ĐỜI
THỨ BẢY SAU LỤC TỔ
I.- TÔNG TÀO ĐỘNG
ĐỜI THỨ BA : có 14 vị
1- Thiền
sư Quang Huệ ở Hà Ngọc
2- Thiền
sư Tùng Chí ở Kim Phong
3- Thiền
sư Xử Chơn ở Lộc Môn?
II.- TÔNG LÂM TẾ
ĐỜI THỨ BA
A- Nối
pháp Hưng Hóa Tồn Tương:
Thiền sư
Bảo Ứng hay Nam Viện Ngung
III.- TÔNG QUI
NGƯỠNG ĐỜI THỨ TƯ
A- Nối
pháp Thiền sư Quang Dũng: có 5 vị
1- Thiền
sư Toàn Phó ở Thanh Hóa
2- Thiền
sư Huệ Thanh ở Ba Tiêu?
IV.- NỐI PHÁP ĐỨC
SƠN ĐỜI THỨ HAI
A- Nối
pháp Nham Đầu Toàn Khoát: có 9 vị
1- Thiền
sư Sư Nhan ở Đoan Nham?
B- Nối
pháp Tuyết Phong Nghĩa Tồn: có 56 vị
1- Thiền
sư Sư Bị ở Huyền Sa
2- Thiền
sư Huệ Lăng ở Trường Khánh
3- Thiền
sư Văn Yển ở Vân Môn khai Tổ tông Vân Môn?
*
22. THIỀN
SƯ HUYỀN NGỘ
Hiệu Quang Huệ ở Hà Ngọc
Ban đầu Sư ở Long
Tuyền thượng đường dạy chúng:
- Hòa thượng Tuyết
Phong vì người như chim đại bàng cánh vàng bắt rồng ăn.
Có vị Tăng ra
hỏi:- Hòa thượng thì thế nào?
Sư bảo:- Ở nơi nào
đi đến?
- Thế nào ý Tổ sư
từ Ấn sang?
- Sao chẳng lễ bái
đợi chừng nào?
- Thế nào là mật
truyền tâm?
Sư lặng thinh giây
lâu.
Tăng thưa:- Thế ấy
luống nhọc lắng tai.
Sư gọi thị giả
bảo:- Đem lửa đến.
*
Tăng hỏi:
- Cổ nhân nói:
?nếu nhớ một câu luận, một kiếp làm dã hồ tinh?, chẳng biết ý
cổ nhân thế nào?
Sư bảo:- Nhà tăng
Long Tuyền chưa từng khóa.
- Hòa thượng thế
nào?
- Gió thổi bên
tai.
*
Tăng hỏi:- Thế
nào là một câu trước tiếng?
Sư đáp:- In tuồng
chẳng nói.
- Cổ nhân nói:
?như một hạt tuyết trên lò lửa?, ý chỉ thế nào?
- Khéo tiếc giữ
lông mày.
- Chỉ dạy thế nào
liền chẳng lầm trong thời gian?
- Không thể trên
tuyết lại thêm sương.
- Thế ấy là toàn
nhân nơi Hòa thượng?
- Nhân cái gì?
*
Có khi Sư đưa gậy
lên chỉ chúng:
- Từ trước vẫn lưu
lại một đường phương tiện này để tiếp người.
Vị Tăng ra hỏi:-
Hòa thượng lại đứng đầu đường vậy.
- Tạ nhau xong.
Tăng hỏi:- Thế
nào và Văn-thù?
Sư đáp:- Không có
mặt trăng thứ hai.
- Việc hiện giờ
thế nào?
- Chính là mặt
trăng thứ hai.
*
Tăng hỏi:- Thế
nào là lời Như Lai?
Sư đáp:- Gió mạnh
có dây trói.
- Thế nào là diệu
minh chân tánh?
- Rộng rãi chớ
bóp hẹp.
*
Sư thượng đường
giây lâu. Có vị Tăng bước ra hỏi:
- Vị chúng kiệt
lực, họa ra cửa tư, chưa biết tha lỗi, chẳng tha lỗi?
Sư vẫn lặ?g thinh.
*
23. THIỀN
SƯ TÙNG CHÍ
Hiệu Huyền Minh ở Kim Phong
Thượng tọa Tiến
hỏi:- Thế nào là chánh chủ Kim Phong?
Sư đáp:- Đây cách
trấn huyện chẳng xa, Xà-lê chớ thứ lớp.
- Sao chẳng nói?
- Miệng như bàn
đá.
- Ngàn phong muôn
phong, thế nào là Kim Phong?
Sư bèn vạch trán
rồi thôi.
*
Sư đưa chiếc gối
chỉ Tăng bảo:
- Tất cả người
gọi là chiếc gối, Kim Phong nói chẳng phải.
Tăng thưa:- Chẳng
biết Hòa thượng gọi là gì?
Sư cầm chiếc gối
đưa lên.
Tăng thưa:- Như thế
thì y đó mà hành?
Sư hỏi:- Ngươi kêu
là gì?
- Chiếc gối.
-Rơi trong hang Kim
Phong.
*
Tăng hỏi:- Thân
này vô tri như cây đất ngói đá, cái này thế nào?
Sư bước xuống
giường thiền lại nắm lỗ tai vị Tăng ấy vặn. Tăng đau quá la
lên.
Sư bảo:- Ngày nay
mới nắm được cái vô tri.
Tăng lễ bái đi ra.
Sư gọi: Xà-lê! Tăng xoay đầu lại. Sư bảo: Nếu vào nhà tăng
không được nói lại. Tăng hỏi: Vì sao? Sư bảo: Sẽ có nhiều người
cười Kim Phong tâm lão bà.
*
Sư thượng đường:
- Việc còn giấu
kín, hợp lý nên lấy tên nhọn chống. Có người nói được chăng?
Nếu có người nói được, Kim Phong sẽ chia nửa Viện cho ở.
Có vị Tăng bước ra
làm lễ.
Sư bảo:- Thấy nhau
dễ được, ở chung tốt đẹp khó, vì người.
Sư bèn xuống tòa.
Sư hỏi Tăng: Ra đi
từ đâu? Tăng thưa: Từ Triệu Châu. Sư hỏi: Triệu Châu nối pháp
ai? Tăng thưa: Nam Tuyền. Sư bảo: Ông đâu phải từ Triệu Châu đi?
