TỌA THIỀN TAM - MUỘI
[mucluc][loidichgia][p1][p2][p3][p4][p5][p6]
CHƯƠNG III: TÙY BỆNH ĐỐI TRỊ Nếu người đa dục dùng pháp môn Bất tịnh trị. Nếu người nhiều nóng giận dùng pháp môn Từ bi trị. Nếu người nhiều ngu si lấy pháp môn quán Nhân duyên trị. Nếu người nhiều lo nghĩ lấy pháp môn Niệm hơi thở trị. Nếu người đẳng phần (tham, sân, si đồng nhau) lấy pháp môn Niệm Phật trị. Bao nhiêu thứ bệnh có bấy nhiêu thứ pháp môn để trị. I. PHÁP MÔN TRỊ ĐA DỤC Người dâm dục nhiều nên tu quán Bất tịnh. Từ chân đến đầu đầy dẫy bất tịnh : tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dày, máu mủ, thịt, gân, mạch, xương, tủy, gan, phổi, tim, lá lách, dạ dày, ruột non, ruột già, phẩn, nước tiểu, nước mũi, nước miếng, mồ hôi, nước mắt, cứt ráy, đất, óc, bong bóng, mật đàm, bầy nhầy, mỡ, mỡ sa, màng óc. Đó là ba mươi sáu vật bất tịnh trong thân. Lại quán Bất tịnh có chín thứ theo thứ tự : 1.- Quán thây mới chết bầm xanh. 2.- Lần lần śnh chương. 3.- Kế nứt nẻ. 4.- Máu chảy ra. 5.- Rục ră. 6.- Lầy thúi. 7.- Gịi, thú đục, ăn. 8.- Xương mục. 9.- Thiêu rụi. Đó là Cửu tưởng bất tịnh. Người đa dục có bảy thứ yêu : Yêu sắc đẹp. Yêu dáng điệu. Yêu dung mạo. Yêu âm thanh. Yêu bóng láng. Yêu con người. Tổng yêu. Nếu yêu sắc đẹp nên tập quán thây chết bầm xanh, những sắc bất tịnh vàng, đỏ cũng như vậy. Nếu yêu dáng điệu nên tập quán thây śnh chương và nứt nẻ. Nếu yêu dung mạo nên tập quán thây máu chảy và rục ră. Nếu yêu âm thanh, tập quán người khi sắp chết, cổ nức lên và tắt thở. Nếu yêu bóng láng nên tập quán bộ xương và người bệnh khô gầy. Nếu yêu con người nên tập quán cả sáu thứ trong chín thứ bất tịnh. Nếu tổng yêu nên quán cả chín thứ. Hoặc khi quán các thứ này, lại khi quán các thứ khác, đều gọi là quán Bất tịnh. - Nếu thân bất tịnh như thây thúi lầy th́ do đâu mà yêu ? Nếu yêu thân trong sạch th́ thân thúi lầy cũng vẫn yêu ? Nếu không yêu thân thúi lầy th́ thân trong sạch cũng không yêu, v́ hai thân là một vậy. - Nếu t́m hai cái thật tịnh th́ không thể có. Tâm người mê lầm bị sự điên đảo che đậy nên không phải tịnh chấp là tịnh, nếu phá dẹp tâm điên đảo th́ được pháp quán thật tướng liền biết bất tịnh là hư dối không thật. Lại nữa, thây chết không có hơi ấm, mạng sống, thần thức và các căn bế tắc, người nhận kỹ th́ tâm không sanh yêu mến. Thân sống có hơi ấm, mạng sống, thần thức các căn sáng sủa, nên tâm điên đảo mê lầm sanh yêu mến. Khi tâm yêu sắc cho đó là tịnh, tâm yêu sắc dứt liền biết là bất tịnh. Nếu là thật tịnh th́ phải thường tịnh, mà đây không phải thế. Như chó ăn phẩn cho là sạch, lấy con mắt người xem th́ thấy rất dơ. Thân này toàn cả trong, ngoài không có chỗ nào là sạch. Nếu yêu dáng ngoài của thân, toàn thân da mỏng bao bọc, nếu nắm cắt một miếng bằng ngón tay ta sẽ thấy bày tướng bất tịnh, huống là cả ba mươi sáu vật nhơ nhớp trong thân. Hơn nữa, xét ra nhân duyên tạo thành thân có bao nhiêu thứ bất tịnh. Trước tiên do tinh huyết cha mẹ hợp thành là bất tịnh, thành thân rồi thường chảy ra các thứ bất tịnh, cho đến quần áo, mền chiếu cũng là bất tịnh, nếu đến khi chết th́ sự bất tịnh không thể kể xiết. Do đó nên biết sống, chết, trong, ngoài đều là bất tịnh. Sau khi quán Bất tịnh thành công chuyển lên quán Tịnh. Người tu Tịnh quán có ba hạng : Mới tập, đang tập, tập đă lâu. - Nếu người mới tập (người trước chưa phát tâm kiên cố) phải dạy rằng : Tưởng lột toát da ra trừ dẹp hết máu, thịt v.v… các thứ bất tịnh, quán bộ xương người đỏ. Buộc ư quán tưởng không cho nghĩ ǵ khác, có nghĩ khác phải lôi trở về. - Nếu người đang tập (người tập hành đôi ba năm) nên dạy : Tưởng toát da thịt quán xương đầu, không cho nghĩ ǵ khác, có nghĩ khác phải lôi trở về. - Nếu người tập hành đă lâu (người đă tu tập trải qua mấy mươi năm) nên dạy : Tưởng dẹp hết da, thịt, buộc ư năm chỗ : Đỉnh đầu, trán, giữa chân mày, chót mũi, ngay quả tim. Trụ ư năm chỗ ấy, quán xương không cho nghĩ ǵ ngoài, có nghĩ ngoài phải thu nhiếp trở về. Thường xem xét tâm nó chạy đi phải lôi lại. Nếu tâm mệt mỏi sẽ dừng lại chỗ buộc duyên, không chạy ra ngoài nữa, như con khỉ bị xiềng bên cây cột, nhảy nhót mệt rồi sẽ nằm lại bên cây cột. Chỗ buộc tâm duyên như cây cột, ư niệm chăm chú như sợi dây, tâm như con khỉ. Lại như bà mẹ chăm giữ đứa con c̣n bú, không để nó rơi té. Hành giả quán tâm cũng như thế, lần lần chế phục được tâm, bắt nó ở một chỗ. Nếu tâm trụ được lâu đó là hợp pháp thiền. Nếu được thiền định th́ phát ba tướng : Thân thể vui vẻ nhẹ nhàng mềm dịu. Xương trắng phát ra ánh sáng trong như ngọc. Tâm dừng lặng. Đó là tướng Tịnh quán. Khi ấy, được tâm hợp với Sắc giới. Ấy là người mới học pháp thiền được tâm khế hợp Sắc giới. Tâm hợp với pháp thiền tức pháp Sắc giới. Tâm được pháp này mà thân c̣n ở Dục giới vẫn được ba tướng : 1- Tuy tứ đại thô mà được vui vẻ mềm dịu, h́nh chất trong sạch, tươi nhuần, bóng láng, điều ḥa. Ấy gọi là tướng vui vẻ. 2- Hành giả nội quán thấy tướng xương trắng phát ánh sáng khắp chiếu, sắc nó trắng trong. 