng tét tai, lấy làm phương tiện cứu cấp.
Cho nên, đọc Đức
Sơn, chúng ta đừng khó chịu bởi ngôn ngữ và hành động của Ngài,
vì biết đó là phương tiện cấp bách, cũng đừng bắt chước ngôn
ngữ ấy để phỉ báng Tam Bảo mà phải đọa địa ngục. Chúng ta cần
phải học NHIỆT TÌNH của Đức Sơn, và cốt nhận ra chỗ chí yếu mà
Ngài muốn chỉ dạy.
] |