Tăng thưa: Chẳng biết tôn ý Hòa thượng thế nào? Sư bảo: Triệu
Châu thật nối pháp Nam Tuyền.
Đến chiều giờ thưa
thỉnh, Tăng thưa: Sáng này nhờ ơn Hòa thượng từ bi mà con chưa
hội, thỉnh Hòa thượng chỉ dạy. Sư bảo: Nếu đến chỗ khác, chớ
nói câu sau của Kim Phong. Tăng hỏi: Vì sao thế? Sư bảo: E làm
nhục Triệu Châu.
Tăng hỏi:- Thế
nào là gia phong của Hòa thượng?
Sư đáp:- Trước cửa
Kim Phong không có tấm bảng năm dặm.
*
Về sau Sư trụ tại
viện Báo Ân ở Kim Lăng và tịch tại đây.
Vua phong thụy là
Viên Quảng Thiền sư tháp hiệu Qui Tịch.
*
24. THIỀN
SƯ XỬ CHƠN
Ở
Lộc Môn
Sư trụ trì tại
viện Hoa Nghiêm ở núi Lộc Môn.
Có vị Tăng hỏi:
Thế nào là gia phong của Hòa thượng? Sư đáp: Có muối không
giấm. Tăng hỏi: Thế nào là đạo nhân? Sư đáp: Có miệng giống
hệt lỗ mũi. Tăng hỏi: Chợt gặp khách đến đem cái gì đối đáp?
Sư bảo: Cổng gỗ cửa lá cảm ơn ông đi qua.
*
Tăng hỏi: Tổ Tổ
tương truyền, truyền vật gì? Sư bảo: Ca-sa Kim Lan. Tăng hỏi: Thế
nào là Bát-nhã trong rương? Sư bảo: Trong điện Phật để sáu trăm
quyển.
Tăng hỏi: Sau khi
Hòa thượng trăm tuổi sẽ đi về đâu? Sư đáp: Làm con trâu nhà họ
Lý ở dưới núi. Tăng thưa: Cho con cùng đi theo được chăng? Sư
bảo: Nếu ông đi theo chớ giống đầu mọc sừng. Tăng đáp: Dạ! Sư
hỏi: Nên đến chỗ nào? Tăng thưa: Con mắt Phật biện còn chẳng
được. Sư bảo: Nếu chẳng bỏ qua cũng là mờ mờ.
*
Tăng hỏi: Thế nào
là Thiền? Sư đáp: Loan phụng vào lồng gà. Tăng hỏi: Thế nào là
đạo? Sư đáp: Chỉ sen cột voi lớn. Tăng hỏi: Khi kiếp hoại cái
này có hoại chăng? Sư đáp: Đến bờ nhìn mắt cọp, khắp nơi một
trường sầu. Tăng hỏi: Thế nào là chỗ Hòa thượng chuyển thân?
Sư đáp: Canh ba đêm qua rơi mất chiếc gối.
Sư có làm bài kệ
dạy chúng:
Nhất
phiến ngưng nhiên quang xán lạn
Nghĩ ý
truy tầm tốt nan kiến
Bỉnh
nhiên trịch trước khoát nhân tình
Đại sự
phân minh giai tổng biện.
Thị
khoái hoạt vô hệ bạn
Vạn
lượng huỳnh kim chung bất hoán
Nhậm tha
thiên thánh xuất đầu lai
Tùng thị
hướng cừ ảnh trung hiện.
Dịch:
Một
mảnh lóng trong sáng khắp trời
Để lòng
tìm kiếm cách xa vời
Rõ ràng
ném đến nhân tình rỗng
Việc
lớn phân minh thảy biện rồi.
Mới là
vui sống không buộc ràng
Muôn
lượng vàng ròng đổi chẳng màng
Mặc tình
ngàn thánh hiện ở thế
Từ ấy
theo y trong bóng vàng.
*
25. THIỀN
SƯ HUỆ NGUNG
Hiệu Bảo Ứng ở Nam Viện
Sư trụ trì Nam Viện
nên gọi là Nam Viện Huệ Ngung, cũng hiệu Bảo Ứng nên gọi Bảo
Ứng Hòa thượng ở Nhữ Châu.
Sư thượng đường
dạy chúng:- Trên cục thịt đỏ vách đứng ngàn nhẫn.
Có vị Tăng hỏi:
- Trên cục thịt đỏ
vách đứng ngàn nhẫn, đâu chẳng phải lời của Hòa thượng?
Sư đáp:- Phải.
Vị Tăng ấy liền
giở giường thiền. Sư bảo: con lừa mù, liền đánh.
*
Sư hỏi vị Tăng mới
đến: Vừa rời nơi nào đến? Tăng thưa: Vừa rời Trường Thủy. Sư
bảo: Đi dòng đông hay dòng tây? Tăng thưa: Thảy không thế ấy.
Sư hỏi: Làm sao?
Tăng trân trọng. Sư liền đánh, đuổi xuống pháp đường.
*
Sư hỏi Tăng: Vừa
rời nơi nào đến? Tăng thưa: Vừa rời Nhượng Châu. Sư hỏi: Đến
làm gì? Tăng thưa: Riêng đến lễ bái Hòa thượng. Sư bảo: Dường
như lão Ngung Bảo Ứng chẳng ở đây. Tăng liền hét! Sư bảo: Đã
nói với ông chẳng có ở đây, lại hét cái gì? Tăng lại hét! Sư
liền đánh. Tăng lễ bái. Sư bảo: Gậy này bổn phận ngươi đánh ta,
mà ta lại đánh ngươi, ba gậy năm gậy cốt lời này.
*
Hòa thượng Tư Minh
khi chưa trụ Tây Viện đến tham vấn Sư, lễ bái xong, hỏi:
- Không có vật gì
tốt khác, từ Hứa Châu mua được dao cạo Nhất Khẩu Giang Tây đến
hiến Hòa thượng.
Sư hỏi:- Ông từ
Hứa Châu đến, nơi nào mua được dao cạo Giang Tây?
Tư Minh nắm tay Sư,
bấm một cái.
Sư bảo:- Thị giả
nhận lấy.
Tư Minh phủi áo ra
đi.
Sư nói:- A thích
thích.
*
Sư thượng đường
nói:
- Các nơi chỉ đủ
con mắt thốt trác đồng thời, mà chẳng đủ dụng thốt trác đồng
thời.
Có vị Tăng hỏi:-
Thế nào là dụng thốt trác đồng thời?