3- Tâm trụ một chỗ. Như thế gọi là Tịnh quán. Trừ thịt quán xương gọi là Tịnh quán. II. PHÁP MÔN TRỊ NÓNG GIẬN Nếu người nhiều nóng giận, phải học pháp môn ba thứ Từ tâm. Hoặc người mới tập hành, người đang tập hành, người tập hành đă lâu. - Người mới tập hành nên dạy : Tâm Từ đến những người thân mến. Thế nào tâm Từ đến những người thân, nguyện làm cho họ được vui ? Hành giả nếu được các thứ thân tâm vui thích, như khi lạnh được mặc ấm, khi nóng được mát, đói khát được ăn uống, nghèo túng được của cải, làm nhọc nhằn được nghỉ ngơi v.v… những thứ vui ấy nguyện cho người thân mến cùng được hưởng. Chuyên tâm nhớ Từ không nghĩ ǵ khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở lại. - Người đang tập hành nên dạy : Tâm Từ đến những người không thân không sơ. Thế nào tâm Từ đến những người không thân không sơ, nguyện cho họ được vui ? Hành giả nếu được các thứ thân tâm vui thích, nguyện cho những người không thân không sơ đồng cùng chung hưởng. Chuyên tâm nhớ Từ không nghĩ ǵ khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về. - Người tập hành đă lâu nên dạy : Tâm Từ đến những người thù ghét. Thế nào tâm Từ đến những người ấy, nguyện cho họ được vui ? Hành giả nếu được các thứ thân tâm vui thích, nguyện những kẻ thù ghét đồng cùng chung hưởng, sự hưởng này đồng với người thân mến. Được b́nh đẳng nhất tâm, tâm rộng lớn thanh tịnh, người thân, người không thân không sơ, và kẻ thù ghét đều xem như nhau. Rộng đến cả thế giới vô lượng chúng sanh đều khiến được an vui, khắp cả mười phương cùng đồng một tâm b́nh đẳng rộng lớn thanh tịnh. Xem chúng sanh cả mười phương như xem thân ḿnh, thấy họ rơ ràng trước mắt đồng được thọ hưởng khoái lạc. Khi ấy được Từ Tam-muội. - Người thân mến, người không thân không sơ nguyện cho vui là được, c̣n kẻ thù ghét hung ác tại sao lại thương xót nguyện được vui ? - Nên ban vui cho những người ấy. V́ sao ? Người ấy c̣n bao nhiêu việc tốt là nhân của pháp thanh tịnh, tại sao ta nay lại do một cái thù nhỏ mà bỏ quên những cái tốt kia ! Lại suy nghĩ : Người kia thời quá khứ biết đâu không phải là thân quyến của ta, nay không thể do một chút sân mà sanh thù ghét. Ta phải nhịn họ, đó là thiện lợi của ta. Hoặc nghĩ : Ta thực hành pháp nhân đức, hàm chứa hoằng truyền sức từ bi vô lượng không thể để cho nó tiêu mất. Lại nghĩ : Nếu không có kẻ thù ghét th́ làm sao thành tựu nhân Sanh nhẫn. Sanh nhẫn là do kẻ oán thù ban cho, như vậy kẻ oán thù là người thân thiện của ta. Hơn nữa, quả báo của sân là tối trọng, trong các thứ ác nó là bậc trên hết, do sân mới tàn hại người, vật, nó là cái độc mà không thể kềm chế được, tuy muốn đốt người mà kỳ thật là thiêu ḿnh. Nên tự suy nghĩ : Bên ngoài mặc chiếc áo pháp, bên trong thực hành hạnh nhẫn nhục gọi là Sa môn, th́ đâu có thể nghe tiếng nói xấu liền thay đổi sắc diện, buông lung tâm tệ ác. Lại nghĩ : Thân ngũ ấm này là cái rừng đau khổ, là mục tiêu chịu đựng những điều tai ác, th́ những cái khổ năo tai ác đến làm ǵ tránh khỏi. Như gai nhọn đâm vào thân, khổ năo vô lượng, các thứ thù oán rất nhiều không thể diệt hết, phải tự bảo vệ bằng cách mang đôi giày nhẫn nhục. Như Phật dạy : Lấy sân trả sân, Sân trở hại đó, Sân mà không trả, Hay phá quân to. Hay không sân hận, Là pháp Đại nhân, Tiểu nhân sân hận, Khó động như núi. Sân là độc dữ, Tàn hại rất nhiều, Không thể hại người, Trở về tự hại. Sân là tối lớn, Có mắt không thấy, Sân là bụi nhớp, Ô uế tịnh tâm. Sân độc như thế, Phải mau trừ diệt, Rắn độc trong nhà, Không đuổi hại người. Sân hận như thế, Rất nhiều vô lượng, Thường tập Từ tâm, Trừ diệt sân hận. Như trên là môn Từ tam-muội. III. PHÁP MÔN TRỊ NGU SI Nếu người nhiều ngu si phải học pháp môn ba thứ suy nghĩ. Nếu người mới tập hành phải dạy : Sanh duyên lăo tử, vô minh duyên hành. Chỉ như thế suy nghĩ không cho nghĩ ǵ khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về. Nếu người đang tập hành phải dạy : Hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu. Như thế suy nghĩ không cho nghĩ ǵ ngoài, nếu có nghĩ việc ngoài liền thu nhiếp trở về. Nếu người tập hành đă lâu nên dạy : Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lăo tử. Như thế suy nghĩ không cho nghĩ ǵ khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về. Tất cả người trí là minh, tất cả người ngu là vô minh, trong ấy thế nào là vô minh ? Vô minh là tất cả không biết. Ở trong đây vô minh hay tạo có đời sau. Cái đáng có th́ không, cái đáng không lại có, bỏ các điều thiện, lấy các thứ ác, phá tướng chân thật, chấp các thứ giả dối. Như trong phẩm Vô Minh Tướng nói: Pháp mờ mịt không sáng, Không biết nghiệp đạo đức, Mà tạo nhân kiết sử, Như lửa nhân kéo có. Pháp ác mà tâm thích, Xa bỏ các pháp lành, Giặc cướp sáng chúng sanh, Xưa nay thường bị