Sư đáp:
- Tác gia (bậc đạt
đạo) thấy nhau chẳng thốt trác thì thốt trác đồng thời mất.
Tăng thưa:- Đây
vẫn chưa phải chỗ con hỏi.
Sư hỏi:- Chỗ ngươi
hỏi thế nào?
Tăng thưa:- Mất.
Sư liền đánh. Vị
Tăng ấy chẳng chấp nhận.
*
Sau vị Tăng ấy ở
trong hội Vân Môn nghe hai vị Tăng nhắc lại nhân duyên này. Một
vị Tăng nói: đương thời Nam Viện đánh gãy Tăng kia. Ông nghe lời
nói này hốt nhiên đại ngộ. Chừng đó, ông mới thấy chỗ đáp
của Nam Viện. Ông bèn trở về Nhữ Châu yết kiến Sư, Sư đã qui
tịch. Ông đến thưa hỏi Phong Huyệt. Phong Huyệt nhận ra liền hỏi:
Thượng tọa khi xưa hỏi Tiên sư câu thốt trác đồng thời đây
chăng? Ông thưa: Phải. Phong Huyệt hỏi: Hội chưa? Ông đáp: Hội.
Phong Huyệt hỏi: Ông khi ấy hội thế nào? Ông nói: Tôi khi ấy in
tuồng đi trong bóng đèn. Phong Huyệt nói: Ông hội.
*
26. THIỀN
SƯ TOÀN PHÓ
Hiệu Thanh Hóa - (882-947)
Sư quê ở Côn Sơn
quận Ngô, cha làm nghề mua bán. Sư theo cha đến Dự Chương nghe các
thiền hội thạnh hành, liền xin xuất gia.
Sư đến Giang Hạ
yết kiến Đại sư Thanh Bình. Thanh Bình hỏi: Ngươi đến cầu cái gì?
Sư thưa: Cầu pháp. Thanh Bình cho là lạ, chấp nhận vào chúng. Sư
được thọ giới, thờ thầy rất thuần cẩn.
Một hôm, Sư tự
bảo: ?Ông thầy học vô thường, đâu nên bày biện phiền như vầy??
Sư liền từ tạ thầy đi du phương.
Đến Nghi Xuân, Sư
yết kiến Thiền sư Quang Dũng. Quang Dũng hỏi: Từ đâu đến? Sư
thưa: Từ Ngạc Châu đến. Quang Dũng hỏi: Sứ quân Ngạc Châu tên
gì? Sư thưa: Ở đất Hóa chẳng dám xúc phạm. Quang Dũng bảo: Ở
đây chẳng sợ. Sư thưa: Đại trượng phu cần gì biết nhau. Quang Dũng
ngạc nhiên cười to.
Sư dừng lại đây
và thâm ngộ tông chỉ, được Quang Dũng ấn khả.
*
Sau, Sư dạo Lô
Lăng, quan huyện An Phước lập Thiền uyển Ứng Quốc thỉnh Sư trụ
trì. Học chúng đua nhau đến tham vấn, ở đây trở thành thiền hội
hưng thạnh. Nhà vua nghe tiếng ban cho Sư hiệu Thanh Hóa.
*
Tăng hỏi:- Thế
nào là chỗ Hòa thượng cấp thiết vì người?
Sư đáp:- Sáng nhìn
đông nam, chiều nhìn tây bắc.
- Chẳng hội.
- Khách luống qua
Đông Dương mà không biết vật báu Đông Dương.
- Thế nào là
chánh pháp nhãn?
- Không thể ban
ngày mà đái trên giường.
*
Về sau, có vị Tăng
đồng hương khuyên Sư trở về cố hương. Văn Mục Vương đặc biệt quí
trọng Sư. Nhà Tấn niên hiệu Thiên Phước năm thứ hai (937), Văn
Mục Vương khai phá ngọn núi Vân Phong lập thiền viện cũng để
Thanh Hóa, thỉnh Sư trụ trì. Nơi đây pháp lữ đông vầy.
*
Tăng hỏi:- Hòa
thượng được bao nhiêu tuổi?
Sư đáp:- Mới thấy
năm rồi chín tháng chín, hiện nay lại thấy lá thu vàng.
- Thế ấy tức là
vô số?
- Hỏi lấy lá
vàng.
- Cứu kính việc
thế nào?
- Sáu chiếc đầu
tử đầy bồn đỏ.
*
Tăng hỏi:- Tăng
chết sẽ đi đến đâu?
Sư đáp:- Sông dài
không gián đoạn, hòn bọt mặc gió trôi.
- Lại nhận sự
cúng kiến chăng?
- Cúng kiến chẳng
không.
- Thế nào là cúng
kiến?
- Lão chài giở
chèo hát, trong hang nghe tiếng vang.
*
Đến Trung Hiến
Vương ban cho Sư tử y phương bào, Sư từ chối chẳng nhận. Sư nói:
Tôi không thích dùng, sợ e người sau bắt chước tôi mà muốn như
thế.
Niên hiệu Khai Vận
năm thứ tư (947) tháng bảy năm Đinh Mùi, Sư có chút bệnh, ngồi
an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi sáu tuổi.
*
27. THIỀN
SƯ HUỆ THANH
Ở
núi Ba Tiêu
Sư người Tân La
(Triều Tiên) năm hai mươi tám tuổi đến Ngưỡng Sơn yết kiến Nam
Tháp Quang Dũng, nhân đây được ngộ đạo.
Sư trụ trì tại núi
Ba Tiêu đồ chúng đến tham vấn rất đông.
Có vị Tăng hỏi:
Thế nào là nước Ba Tiêu (cây chuối)? Sư đáp: Mùa đông ấm mùa
hạ mát. Tăng hỏi: Thế nào là kiếm thổi lông (kiếm bén thổi
sợi lông qua liền đứt)? Sư tiến ba bước. Thế nào là Hòa thượng
một câu vì người? Sư đáp: Chỉ e Xà-lê chẳng hỏi.
*
Sư thượng đường
cầm gậy đưa lên bảo chúng:
- Các ông có cây
gậy thì ta cho các ông cây gậy, các ông không có gậy thì ta
cướp cây gậy các ông.
Sư chống gậy đứng,
rồi bước xuống tòa.
*
Tăng hỏi:- Giặc
đến cần đánh, khách đến cần xem, chợt gặp khách giặc đồng thời
đến thì làm sao?
Sư bảo:- Trong thất
có một đôi giày cỏ rách.
- Chỉ như đôi giày
cỏ rách lại kham thọ dụng chăng?
- Ông nếu đem đi,
trước hung sau chẳng kiết.
*
Tăng hỏi:- Quang,
cảnh đều quên lại là vật gì?
Sư đáp:- Tri.
- Tri cái gì?
- Kiến Châu cửu
Lang.
*
Tăng hỏi:
- Chẳng hỏi hai
đầu ba cổ, thỉnh Thầy chỉ thẳng bản lai diện mục?
Sư ngồi thẳng lặng
thinh.
*
28. THIỀN
SƯ SƯ NHAN
Ở
Đoan Nham
Sư họ Hứa quê ở
Mân Việt, xuất gia từ nhỏ, giữ giới luật đầy đủ. Đi du phương,
trước nhất Sư đến Nham Đầu.
Sư hỏi Nham Đầu:
Thế nào là lý bản thường? Nham Đầu đáp: Động. Sư thưa: Khi động
thế nào? Nham Đầu bảo: Chẳng phải lý bản thường. Sư trầm ngâm
giây lâu. Nham Đầu bảo: Chấp nhận tức chưa khỏi căn trần, chẳng
chấp nhận tức hằng chìm sanh tử. Sư liền lãnh hội, thân tâm
sáng suốt.
*
Sư đến yết kiến
Giáp Sơn Thiện Hội. Thiện Hội hỏi: Ở nơi nào đến? Sư thưa: Ở
Ngọa Long. Thiện Hội hỏi: Khi đến Ngọa Long dậy chưa? Sư bèn nhìn
qua ngó lại. Thiện Hội bảo: Trên vết thương lại để bổi đốt. Sư
thưa: Hòa thượng lại khổ như thế để làm gì? Thiện Hội bèn thôi.
Sư tìm đến Đan Khưu,
suốt ngày ngồi trên thạch bàn như kẻ ngu, thỉnh thoảng tự gọi:
?ông chủ nhân?, lại ứng thanh: ?dạ?, bèn bảo: ?tỉnh tỉnh lấy về
sau chớ bị người gạt?. Bốn chúng ngưỡng mộ đức của Sư, thỉnh Sư
trụ trì tại Đoan Nham, học lữ nghe danh đua nhau kéo đến.
*
Cảnh Thanh hỏi:-
Trời không thể che, đất không thể chở, đâu chẳng phải?
Sư đáp:- Nếu phải
tức bị che chở.
- Nếu chẳng phải
Đoan Nham vừa gặp?
Sư tự xưng: Sư Nhan.
*
Có ba vị Tăng
người Ấn, thân xanh mắt đỏ như luồng điện, so vai đồng bước đến
lễ Sư. Sư hỏi: Các ông từ đâu đến? Ba vị ấy thưa: Ở Thiên Trúc
đến. Sư hỏi: Khởi đi lúc nào? Họ đáp: Sáng đi vừa đến. Sư hỏi:
Được chẳng nhọc chăng? Họ đáp: Vì pháp quên nhọc. Sư nhìn kỹ
thấy chân họ chẳng dính đất, Sư bảo: Vào nhà tăng an nghỉ. Sáng
hôm sau chẳng thấy ba vị ấy.
*
Tăng hỏi: Thế nào
là Phật? Sư đáp: Trâu đá. Hỏi: Thế nào là pháp? Sư đáp: Con
trâu đá. Hỏi: Thế ấy là chẳng đồng? Sư đáp: Hiệp không được.
Hỏi: Tại sao hiệp chẳng được? Sư đáp: Không có cái đồng có thể
đồng thì hiệp cái gì?
*
Tăng hỏi: Làm sao
thương lượng được chẳng rơi vào giai cấp? Sư đáp: Đuổi chẳng đi.
Hỏi: Vì sao đuổi chẳng đi? Sư đáp: Vì y từ trước không giai cấp.
Hỏi: Chẳng biết ở vị nào? Sư đáp: Chẳng ngồi điện Phổ Quang.
Hỏi: Lại lý hóa cùng chăng? Sư đáp: Tiếng vang ba cõi trọng,
chỗ nào chẳng về chầu.
*
Một hôm, có bà
lão trong thôn đến đảnh lễ Sư. Sư bảo: Bà về mau để cứu mấy
ngàn sanh mạng. Bà lão về gấp đến nhà, thấy con dâu xách một
giỏ ốc từ ngoài đồng đem về. Bà liền tiếp lấy đem xuống hồ
thả hết.
*
Đến khi Sư tịch làm
lễ trà-tỳ, có con rắn lớn từ trên cây gieo mình xuống đống
lửa. Sau khi lửa tắt, xá-lợi bay tung, gió thổi cỏ cây ngã rạp.
*
29. THIỀN
SƯ TÔNG NHẤT
Pháp danh Sư Bị ở Huyền Sa - (835-908)
Sư họ Tạ quê ở
huyện Mân, Phước Châu. Thuở nhỏ thích câu cá, Sư sắm một chiếc
thuyền nhỏ thường thả câu trên sông Nam Đài.
Đến năm ba mươi
tuổi, nhằm niên hiệu Hàm Thông năm đầu (860), Sư chợt phát tâm
cầu giải thoát. Liền bỏ thuyền câu, Sư lên núi Phù Dung theo
Thiền sư Linh Huấn xuất gia, đến chùa Khai Nguyên ở Dự Chương thọ
giới cụ túc với Luật sư Đạo Huyền. Sau đó, Sư chỉ mặc áo gai đi
giày cỏ, ăn vừa đủ sống, suốt ngày ngồi yên lặng. Trong chúng
thấy đều kinh dị.
Đối với Tuyết
Phong Nghĩa Tồn, Sư là đàn em trong đạo, mà gần gũi kính thờ như
thầy trò. Tuyết Phong thấy Sư khổ hạnh nên gọi là Đầu-đà.
Một hôm, Tuyết
Phong hỏi: Cái gì là Đầu-đà Bị? Sư đáp: Trọn chẳng dám dối
người. Hôm khác, Tuyết Phong gọi: Đầu-đà Bị! tại sao chẳng đi
tham vấn các nơi? Sư thưa: Đạt-ma chẳng đến Đông độ, Nhị Tổ chẳng
sang Tây thiên. Tuyết Phong gật đầu.