cướp. Tướng, thường, lạc, ngă, tịnh, Chấp trong thân ngũ ấm, Pháp khổ, tập, diệt, đạo, Cũng lại không thể biết. Đường hiểm các thứ năo, Người mù đi vào trong, Phiền năo nên nghiệp tập, Nghiệp nên khổ xoay ṿng. Không nên lấy mà lấy, Nên lấy trở lại bỏ, Theo đuổi tối, sai lầm, Dẫm phải gốc té nhào. Có mắt mà không tuệ, Thí dụ cũng như thế, Bởi nhân duyên ấy diệt, Trí sáng như mặt trời. Như thế lược nói vô minh cho đến lăo tử cũng vậy. Trong Phật pháp lư nhân duyên rất cao sâu, tại sao người nhiều ngu si lại hay quán nhân duyên ? Có hai hạng người ngu si : Hạng người mê muội như trâu, dê. Hạng người ôm các thứ tà kiến mê lầm đen tối, là người ngu si tà kiến. Phật v́ hạng người sau bảo phải quán nhân duyên tập chánh định. IV. PHÁP MÔN TRỊ LO NGHĨ Người nhiều lo nghĩ phải tập pháp môn A-na-ban-na Tam-muội. Nếu người mới tập hành phải dạy : Nhất tâm đếm hơi thở vào, ra, hoặc dài, hoặc ngắn, đếm từ một đến mười. Nếu người đang tập hành phải dạy : Đếm hơi thở từ một đến mười và theo hơi thở vào, ra, niệm cùng hơi thở, đồng dừng tâm ở một chỗ. Nếu người tập hành đă lâu nên dạy : Đếm hơi thở, theo hơi thở, chỉ, quán, hoàn và tịnh. A-na-ban-na Tam-muội có sáu môn, chia làm mười sáu phần. Sáu môn là : 1) Sổ tức. - Hành giả nhất tâm nhớ hơi thở vào đến cùng, đếm một, hơi thở ra đến cùng, đếm hai. Nếu hơi thở chưa cùng mà đếm là sai. Nếu đếm từ hai đến chín mà quên phải đếm lại một. Ví như nhà toán học tính một với một là hai, hai với hai là bốn v.v… không sai một mảy. - Tại sao phải đếm ? - Nhân đếm hơi thở quán vô thường, dễ được dứt các lo nghĩ và được nhất tâm. Thân tâm sanh diệt vô thường liên tục tương tự khó thấy, nhân thở vào, ra sanh diệt vô thường mà dễ biết, dễ thấy được nó. Tâm buộc tại số, dứt các lo nghĩ . Lo nghĩ có sáu thứ : Lo nghĩ tham dục. Lo nghĩ giận hờn. Lo nghĩ năo hại. Lo nghĩ quê hương thân thuộc. Lo nghĩ cơi nước. Lo nghĩ không chết. Người muốn cầu tịnh tâm vào chánh đạo, trước phải diệt ba thứ lo nghĩ thô, kế trừ ba thứ tế. Trừ hết sáu cái lo nghĩ này sẽ được pháp Nhất thiết thanh tịnh. Ví như người luyện vàng, trước bỏ những đá sỏi thô, sau mới bỏ bợn cát tế, lần lượt được vàng ṛng. - Thế nào là bệnh thô ? - Nghĩ tham dục, nóng giận, năo hại là ba thứ bệnh thô. Nghĩ quê hương thân thuộc, cơi nước, không chết là ba thứ bệnh tế. Trừ được sáu cái lo nghĩ này sẽ được pháp tất cả thanh tịnh. - Người chưa được đạo, kiết sử chưa đoạn, sáu cái lo nghĩ này từ tâm khởi loạn, làm sao trừ được ? - Tâm chán thế gian và tu chánh quán th́ hay ngăn mà chưa nhổ được gốc nó, sau khi được đạo vô lậu mới nhổ hết gốc rễ của nó. - Thế nào là chánh quán ? - Như bài tụng : Thấy người đa dục cầu đă khổ, Được nó giữ ǵn càng thêm khổ, Mất đi buồn thảm khổ lại hơn, Khi tâm được dục không măn khổ. Dục nhân vô thường, không, sầu thảm, Các thứ chung hợp nên bỏ đi, Thí như rắn độc vào nhà người, Không gấp đuổi đi hại ắt đến. Không định, không thật, không quí trọng, Những thứ dục cầu vui điên đảo, Như A-la-hán lục thần thông, Cảnh tỉnh đệ tử giác dục rằng : Ngươi không phá giới, giới thanh tịnh, Không cùng người nữ chung nhà ngủ, Rắn độc kiết dục đầy nhà tâm, Ràng buộc vui ái không xa ĺa. Đă biết giới thân không thể phá, Mà tâm thường cùng lửa dục chung, Ngươi vốn xuất gia cầu đạo pháp, Bởi đâu buông lung đến thế này ? Cha mẹ sanh thành nuôi nấng ngươi, Bà con quyến thuộc thương yêu lắm, Thảy đều rơi lệ quyến luyến ngươi, Ngươi đành xa bỏ không đoái tưởng. Mà nay sao lại ôm ḷng dục ? Cùng dục vui vầy không chán nhàm, Thường cùng lửa dục chung một chỗ, Vui vẻ thích thú không tạm ĺa. Như thế các thứ quở trách tham dục và những thứ chánh quán trừ tâm tham dục. - Thế nào diệt tâm giận hờn ? - Như bài tụng : Từ bào thai ra thường chịu khổ, Chúng sanh như thế chớ giận hại, Nóng giận khởi lên dùng Từ diệt, Từ bi nóng giận không chung cùng. Người nhờ Từ bi nóng giận dứt, Ví như sáng tối không chung chỗ, Nếu giữ tịnh giới mà nóng giận, Người ấy tự phá pháp lợi ḿnh. Ví như dẫn voi xuống nước tắm, Lại lấy bùn đất trét đầy ḿnh, Tất cả đều phải già, bệnh, chết, Mọi thứ đánh đập trăm ngàn khổ. Tại sao người lành thương chúng sanh, Mà lại gia tăng giận năo hại ? Nếu khởi nóng giận muốn hại người, Chưa đến người kia trước đốt ḿnh. Thế nên thường nghĩ hành từ bi, Nóng giận, nghĩ ác tâm không sanh, Nếu người thường nghĩ hành pháp lành, Thường nghĩ pháp lành tâm vui vẻ. Đời nay được vui, sau cũng thế, Được đạo thường vui, ấy Niết-bàn, Nếu tâm dồn chứa điều bất thiện, Tự mất lợi ḿnh, lại hại người. Đă tự trong tâm mất thiện pháp, Người có tịnh tâm cũng trầm một, Ví như đạo nhân ở chỗ vắng, Đưa tay kêu to : “Giặc cướp tôi !”. Có người hỏi rằng : “Ai cướp ngươi ?” Đáp rằng : “Giặc của tôi chẳng sợ, Tôi không giữ của cầu thế lợi, Làm ǵ giặc của hại được tôi. Tôi tập căn lành các pháp bảo, Giặc giác quán (xét nghĩ) phá tôi thiện lợi, Giặc của đă lánh chỗ chứa nhiều, Giặc cướp thiện đến không thể tránh”. Như thế các thứ trách nóng giận và các thứ chánh quán trừ tâm nóng giận. - Thế nào trừ cái nghĩ năo hại ? - Như bài tụng : Chúng sanh luống chịu trăm ngàn thứ : Các bệnh luôn luôn đến năo hại, Giặc chết ŕnh chụp thường muốn giết, Vô lượng chúng khổ tự vây quanh. Tại sao người lành thêm năo hại ? Chê bai mưu hại không nhân từ, Hại người chưa được tự mang họa, Người tục mưu hại c̣n thể tha. Đó là nghiệp ác của thế gian, Cũng không tự nói ta tu thiện, Cầu đạo thanh tịnh người xuất gia, Mà sanh nóng giận tâm tật đố. Trời tạnh trong mây xẹt lửa độc, Phải biết ác này tội rất nặng, Người ưa vắng vẻ khởi tật đố, Có bậc La-hán được tha tâm. Răn dạy quở rầy : “Ngươi sao dại ?” Tật đố tự phá cội công đức, Muốn được cúng dường phải tự tập, Bao nhiêu công đức trang nghiêm thân. Nếu không tŕ giới, thiền, đa văn, Dối mặc áo nhuộm hoại pháp thân, Thật kẻ ăn xin, người tệ ác, Tại sao mong lợi được cúng dường ? Đói, khát, lạnh, nóng trăm ngàn khổ, Chúng sanh thường bởi các khổ này, Thân tâm khổ ách không cùng tận, Tại sao người lành thêm năo hại ? Ví như ghẻ lớn dùng dao mổ, Cũng tợ tù nhân khảo chưa xong, Khổ ách quanh ḿnh các khổ nhóm, Tại sao từ bi lại muốn tăng ? - Thế nào trừ cái nghĩ quê hương thân thuộc ? - Nên nghĩ thế này : Trong thế giới sanh tử tự nghiệp duyên ràng buộc th́ đâu là thân đâu là sơ ? Chỉ do ngu si khởi tâm mến bừa, chấp cho là thân. Đời quá khứ, đời vị lai, không phải thân mà nay là thân. Đời này là thân mà quá khứ không phải thân. Ví như đàn chim chiều về chung đậu một cây, sáng ra tùy duyên mỗi con bay mỗi chỗ. Quê hương thân thuộc cũng như vậy. Sanh trong thế giới mỗi người tự có tâm khác, duyên hợp nên thân, duyên tan thành sơ, không thể có nhân duyên quả báo quyết định măi cùng nhau thân cận. Ví như cát khô tay nắm chắc thành khối, do nắm nên hiệp, buông ra thành tan. Cha mẹ nuôi con đến khi già con đền đáp lại. Con nhờ sự bồng ẵm nuôi nấng nên phải báo đáp lại. Nếu thuận ư cha mẹ là thân, nghịch ư là sơ. Có khi thân không có ích mà trở lại hại, có khi sơ không hại mà có ích. Người do nhân duyên nên sanh ra ái, bởi nhân duyên ái nên trở lại hại người. Ví như họa sĩ họa tượng người nữ, trở lại yêu thích tượng ấy. Người yêu quê hương thân thuộc cũng thế. Tự sanh nhiễm trước, nhiễm trước những cái bên ngoài, trong đời quá khứ ngươi vẫn có quê hương thân thuộc, đời này ngươi đă làm ǵ ? Ngươi không thể làm lợi ích cho người thân đời quá khứ, người thân đời quá khứ cũng không thể làm lợi ích cho ngươi, hai bên đều không thể làm lợi ích cho nhau. Trong cơi thế giới không định vô biên này, có nghĩ đến người thân hay không thân cũng chỉ là nghĩ suông mà thôi. Như vị A-la-hán dạy đệ tử mới xuất gia c̣n luyến ái người thân rằng : “Như kẻ hư hèn đă mửa ra rồi lại ăn vào, ngươi cũng như vậy. Ngươi đă được xuất gia tại sao trở lại ái trước ? Cạo tóc, mặc áo hoại sắc là tướng giải thoát, ngươi c̣n yêu mến người thân quê hương không được giải thoát, trở lại bị cái yêu mến buộc ràng. Ba cơi vô thường lưu chuyển không định, hoặc thân, không thân, tuy nay thân nhưng lâu xa cũng hết. Như thế, mười phương chúng sanh luân hồi, quê hương thân thuộc không định th́ đâu không phải là quê hương thân thuộc của ta. Người khi sắp chết tâm thức không có, trực thị (đứng tṛng), tắt thở, mạng sống dứt, như rơi vào hầm tối. Khi ấy quê hương thân thuộc c̣n đâu? Nếu khi mới sanh, đời trước không phải thân mà nay gắng gượng ḥa hợp làm thân; khi sắp chết người thân trở lại không phải thân. Như một đứa trẻ một ngày chết ba chỗ, cha mẹ ba nơi đều khóc”. Như thế các thứ chánh quán trừ lo nghĩ quê hương thân thuộc. - Thế nào trừ cái nghĩ cơi nước ? - Hành giả nếu nghĩ nước ấy giàu có, vui vẻ, an ổn, nhiều người tốt, thường bị sợi dây đất nước trói buộc. Phải bỏ đi cái nghĩ sai lầm như thế ! Nếu người có trí không nên mến trước. V́ sao ? V́ bao nhiêu cơi nước do tội lỗi thiêu đốt và thời tiết biến chuyển nên có đói khát khổ nhọc, tất cả cơi nước đều là vô thường không an ổn. Lại nữa, già, bệnh, chết, không nước nào mà chẳng có. Từ chỗ này thân khổ, đến chỗ kia thân cũng khổ, đi khắp tất cả nước không đâu chẳng khổ. Giả sử có nước an ổn, giàu có, vui vẻ mà c̣n có kiết sử tâm sanh đau khổ th́ nước ấy cũng chưa phải tốt. Nếu hay dẹp được những cái xấu xa trong nước làm tiêu ṃn kiết sử cho tâm khỏi khổ, ấy là nước tốt. Tất cả chúng sanh có hai thứ khổ, thân khổ và tâm khổ. Do hai thứ khổ này mà thường khổ năo. Không có nước nào mà không có hai cái khổ này. Lại có nước rất lạnh, có nước rất nóng, có nước đói khát, có nước nhiều bệnh tật, có nước nhiều giặc cướp, có nước pháp nước bất công v.v… Các nước như thế, tâm chán không nên đắm mến. Đó là chánh quán trừ nghĩ cơi nước. - Thế nào trừ cái nghĩ không chết ? - Nên dạy hành giả, hoặc sanh trong nhà khá giả, hoặc con ḍng