*
Tuyết Phong lên
núi Tượng Cốt hoằng hóa, Sư cùng góp sức đắc lực. Học lữ các
nơi tụ họp thật đông.
Sư nhập thất quên
mất sớm chiều, lại xem kinh Lăng Nghiêm phát minh tâm địa. Do đó,
Sư ứng đối lẹ làng cùng kinh điển phù hợp. Những vị huyền học
ở các nơi chưa giải quyết nghi ngờ đều đến cầu Sư chỉ dạy. Đến
như Tuyết Phong gạn hỏi đối đáp cũng tương đương chẳng nhượng.
Tuyết Phong bảo: ?Đầu-đà Bị là người tái sanh.?
*
Tuyết Phong thượng
đường nói:
- Cần hỏi được
việc này, ví như gương xưa hiện ở trên đài, Hồ đến thì hiện Hồ,
Hán đến thì hiện Hán.
Sư thưa:- Chợt gặp
gương sáng đến thì thế nào?
Tuyết Phong bảo:-
Hồ Hán đều ẩn.
Sư thưa:- Lão Hòa
thượng gót chân chưa dính đất.
*
Trưởng lão Nam Tế
đến Tuyết Phong, Tuyết Phong dạy đến hỏi Sư:
Sư hỏi:
- Cổ nhân nói:
?việc này chỉ ta hay biết?, ý kiến Trưởng lão thế nào?
Nam Tế thưa:- Nên
biết có người chẳng cầu biết.
Sư bảo:- Hòa
thượng ở trên chót núi chịu bao nhiêu thứ khổ sở để làm gì?
*
Tuyết Phong nói:
- Thế giới rộng
một thước gương xưa rộng một thước; thế giới rộng một trượng
gương xưa rộng một trượng.
Sư chỉ lò lửa
hỏi:- Lò lửa rộng bao nhiêu?
- Như gương xưa
rộng.
- Lão Hòa thượng
gót chân chưa dính đất.
*
Sư từ biệt Tuyết
Phong rằng:
- Thưa Hòa thượng!
?mỗi người có tự do tự tại?, hôm nay tôi xin xuống núi.
Tuyết Phong hỏi:-
Lời ai nói thế ấy?
- Lời Hòa thượng
nói thế ấy.
- Còn ông thì sao?
- Chẳng tự do tự
tại.
- Biết.
Lúc đầu, Sư được
thỉnh trụ viện Phổ Ứng tại trường Mai Khê. Kế đó, Sư dời trụ
tại núi Huyền Sa. Từ đây chúng tăng khắp nơi đua nhau đến tham
vấn. Học chúng hă?g ngày trên số tám trăm vị. Mân soái Vương
Công thỉnh Sư diễn Vô thượng thừa và kính Sư làm thầy.
*
Sư thượng đường im
lặng giây lâu, bảo chúng:
- Tôi đã vì các
ông triệt khốn (thống thiết), lại hội chăng?
Có vị Tăng thưa:-
Khi lặng lẽ không nói là sao?
- Nói mớ làm gì?
[Mớ là tiếng nói trong giấc mộng.]
- Thỉnh Thầy nói
việc bổn phận?
- Ngủ mê làm gì?
- Học nhân tức
ngủ mê, còn Thầy thì sao?
- Đâu được thế
ấy, chẳng biết ngứa ngáy.
Sư lại nói:
Đáng tiếc! Sư tăng
đông như thế, đi hành khước ngàn dặm muôn dặm đến đây, mà
chẳng tiêu cái ngủ mê nói mớ, bèn thối lui.
*
Vi Giám Quân đến
yết kiến Sư, thưa: Hòa thượng Tào Sơn rất kỳ quái. Sư hỏi: Vũ
Châu cách Tào Sơn mấy dặm? Vi Giám chỉ vị Tăng bên cạnh hỏi:
Thượng tọa từng đến Tào Sơn chăng? Vị Tăng ấy nói: Đã từng
đến. Vi Giám hỏi: Vũ Châu cách Tào Sơn mấy dặm? Tăng nói: Một
trăm hai mươi (120) dặm. Vi Giám bảo: Thế ấy là Thượng tọa chưa
đến Tào Sơn. Vi Giám đứng dậy đảnh lễ Sư, Sư bảo: Giám Quân nên
lễ vị Tăng này, vị Tăng này đầy đủ hổ thẹn.
*
Sư dạy chúng:
- Chư thiền đức!
các ông du phương hành khước đến đây, nói rằng ta tham thiền học
đạo, là có chỗ kỳ đặc, hay chỉ hỏi đông hỏi tây? Nếu có chỗ
kỳ đặc hãy thông qua, tôi sẽ vì các ông chứng minh là phải hay
chẳng phải. Tôi trọn biết hết, lại có kỳ đặc chăng? Nếu không
có kỳ đặc, chỉ là người đuổi theo tiếng. Các ông đã đến trong
đây, giờ đây tôi xin hỏi: các ông là người có mắt chăng? Nếu
có thì hiện đây liền nhận biết được, mà các ông có biết được
chăng? Nếu các ông chẳng biết, bị tôi gọi kẻ mù từ nhỏ, kẻ
điếc từ nhỏ, có phải chăng? chấp nhận lời nói như thế chăng?
Chư thiền đức!
cũng chớ tự khi mà lui sụt, cái chân thật của các ông đâu
từng là người mù điếc. Chư Phật mười phương nắm các ông để
trên đầu, chẳng dám lầm lẫn một phần tử, chỉ nói ?việc này duy
ta hay biết?, hội chăng? Như hiện nay thừa kế, trọn nói là thừa
kế Thích-ca. Tôi nói: ?Thích-ca cùng tôi đồng tham cứu.? Các ông
nói tham cứu cái gì? hội chăng? Thật không phải dễ dàng biết,
phải là người đại ngộ mới có thể biết được. Nếu cái sở ngộ
chừng bực cũng không thể gặp. Các ông lại biết đại ngộ chăng?
Không phải là nhận cái chiếu soi trên đầu các ông, không phải
cái các ông nói không, nói rỗng, nói bên nây bên kia, nói có
pháp thế gian, nói có một cái chẳng phải pháp thế gian.
Hòa thượng con! hư
không vẫn từ mê vọng huyễn sanh. Hiện nay nếu đại ngộ thì còn
có chỗ nào để nói năng? Còn không có hư không thì chỗ nào có
tam giới? nghiệp dẫn, cha mẹ làm duyên sanh ra ta thành lập trước
sau? Hiện nay nói không vẫn là lừa dối, huống là nói có. Biết
chăng? Các ông đi hành khước đã lâu, tự nói có việc giác ngộ.
Nay tôi hỏi ông: ví như chót núi bờ vực chỗ không có dấu vết
người, lại có Phật pháp chăng? biện được rành rẽ chăng? Nếu
biện chẳng được thật là chưa có.
Tôi thường nói:
trước mặt vị Tăng chết tức là chạm mắt Bồ-đề, thần quang muôn
dặm là tướng sau đảnh. Nếu người gặp được, chẳng ngại ra ngoài
ấm giới, thoát khỏi ý tưởng trên đầu ông, xưa nay chỉ là thể
người chân thật của ông. Chỗ nào còn có một pháp khác che
đậy? Các ông biết chăng? tin chăng? hiểu thừa đương được chăng?
Rất cần nỗ lực!
*
Có vị Tăng hỏi:
- Nhân nghe Hòa
thượng nói ?tột mười phương thế giới là một hòn minh châu?, con
làm sao được hội?
Sư đáp:
- Tột mười phương
thế giới là một hòn minh châu, dùng hội để làm gì?
Vị Tăng ấy bèn
thôi.
Sư hỏi lại:
-Tột mười phương
thế giới là một hòn minh châu, ngươi làm sao hội?
Tăng thưa:
- Tột mười phương
thế giới là một hòn minh châu, dùng hội làm gì?
Sư bảo:- Biết ngươi
nhằm trong hang quỉ tìm kế sống.
*
Sư dạy
chúng:
- Nay tôi hỏi các
ông đã thừa đương được việc gì? tại thế giới nào an thân lập
mạng? biện biệt được chăng? Nếu biện chẳng được in tuồng ấn
mắt thấy hoa đốm, thấy việc đã sai, biết chăng? Hiện nay thấy
núi sông đồng nội sắc không tối sáng bao nhiêu sự vật đều là
tướng hoa đốm cuồng nhọc sanh ra, gọi là tri kiến điên đảo. Phàm
người xuất gia phải Thức tâm đạt bản, nên hiệu là Sa-môn. Nay
các ông đã cạo tóc đắp y làm tướng Sa-môn, thì phải có phần
tự lợi lợi tha. Mà nay xem thấy đầu đen kịt tối tăm như dầu hắc,
tự cứu còn chẳng được, làm sao giải cứu cho người.
Nhân giả! nhân
duyên Phật pháp là việc lớn, chớ nên thong thả dụm đầu nói
bậy nói loạn theo tiếng qua ngày, thì giờ khó được, đáng tiếc,
kẻ đại trượng phu sao chẳng tự tỉnh xét, xem là vật gì? Về tông
phong từ trước là dòng chư Phật đảnh, các ông đã thừa đương
chẳng được. Do đó, tôi phương tiện khuyên các ông nên từ cửa
Ca-diếp tiếp tục chóng vượt qua đi. Một cửa này vượt khỏi nhân
quả phàm thánh, vượt cả biển thế giới diệu trang nghiêm của
Tỳ-lô, vượt luôn cửa phương tiện của đức Thích-ca, thẳng đây
vĩnh kiếp chẳng dạy có mộ? vật để ông trông thấy. Sao ông
chẳng mau mau tham cứu lấy? Không nên nói ?ta hãy đợi hai đời, ba
đời, gom chứa tịnh nghiệp lâu xa mới được?.
Nhân giả! tông
thừa của các ông là việc gì? Không thể do thâm tâm ông dụng
công trang nghiêm mà được, không thể do tha tâm túc mạng mà
được, hội chăng? Như đức Thích-ca ra đời làm rất nhiều việc, nói
mười hai phần giáo, tạo thành một trường Phật sự cho ông. Nhưng,
trong cửa này dùng một điểm chẳng được, dùng một đầu sợi lông
lượng xét chẳng được. Biết chăng? Như việc trong mộng, cũng như
ngủ mớ. Sa-môn chẳng chịu hiện ra là chẳng đồng việc mộng, bởi
vì biết được, hiểu chăng? Biết được tức là đại giải thoát,
người thấu triệt. Do đó, mà siêu phàm vượt thánh, dứt sanh lìa
tử, rời nhân xa quả, siêu Tỳ-lô, vượt Thích-ca, chẳng bị nhân
quả phàm thánh lừa, tất cả chỗ không người biết được ông,
biết chăng? Chớ hằng mắc trong lưới ái sanh tử, bị nghiệp thiện
ác trói buộc lôi đi, không có phần tự do. Dù ông luyện được
thân tâm đồng hư không, dù ông được đến chỗ tinh minh lặng lẽ
chẳng động, vẫn không ra khỏi thức ấm. Cổ nhân gọi nó ?như
thác nước?. Vì nó chảy nhanh nên chă?g biết vọng, cho là lặng
lẽ. Tu hành thế ấy trọn chẳng ra khỏi mé luân hồi, vẫn như
trước bị luân chuyển. Cho nên nói ?các hạnh vô thường, hẳn là
công quả của tam thừa?. Như thế, thật đáng sợ. Nếu không có
đạo nhãn cũng chẳng được cứu kính. Sao bằng hiện nay là phàm phu
chay chẳng dùng một mảy công phu liền được chóng siêu xuất.
Hiểu sức tĩnh tâm chăng? Lại mong thích chăng? Khuyên các ông,
như tôi hiện giờ đứng thẳng đợi các ông nhìn thấy, chẳng dạy
các ông dụng công luyện hạnh. Hiện nay chẳng thế ấy, lại đợi
khi nào? lại chấp nhận chăng?
*
Sư dạy chúng:
- Này các ông!
giống như người ngồi trong biển cả nước ngập lút đầu, mà đưa tay
hỏi người xin nước uống. Hội chăng? Phàm người học Bát-nhã
Bồ-tát phải đại căn khí có đại trí tuệ mới được. Nếu người có
trí tuệ thì hiện nay được siêu thoát. Nếu người căn cơ trì độn
cần phải siêng năng khổ nhọc nhẫn nại, ngày đêm bỏ ăn quên
mệt, giống hệt người đưa đám ma mẹ vậy. Cấp thiết thế ấy đến
trọn một đời, lại được người dìu dắt cần phải ghi xương thật
cứu, chẳng ngại gì cũng sẽ được gặp. Huống là, hiện nay ai là
người kham chịu thọ học?