quí phái, người có tài nghề, thế lực, tất cả đều không nên nghĩ nhớ. Tại sao ? V́ khi chết đến không lựa già, trẻ, sang, hèn, tài nghề, thế lực… Thân này là chỗ tụ hợp của các nhân duyên sầu khổ. Nếu tự thấy ḿnh ít tuổi c̣n sống lâu, được an ổn, đó là người ngu si. V́ cớ sao? Chỗ nương tựa của sầu khổ là tứ đại, tứ đại gây nên h́nh thể cũng như bốn con rắn độc, tuy chung mà không hợp th́ làm sao được an ổn ? Hơi thở ra chưa trở vào là không thể tin được. Khi ngủ chưa ắt có thức, việc ấy cũng khó tin. Từ khi sanh cho đến lúc già, cái chết lúc nào cũng ŕnh rập bên ḿnh, thế mà v́ mong sống lâu nói rằng không chết, làm sao tin được ? Giặc chết rút đao, nắm tên t́m người giết, không có chút ḷng thương xót. Người sanh trên đời cái chết là sức mạnh bậc nhất, tất cả không có cái ǵ thắng được sức mạnh của cái chết. Người anh hùng bậc nhất của đời quá khứ không thắng được cái chết, bậc đại trí trong đời hiện tại cũng không thắng được cái chết, không thể dùng lời nhỏ nhẹ van xin được nó, không thể dùng lời khéo léo lừa gạt được nó, cũng không thể giữ giới, tinh tấn mà đuổi được nó. Do đó nên biết, mạng người tạm bợ không thể trông cậy. Chớ có tin chắc rằng ta sẽ sống lâu. Bọn giặc chết thường dẫn người đi, không đợi già rồi mới giết. Như A-la-hán dạy đệ tử bị cái nghĩ không chết năo hại rằng : “Ngươi đă biết chán đời vào đạo, sao lại khởi nghĩ như thế ? Này ! Có người chưa sanh đă chết, có người chết trong khi sanh, có người chết trong lúc c̣n bú, có người chết sau khi dứt sữa, có người chết lúc c̣n bé, có người chết trong thời trai tráng, có người chết lúc tuổi già. Trong tất cả thời đều là cảnh của chết. Ví như cây trổ hoa liền rụng hoặc thành trái mới rụng, có khi chưa chín lại rụng. Thế nên, phải gắng sức tinh tấn cầu đạo an ổn, chung ở với bọn giặc dữ không thể tin được, bọn giặc này như cọp khéo giấu h́nh khó thấy. Giặc chết thường t́m giết người, mọi vật trên thế giới không thật như bọt nước, tại sao đợi già mới lo tu ? Ai có thể bảo chứng rằng người già ắt được hành đạo ? Ví như cây to đứng dựa vực thẳm, trên bị gió lớn, dưới bị nước xoi bày rễ, ai có thể tin được cây này lâu bền ? Mạng người cũng vậy, tuy tuổi nhỏ vẫn khó tin. Cha như hạt giống, mẹ như khoảnh ruộng, nhân duyên tội phước đời trước như mưa sương, con người như cây lúa, chết sống như cắt gặt. Những vị Thiên tử, Nhân vương, trí đức hưởng những thứ vui sướng cao sang, nhưng sau rồi lại rơi vào chỗ tối tăm. Bởi thế nên chớ tin mạng sống mà nói rằng : “Ta ngày nay làm việc này, ngày mai cũng làm việc này”. Các thứ chánh quán như thế trừ quan niệm không chết. Trước trừ lo nghĩ thô, sau trừ lo nghĩ tế, tâm thanh tịnh liền được chánh đạo, tất cả kiết sử dứt, từ đây được chỗ an ổn, ấy là quả của người xuất gia. Tâm tự tại, ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, không phải trở lại thọ sanh, học rộng, đọc nhiều kinh, khi ấy được quả báo tốt. Khi được như vậy, không nhọc công phá quân ma vương mà được khen ngợi là người dũng sĩ bậc nhất, bọn giặc phiền năo tự lui; tuy không gọi là mạnh mà hay trừ giặc phiền năo, diệt được lửa tam độc, mát mẻ, vui vẻ, trong sạch, gối tay nằm an ổn trong rừng Niết-bàn. Ngọn gió mát thiền định, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi bốn phía thổi đến, đoái nh́n thương xót chúng sanh đang ch́m đắm trong biển tam độc. Cái diệu lực như thế mới gọi là kiện toàn. Thế nên, những người tán tâm phải niệm A-na-ban-na, học sáu pháp đoạn các thứ lo nghĩ. Do đó trước phải học Sổ tức. - Nếu trong bốn pháp - quán bất tịnh, niệm Phật v.v… - cũng trừ được lo nghĩ, v́ sao chỉ nói riêng Sổ tức ? - V́ các pháp quán kia chẫm răi nên khó mất, pháp Sổ tức mau chóng nên dễ chuyển. Ví như người thả trâu, do trâu khó mất nên sự coi giữ lơ là, nếu thả vượn khỉ, do khỉ dễ mất nên sự coi giữ khít khao. Pháp này cũng như thế. Sổ tức chăm chú tâm và số không được một chốc nghĩ việc khác, nếu có một chốc nghĩ việc khác là số đă lộn mất. Bởi thế nên, lúc ban đầu muốn đoạn sự lo nghĩ phải Sổ tức. Được pháp Sổ tức rồi phải thực hành pháp Tùy tức để đoạn các lo nghĩ. 2) Tùy tức – Hít hơi vào tới cùng, tâm chỉ duyên theo không đếm một, thở hơi ra đến cùng, tâm duyên theo chớ đếm hai. Ví như người thiếu nợ, chủ nợ đến đ̣i theo măi bên lưng không rời. Như thế, suy xét hơi thở vào, trở ra có khác, hơi thở ra, trở vào có khác. Khi ấy biết hơi thở vào khác hơi thở ra. V́ hơi thở ra ấm, hơi thở vào lạnh. - Hơi thở vào, ra chỉ là một. V́ sao ? V́ ra rồi trở lại vào. Ví như nước ngậm vào miệng th́ ấm, nhổ ra th́ lạnh, lạnh trở ra ấm, ấm trở lại lạnh cũng chỉ là một. Không phải như vậy. Do nội tâm động nên có thở ra, ra rồi liền mất, mũi và miệng hít bên ngoài th́ có hơi thở vào, vào rồi diệt, cũng không có sắp ra, không có sắp vào. Nơi rún phát ra hơi thở h́nh như liên tục, thở ra đến mũi và miệng, ra rồi liền diệt. Ví như hơi trong quả bóng khi mở dây cột ra liền xẹp, nếu dùng nhân duyên mũi, miệng thổi hơi thở vào, ấy là nhân duyên mới mà sanh. Ví như cái quạt, do các duyên hợp lại nên có gió. Khi ấy, biết do nhân duyên nên có hơi thở ra vào, nó hư dối không thật, sanh diệt vô thường. Suy xét do nhân duyên mũi miệng hít có hơi thở vào, do nhân duyên tâm động có hơi thở ra, mà mê lầm không biết, chấp là hơi thở của ta. Hơi thở là gió, cùng với gió bên ngoài không khác. Đất, nước, lửa, không, cũng như thế. Bởi nhân duyên ngũ đại hợp nên có thức sanh. Thức cũng như vậy, không phải là của ta. Ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới cũng như thế. Biết như vậy, theo hơi thở ra vào gọi là Tùy tức. Đă được pháp Tùy tức phải thực hành pháp Chỉ. 3) Pháp chỉ - Sổ, Tùy tâm rất an trụ, ư dừng bên cửa hơi thở để xem nó ra vào. V́ sao phải Chỉ ? V́ dứt các lo nghĩ, dừng tâm tán động. Khi Sổ tức, Tùy tức tâm không định v́ rất nhiều việc. Chỉ th́ tâm nhàn rỗi ít việc, tâm trụ một chỗ xem hơi thở ra vào. Ví như người gác cửa đứng bên cửa xem người ra vào. Tâm Chỉ cũng như vậy, biết hơi thở khi ra từ rún đến hông, ngực, cổ, miệng, mũi, khi vào từ miệng, mũi đến cổ, ngực, hông, rún. Như vậy, buộc tâm một chỗ gọi là Chỉ. 4) Pháp Quán. – Trong pháp Chỉ, tâm dừng lại để quan sát, khi hơi thở vào ngũ ấm sanh diệt khác, khi hơi thở ra ngũ ấm sanh diệt khác. Như thế, trừ dẹp loạn tâm, nhất tâm suy xét cho pháp quán được tăng trưởng gọi là Quán. 5) Pháp Hoàn. - Bỏ chỗ đứng bên cửa, rời pháp quán thô. Rời pháp quán thô là nhận biết hơi thở vô thường, ấy gọi là chuyển quán. Quán ngũ ấm vô thường cũng niệm sự vô thường ra, vào, sanh, diệt của hơi thở. Thấy hơi thở vào không từ đâu đến, xem hơi thở ra không biết về đâu; do nhân duyên ḥa hợp nên có, nhân duyên ly tán nên không, đó là chuyển quán. 6) Pháp Tịnh.- Trừ diệt ngũ cái và các phiền năo, tuy trước được Chỉ, Quán mà phiền năo chưa sạch, tâm c̣n tạp loạn, nay pháp Tịnh là tâm được thanh tịnh. Pháp quán trước là dị học, tương tợ hành đạo niệm hơi thở ra vào, nay là vô lậu đạo, tương tựï hành thiện hữu lậu đạo, nên gọi Thanh Tịnh. Pháp quán trước là một phần thân niệm Chỉ, dần dần toàn thân niệm Chỉ, kế thọ và tâm niệm Chỉ, trong đó chưa phải thanh tịnh c̣n xa đạo vô lậu. Ở đây, trong pháp niệm Chỉ, quán mười sáu phần niệm hơi thở ra vào, được pháp noăn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất, khổ pháp nhẫn cho đến vô học tận trí nên gọi là thanh tịnh. Trong mười sáu phần là : Phần hơi thở vào có sáu hạnh A-na-ban-na. Phần hơi thở ra cũng có sáu hạnh A-na-ban-na. 3- Hơi thở dài, ngắn. – Nhất tâm niệm hơi thở vào, ra hoặc dài, hoặc ngắn. Ví như người có việc kinh sợ, mang đồ nặng leo núi th́ hơi thở lên, là hơi thở ngắn. Như người khi làm nhọc được nghỉ th́ vui vẻ và như người bị giam trong khám được thả ra, thế đều là hơi thở dài. Tất cả hơi thở đều nằm hai nơi dài, ngắn, thế nên nói hơi thở dài, ngắn. Trong phần hơi thở dài, ngắn cũng niệm sáu hạnh A-na-ban-na. 4- Hơi thở khắp thân. – Tưởng hơi thở khắp thân cũng nương hơi thở vào, ra. Phải quán hơi thở vào, hơi thở ra khắp các lỗ chân lông trong thân cho đến ngón tay, ngón chân đều thở, ví như nước đổ xuống cát. Hơi thở ra cảm biết từ chân đến tóc đều thở ra, như nước đổ xuống cát. Như quả bóng hơi vô, hoặc ra đều khắp, mũi miệng hít hơi vào cũng như thế. 5- Trừ các thân hành. – Quán hơi thở khắp thân không ngại, như cọng sen dẫn nước, như lưới đánh cá. Lại không riêng mũi, miệng quán hơi thở ra vào mà tất cả lỗ chân lông và trong chín lỗ (hai lỗ tai, hai lỗ mũi, hai mắt, miệng, tiểu, đại) cũng thấy hơi thở ra vào. Thế nên, biết hơi thở khắp thân trừ các thân hành cũng niệm hơi thở ra vào. 6- Tâm thọ Hỷ. – Người mới học quán hơi thở, nếu thân nặng nề lười biếng ưa ngủ phải dẹp bỏ đi. Dùng pháp quán hơi thở ra vào thân nhẹ nhàng ḥa dịu, được thiền định tâm thọ hỷ và trừ tâm nặng nề lười biếng ưa ngủ, được tâm nhẹ nhàng ḥa dịu tùy thiền định tâm thọ hỷ. Hơi thở vào thân niệm Chỉ xong, hơi thở lưu hành thọ niệm Chỉ rồi, là được thân niệm Chỉ. Thật nay lại được thọ niệm Chỉ thật thọ Hỷ. 7- Tâm thọ Lạc. – Đă biết thật tướng của thân, muốn biết tướng của tâm và tâm số. Thế nên thọ hỷ niệm hơi thở ra vào, thọ lạc cũng niệm hơi thở ra vào, v́ cái hỷ được tăng trưởng gọi là lạc. Tâm mới sanh mừng gọi là hỷ, toàn thân đều mừng là lạc. Lại nữa, cái thọ lạc của Sơ thiền, Nhị thiền gọi là Hỷ, cái thọ lạc của Tam thiền gọi là Lạc. 8- Thọ các tâm hành. - Thọ các tâm hành cũng niệm hơi thở ra vào. Các tâm pháp sanh diệt, tâm nhiễm, tâm không nhiễm, tâm tán loạn, tâm thu nhiếp, tâm chánh, tâm tà, các tâm tướng như thế gọi là tâm hành. 9- Tâm khởi mừng. - Tâm khởi mừng cũng niệm hơi thở ra vào. Cái thọ hỷ trước là tự sanh không phải do cố tâm phát khởi. Cái này là cố tâm khởi mừng. V́ sao cố tâm khởi mừng ? V́ muốn trị hai thứ tâm – tán động và thu nhiếp – nên khởi tâm mới được ra khỏi phiền năo. Thế nên niệm pháp cho tâm khởi mừng. Nếu tâm không mừng gắng kích động cho nó mừng. 10- Tâm khởi nhiếp.