Nhân giả! chớ có
nhớ câu ghi lời, giống hệt người niệm thần chú, cất bước đi
đến trong miệng đọc đa đa hòa hòa, bị người nắm đứng hỏi, liền
quên mất hết, liền nổi sân nói: Hòa thượng chẳng vì con đáp
thoại. Việc học thế ấy là đại khổ, biết chăng?
Có một bọn Hòa
thượng ngồi trên giường thiền xưng là thiện tri thức, bị người
hỏi liền động thân, động tay, chỉ mắt, le lưỡi, trợn mắt. Lại
có một bọn bèn nói: sáng rỡ linh thông trí tánh linh đài hay
thấy hay nghe, nhằm trong thửa ruộng thân năm uẩn làm chủ tể.
Thiện tri thức! Thế ấy là quá dối người. Biết chăng? Nay tôi
hỏi các ông: nếu nhận cái sáng rỡ linh thông ấy là ông chân
thật, tại sao khi ngủ mê lại không có sáng rỡ linh thông? Nếu
khi ngủ mê chẳng phải, thì tại sao có khi sáng rỡ? Các ông hội
chăng? Cái ấy gọi là nhận giặc làm con, là cội gốc sanh tử,
duyên khí vọng tưởng. Các ông muốn biết căn do này chăng? tôi
nói với ông: cái sáng rỡ linh thông của ông chỉ nhân pháp sắc
thanh hương vị? của tiền trần mà có phân biệt, bèn nói đây là
sáng rỡ linh thông. Nếu không có tiền trần thì cái sáng rỡ linh
thông của ông đồng với lông rùa sừng thỏ.
Nhân giả! Chân
thật ở chỗ nào? Nay ông muốn ra khỏi cái chủ tể của thửa
ruộng thân năm uẩn, chỉ biết nhận lấy thể kim cang bí mật. Cổ
nhân đã nói với các ông ?viên thành chánh kiến khắp giáp sa
giới?. Nay tôi lấy ít phần nói thí dụ, các ông có trí do đó có
thể biết: Các ông thấy mặt trời nơi thế giới này chăng? Người
thế gian tạo tác sanh hoạt, bao nhiêu việc tâm hành tạo nghiệp
đều nhờ ánh sáng mặt trời mà có. Song mặt trời có nhiều thứ
đến tâm hành chăng? lại có chỗ chẳng khắp giáp chăng? Muốn
biết thể kim cang này cũng như thế. Hiện nay núi sông đất bằng,
mười phương cõi nước sắc không sáng tối và thân tâm ông, đều
nhờ cái oai quang viên thành của ông mà hiện. Cả thảy trời
người các loài quần sanh tạo nghiệp thọ quả báo có tánh không
tánh, đều nhờ cái oai quang của ông. Cho đến, chư Phật thành đạo
thành quả tiếp vật lợi sanh, đều trọn nhờ cái oai quang của
ông. Nhưng thể kim cang lại có phàm phu chư Phật chăng? có tâm
hành của ông chăng? Không thể nói không là đúng được. Biết
chăng? Ông đã có cái kỳ đặc như thế, bày hiện chỗ xuất thân,
sao chẳng phát minh lấy? Lại theo người nhằm trong thửa ruộng
thân năm ấm, trong cõi quỉ mà tìm kế sống. Hẳn là tự dối mất
vậy. Chợt gặp quỉ vô thường đến, mắt trợn miệng méo thân kiến
mạng kiến khi thế ấy thật khó chống chọi được. Giống như lột
vỏ con rùa sống, thật khổ!
*
Nhân giả! chớ bám
lấy kiến giải ngủ mê, cần phải dẹp đi. Chưa giải che đậy bao
nhiêu đầu sợi lông? Ông lại biết chăng? Tam giới không yên ví
như nhà lửa, vả lại ông vẫn là người chưa được an ổn, chỉ kết
thành đoàn can phạm việc thế nhân, bên này bên kia bay chạy in
tuồng con nai rừng chỉ biết tìm ăn tìm mặc. Nếu thế ấy, đâu thể
hành vương đạo. Biết chăng? Quốc vương đại thần chẳng bắt buộc
ông, cha mẹ cho ông đi xuất gia, mười phương thí chủ cúng dường
ông áo mặc cơm ăn, thổ địa long thần ủng hộ ông, cần phải đầy
đủ hổ thẹn biết ân mới được. Chớ cô phụ lòng tốt của người.
Khi bệnh nằm liệt trên giường, lăn lộn dưới đất, nói là an lạc
thì chẳng có, đều là nhờ cơm cháo nuôi dưỡng. Ông đến khi thân
hư hoại như trái dưa gang chẳng khác, rồi đem chôn vùi dưới đất,
nghiệp thức mờ mờ không chỗ để nương. Sa-môn vì sao lại đến thế
ấy? Chỉ vì như côn trùng trên đất, tôi gọi là tạo nghiệp ở
trong địa ngục.
Hiện nay nếu chẳng
liễu ngộ, sáng sớm hôm nào sẽ thấy vào trong thai lừa bụng
ngựa, mang ách kéo cày hàm sắt dây yên, cối đá xay nghiền nước
lửa thiêu nấu, thật chẳng dễ dàng, chịu những điều rất kinh sợ.
Hoàn toàn tại ông tự tạo khổ lụy, biết chăng?
Nếu là liễu ngộ,
liền đó muôn kiếp chẳng từng dạy ông có những dấu hiệu ấy.
Nếu chẳng liễu ngộ thì nhân duyên phiền não ác nghiệp này, chưa
phải là một kiếp hai kiếp được hết. Hẳn là cùng với cái kim
cang của ông đồng tuổi thọ, hiểu chăng?
*
Sư dạy chúng:
- Chân tông cổ
Phật thường tùy vật hiện ứng dụng rành rành nơi nơi sáng rỡ,
ẩn hiện thản nhiên, thấp cao đều chiếu. Thế nên, Sa-môn Thượng
sĩ duy đạo nhãn là trước, hợp bản minh tâm mới là cứu kính. Vạn
tượng sum la một thể đồng nguồn, rỗng suốt không ngằn, ai luận
có kẹt, việc trong trần kiếp hiện ở trước mắt. Người đời cách
xa lâu đời, nên trái với thể thường, quên tâm nhận vật, mà
ngược với chân tông, chấp có kẹt không, chẳng gặp thầy lành
bạn tốt, chỉ tự nhận hiểu riêng mình. Dù họ có bàn luận, lẫn
lộn trong ý so tính. Cho đến, tìm đến chỗ lý tột vẫn không phân
biệ? chánh tà. Huống là bình sanh chưa từng mò bắt.