- Tâm khởi nhiếp cũng niệm hơi thở ra vào. Nếu tâm không định gắng nhiếp phục cho nó định. Như trong kinh nói “Tâm định là đạo, tâm tán loạn không phải đạo” . 11- Tâm khởi giải thoát. – Tâm khởi giải thoát cũng niệm hơi thở ra vào. Nếu ư không giải thoát gắng huân tập cho nó giải thoát. Ví như con dê vào lùm cỏ gai bị gai móc, người v́ nó gỡ lần lần, tâm khởi giải thoát các phiền năo cột trói cũng như thế. Ấy gọi là tâm niệm Chỉ khởi giải thoát. 12- Quán vô thường. – Quán vô thường cũng niệm hơi thở ra vào. Quán sự sanh diệt vô thường của các pháp rỗng không, không có người và ta. Khi sanh các pháp giả sanh, khi diệt các pháp tạm diệt. Trong ấy không thật có nam nữ, người, kẻo tạo, người thọ… ấy gọi là pháp quán Tùy vô thường. 13- Quán tan hoại. – Quán pháp hữu vi tan hoại cũng niệm hơi thở ra vào. Các pháp hữu vi có trong hiện tại là do nhân duyên của quá khứ, nhân duyên ḥa hợp th́ tụ, nhân duyên tan hoại th́ tán. Tùy quán như thế gọi là quán tan hoại. 14- Quán ly dục. - Quán ly dục cũng niệm hơi thở ra vào. Tâm rời các thứ ràng buộc của tham dục, đó là pháp đệ nhất. Quán như thế gọi là Tùy quán ly dục. 15- Quán diệt tận. - Quán diệt tận cũng niệm hơi thở ra vào. Các khổ kiết sử nơi nơi đều dứt, chỗ này được an ổn, ấy là Tùy quán diệt tận. 16- Quán buông bỏ. - Quán buông bỏ cũng niệm hơi thở ra vào. Các thứ nhiễm ái, phiền năo, thân, tâm, ngũ ấm, các pháp hữu vi đều buông bỏ, chỗ này là an ổn bậc nhất. Quán như thế gọi là Tùy quán buông bỏ. V. PHÁP MÔN TRỊ ĐẲNG PHẦN Phần thứ năm này là pháp môn trị bệnh đẳng phần và người phạm tội trọng mong cầu làm Phật. Những người như thế phải dạy họ nhất tâm niệm Phật Tam-muội. 1- Quán tượng Phật. - Nếu người mới tập hành nên dẫn đến trước tượng Phật, hoặc dạy họ tự đến trước tượng Phật xem cho kỹ những tướng tốt, mỗi tướng rơ ràng, nhất tâm nhớ giữ trở về chỗ yên tịnh, tâm nhăn quán tượng Phật không cho ư chuyển động, buộc niệm tại tượng Phật không nghĩ ǵ khác, có nghĩ phải thu nhiếp về tượng Phật. Nếu hành giả tâm không trụ, thầy phải dạy rằng : “Ông phải tự trách tâm : Do người mà ta mang tội không thể tính kể, chết sống không cùng bao nhiêu sự khổ năo đều trải qua. Hoặc ở địa ngục uống nước đồng sôi, nuốt hoàn sắt nóng; hoặc trong súc sanh ăn cỏ, phẩn, đồ nhơ nhớp; hoặc sanh ngạ quỉ chịu khổ đói khát; hoặc được làm người nghèo cùng nguy khốn; hoặc sanh lên cơi trời mất ngũ dục sầu khổ. Bởi theo ngươi, ta chịu bao nhiêu sự đau đớn nơi thân tâm và vô lượng khổ năo. Nay quyết kềm ngươi, ngươi phải theo ta, ta buộc ngươi một chỗ. Ta quyết định không bị ngươi làm khổ, mà trở lại chịu mọi sự khổ độc. Xưa ngươi làm khổ ta, nay ta phải làm khổ lại ngươi”. Quở trách như vậy măi th́ tâm không tán loạn. Khi ấy liền được tâm nhăn thấy tượng Phật sáng suốt, như hiện mắt thấy không khác. Như thế tâm được trụ, ấy gọi là hành giả mới tập tư duy. 2- Quán sanh thân Phật. - Người đang tập hành, sau khi quán tượng Phật thành công, lại phải nghĩ rằng : Tướng tượng này là ai ? Là tướng tượng Phật Thích-ca Mâu-ni thời quá khứ. Như ta nay thấy h́nh tượng Phật, tượng không lại, ta cũng không đến. Tâm tưởng như thế liền thấy đức Phật thời quá khứ, khi mới giáng thần rung động trời đất, có ba mươi hai tướng đại nhân. Ḷng bàn chân bằng phẳng. Dưới bàn chân có một ngàn khu ốc. Ngón chân dài. Gót chân rộng. Kẽ ngón tay, kẽ chân đều có màng lưới mỏng. Mu bàn chân cao, bằng, đẹp. Đùi tṛn vót như đùi nai quí. Đứng thẳng hai tay quá gối. Tướng mă âm tàng. 10- Thân tṛn thẳng như cây Ni-câu-lô-đà. 11- Mỗi lỗ chân lông đều có một sợi lông. 12- Lông hướng lên và xoay bên phải. Sắc thân hơn vàng ṛng. 14- Hào quang tỏa chung quanh thân một trượng. Da mỏng đẹp. Bảy chỗ no đầy. Dưới hai nách bằng đẹp. Phần trên của thân như h́nh sư tử. Thân rất đẹp ngay thẳng. Vai tṛn đẹp. Bốn mươi cái răng. Răng trắng, bằng khít và chân sâu. Bốn răng cửa trắng và lớn. Má vuông như má sư tử. Trong cổ có vị rất ngọt. Lưỡi lớn, rộng, dài và mỏng. Giọng trong, ấm, nghe rất xa. Tiếng thanh như tiếng chim Ca-lăng-tần-già. Con mắt trong xanh. Lông mi cứng xanh như lông mi trâu quí. Trên đảnh có nhục kế. Giữa chặng mày có lông trắng đẹp xoay bên phải. Lại có tám mươi tướng đẹp : Vô kiến đảnh. Mũi cao, thẳng, đẹp, lỗ mũi không bày ra. Chân mày như trăng lưỡi liềm, xanh như sắc lưu ly. Lỗ tai đẹp. Thân dẻo chắc như Na-la-diên. Xương mắc nhau như dây xích. Thân khi xoay như tượng vương. Khi đi chân cách đất bốn tấc mà vẫn có dấu. Móng tay như sắc đồng đỏ, mỏng và bóng. Đầu gối tṛn đẹp. Thân thanh tịnh. Thân mềm dịu. Thân không cong. Ngón tay dài, tṛn, vót. Những nét răn của bàn tay đẹp như bức họa nhiều màu. Mạch sâu không bày. Mắt cá chân sâu không lồi. 18- Thân bóng láng. 19- Thân tự giữ không xiêu vẹo. 20- Thân đầy đủ. 21- Dung nghi đầy đủ. 22- Khi đứng vững vàng. 23- Uy dũng khắp cả. 24- Tất cả thích xem. 25- Mặt không dài. 26- Dung mạo một mực không có sắc xen tạp. 27- Môi đỏ như quả Tần-bà. 28- Mặt tṛn đầy. 29- Giọng nói hùng hậu. 30- Rún tṛn sâu. 31- Lông mọi chỗ đều xoay bên phải. 32- Tay, chân đều no tṛn. 33- Tay, chân được như ư. 34- Những nét răn của tay và chân đều sáng và thẳng. 35- Chỉ tay dài. 36- Chỉ tay liên tục. 37- Tất cả chúng sanh có ác tâm trông thấy đều lộ vẻ ḥa vui. 38- Mặt rộng, đặc biệt. 39- Mặt tṛn đầy như trăng rằm. 40- Chúng sanh thấy không kinh sợ. 41- Lỗ chân lông bay mùi thơm. 42- Miệng bay mùi thơm. 43- Dung nghi như sư tử. 44- Tiến hay dừng như tượng vương. 45- Pháp đi như ngỗng chúa. 46- Đầu không tṛn không dài giống trái Ma-đà-la. 47- Phần của tiếng đầy đủ (tiếng có 60 thứ, Phật đầy đủ). 48- Răng trắng bén. 49- Lông mềm và sạch. 50- Lưỡi lớn và đỏ. 51- Lưỡi mỏng. 52- Lông toàn màu hồng. 53- Con mắt rộng dài. 54- Các lỗ đầy đủ. 55- Tay, chân đỏ, trắng như sắc hoa sen. 56- Bụng không bày ra. 57- Bụng không lồi lên. 58- Thân không động. 59- Thân nặng. 60- Thân lớn. 61- Thân cao. 62- Tay chân mềm bóng láng. 63- Khi đi chung quanh hào quang sáng ra một trượng. 64- B́nh đẳng xem chúng sanh. 65- Không v́ sự giáo hóa, không ham đệ tử. 66- Tùy thuận tiếng của chúng sanh không kém thiếu. 67- Tùy tiếng nói của chúng sanh v́ thuyết pháp. 68- Ngôn ngữ không ngăn ngại. 69- Phát ra lời thích hợp chúng sanh. 70- Thuyết pháp thứ tự liên tục. 71- Tất cả chúng sanh mắt nh́n kỹ cũng không thể biết hết tướng tốt. 72- Xem không biết nhàm. 73- Tóc dài đẹp. 74- Tóc xoăn đẹp. 75- Tóc không rối. 76- Tóc không trổ. 77- Tóc mềm mại. 78- Tóc xanh như sắc lưu ly. 79- Tóc không ít. 80- Ngực có chữ Vạn, tay chân có chữ Kiết. Hào quang của Phật sáng suốt chiếu soi vô lượng thế giới, từ khi mới sanh bước đi bảy bước thốt ra một câu quan trọng. Khi Ngài xuất gia siêng năng khổ hạnh, ngồi dưới cội Bồ-đề hàng phục ma quân, đến gần sáng thành bậc Đẳng Chánh Giác, tướng sáng khắp soi cả mười phương, chư Thiên trên không đàn ca, tán hoa, mưa hương cúng dường, tất cả chúng sanh đều cung kính không cùng. Ngài riêng đi trong tam giới chuyển ḿnh nh́n lại như tượng vương xoay, xem xét cây Đạo, lần chuyển bánh xe pháp ban đầu, trời người đều ngộ, lấy đạo tự chứng tiến đến Niết-bàn. Thân Phật như thế cảm phát vô lượng. Chuyên tâm niệm Phật không nghĩ ǵ khác, có nghĩ khác liền thu nhiếp trở về. Như thế, tâm không loạn động. Khi ấy, được thấy sắc thân một đức Phật, hai đức Phật cho đến vô lượng thế giới chư Phật ở mười phương. Do tâm tưởng nên được thấy Phật. 3- Quán pháp thân Phật. – Người tập hành đă lâu, đă thấy Phật cần được nghe thuyết pháp, hoặc tự thưa hỏi. Phật v́ thuyết pháp, giải quyết các nghi vấn. Đă được Phật nghĩ tưởng, lại phải tưởng nghĩ công đức pháp thân của Phật. Tuệ không lường sâu thẳm, trí rộng không bờ mé, công đức không thể tính kể : Như chư Phật đến, đáng cho nhân thiên cúng dường, khắp biết tất cả, đầy đủ tam minh, khéo vượt qua, thấu hiểu tất cả thế gian, bậc vô thượng, Đại trượng phu điều phục tất cả, thầy cả trời người, đấng hoàn toàn giác ngộ. Khi ấy lại niệm thần đức của hai đức Phật, ba, bốn, năm cho đến vô lượng cùng tận cả hư không chư Phật. Trở lại thấy một đức Phật, hay thấy một đức Phật hóa mười phương chư Phật, mười phương chư Phật hiện thành một đức Phật. Hay thấy một sắc biến thành các sắc-vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly… - tùy ư người thích thảy được thấy. Bấy giờ Chỉ, Quán hai việc, thân Phật trong hư không và công đức của Phật, không cho nghĩ ǵ khác. Tâm được tự tại, ư không lăng xăng, đó là thành tựu niệm Phật Tam-muội. Hành giả nếu tâm chạy theo ngũ trần, hoặc nhớ sáu việc lo nghĩ th́ phải cố gắng kềm hăm điều phục nó. Phải suy nghĩ thế này : “Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, cho nên nói : Các thứ sáng mặt trời là bậc nhất, các bậc trí tuệ Phật là bậc nhất. V́ sao ? Phật thường v́ tất cả khởi ḷng đại bi, hy sinh đầu, mắt, tủy, năo để cứu chúng sanh. Tại sao ta lại phóng tâm không chuyên niệm Phật mà cô phụ ơn nặng của Ngài ? Nếu Phật không ra đời th́ ai mở lối đến cơi người, cơi trời và Niết-bàn ? Nếu có người đem hương hoa cúng dường, hoặc lấy xương, thịt, máu, tủy xây tháp cúng dường, cũng không bằng người tu hành dùng chánh pháp cúng dường được đến Niết-bàn. Tuy nhiên, người cô phụ ân Phật dù có niệm Phật cũng không được ǵ. Bởi vậy, ta phải chuyên tâm niệm Phật không quên để báo ân Phật. Huống nữa, niệm Phật sẽ được các thứ Tam-muội, trí tuệ và thành Phật mà không chuyên tâm niệm Phật sao ?” Thế nên, hành giả thường phải chuyên tâm giữ ư không cho tán loạn. Đă được thấy Phật, thưa hỏi giải nghi, ấy gọi là “ Niệm Phật Tam-muội trừ diệt đẳng phần và các tội trọng”. ] |