Nếu là bậc cổ
đức tiên hiền, khi được biết liền khắc kỷ thật hành công phu,
ở am tranh hoặc thất đá trên chót núi. Cổ đức nói: ?tình phàm
lượng thánh vẫn rơi trong pháp trần, kiến giải của mình chưa quên
bèn thành rỉ chảy?. Không thể nói: trì trai giữ giới, ngồi mãi
chẳng nằm, dừng ý quán không, kềm tâm vào định, là đã đúng.
Thế ấy, vẫn không có gì giao thiệp. Vì ngoại đạo ở Ấn Độ nhập
định được tám muôn kiếp, lắng thần lặng lẽ, nhắm mắt che tròng,
thân bặt trí dứt, sau khi số kiếp mãn vẫn không khỏi luân hồi.
Bởi vì đạo nhãn chẳng sáng, nguồn gốc sanh tử không phá vậy.
Phàm là kẻ xuất
gia thì chẳng thế, không nên đồng với ngoại đạo. Nếu là người
chân thật minh đạt, đủ đại tri kiến, hay cùng chư Phật cùng tột,
tịch chiếu quên biết, rỗng trùm vạn tượng. Như hiện nay, chỗ nào
chẳng phải là ông? chỗ nào chẳng rõ ràng? chỗ nào chẳng bày
hiện? sao chẳng cùng nó hội đi? Nếu khi không có thửa ruộng này
thì đâu khỏi các thứ rỉ chảy, thảy thành hư vọng, cái gì là chỗ
đắc lực lúc bình sanh?
Nếu ông thật chưa
phát minh, cần phải đặt trong thời gian cấp thiết, quên ăn bỏ
ngủ, dường như cứu lửa cháy đầu, như thân mạng sắp chết, tâm
thầm tự cứu, bỏ hết các duyên rảnh rỗi, đuổi sạch tâm thức,
mới có ít phần gần gũi. Nếu không như thế, một hôm nào đó
trọn bị thức tình lôi đi, có được phần nào tự do??
*
Sư lo đại pháp khó
dạy, ít gặp bậc thượng căn, học giả y lời sanh hiểu, theo chiếu
mất tông, bèn dạy ba câu cương tông:
Câu thứ nhất. ?
Hãy tự đảm nhận, hiện hành đầy đủ, tột mười phương thế giới
không có gì khác, chỉ là các ngươi, lại dạy cái gì thấy, cái gì
nghe? Toàn là tâm vương của ông làm ra, trọn thành trí bất động.
Chỉ thiết đảm nhận, nên mới khai cửa phương tiện, khiến các ngươi
tin có một phần chân thường lưu trú. Cùng xưa tột nay chưa có
chẳng thị (phải), chưa có chẳng phi (sai). Song câu này thành pháp
bình đẳng. Tại sao? Chỉ vì dùng lời để dẹp lời, lấy lý để đuổi
lý, bình thường tánh tướng, tiếp vật lợi sanh mà thôi. Chính nơi
tông chỉ vẫn còn sáng phía trước tối phía sau, gọi là một vị bình
thật, là cái lượng chứng từng phần pháp thân, chưa có câu xuất
cách, chết tại câu sau, chưa có phần tự do. Nếu biết cái lượng
xuất cách, chẳng bị tâm ma sai khiến, vào trong tay liền chuyển
đổi lăn trùng trục dưới đất, nói là thông đại đạo, chẳng rơi
vào kiến giải bình thường trong lòng.
Câu thứ hai.- Xoay
nhân về quả, chẳng mắc nơi lý bình thường nhất như. Phương tiện
gọi là vị chuyển, hợp cơ sanh sát, tự tại buông thâu, tùy nghi
vào sanh ra tử, rộng làm lợi ích tất cả, ra khỏi sắc dục và
cảnh ái kiến. Phương tiện gọi là Phật tánh đốn siêu tam giới.
Đây gọi là hai lý cùng sáng, hai nghĩa đồng chiếu, không bị hai
bên làm động, diệu dụng hiện tiền.
Câu thứ ba.- Biết
có cái gốc tánh tướng đại trí, kiến giải vượt bực, tối sáng
rỗng suốt, thênh thang khắp sa giới, một thể tánh chân thật,
đại dụng hiện trước, ứng hóa khôn ngằn, toàn dùng toàn chẳng
dùng, toàn sanh toàn chẳng sanh. Phương tiện gọi là cái cửa từ
định.
*
Sư có kệ:
Vạn lý
thần quang đảnh hậu tướng
Một
đảnh chi thời hà xứ vọng
Sự dĩ
thành ý diệc hưu
Thử cá
lai tung xúc xứ chu
Trí giả
liêu trước tiện đề thủ
Mạc đãi
tu du thất khước đầu.
Dịch:
Thần
quang muôn dặm tướng sau đảnh
Khi chìm
mất đảnh chỗ nào trông
Việc đã
thành, ý cũng thôi
Cái ấy
lâu nay chạm đến khắp
Người
trí nắm được liền đưa lên
Chớ đợi
phút giây quên mất đầu.
*
Huyền Sa
du cảnh biệt
Thời
nhân thiệt tu trì
Tam đông
dương khí thạnh
Lục
ngoạt giáng sương thì.
Hữu ngữ
phi quan thiệt
Vô ngôn
thiết yếu từ
Hội ngã
tối hậu cú
Xuất
thế thiểu nhân tri.
Dịch:
Huyền Sa
đường tắt riêng
Người
đời cần nên biết
Ba đông
khí dương thạnh
Tháng
sáu sương xuống nhiều.
Có lời
không hệ lưỡi
Không
nói rất cần câu
Hiểu ta
câu rốt sau
Ra đời
ít người biết.
*
Sư ứng cơ tiếp vật
ngót ba mươi năm, chúng thường có mặt trong hội nghe không dưới
tám trăm vị.
Đến đời Lương niên
hiệu Khai Bình năm thứ hai (908), ngày hai mươi bảy tháng mười một
năm Mậu Thìn, Sư có chút bệnh rồi tịch. Sư thọ bảy mươi bốn
tuổi, được bốn mươi tuổi hạ.
] |