[Trang chủ] [Kinh sách]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Mục Lục]


Khóa Thứ Ba 
Thinh Văn Thừa Phật Giáo

Bài Thứ 5

Diệt Đế (Nirodha Dukkha)

 

A. Mở Đề

Sau Khi nói về phương diện khổ đau xong, Đức Phật nói về phương diện an lạc. 

Sau khi giải bày đầy đủ hiện tượng nhân quả về phần nhiễm, về phương diện đau khổ xong, đức Phật liền thuyết minh các hiện tượng nhân quả về phần tịnh, về phương diện An lạc. Nói một cách khác dau khi dạy xong Khổ đế và tập đế, đức Phật liền dạy Diệt đế và đạo đế. Có người chỉ thấy hai phần đầu của Tứ đế là khổ và Tập, nên đă tưỡng Phật là đạo yếm thế, bi quan. Họ cho rằng Phật giáo gieo vào ḷng người sự chán đời là kẻ thấy cuộc đời xấu xa, đau khổ, mà không t́m ra phương pháp để giải thoát ra khói cảnh ấy, mà chỉ buông xuôi tay ngồi nh́n và khóc than, sàu khổ. Đạo Phật không làm như thế. Đạo Phật tŕnh bày cho mọingười nh́n thấy cái hiện tại đen tối của ḿnh, cái hoàn cảnh xấu xa, có nhiều sự sự khuyết điểm, để cải đổi nó, kiến tạo lại một cuộc sống đẹp đẽ, an vui hơn. Một giáo lư như thế, không thể gọi là yếm thế, bi quan được mà chính là yêu đời, lạc quan, v́ c̣n tin tưởng ở khả năng kiến tạo của ḿnh và chúng sinh. Cảnh giới mà Đức Phật tŕnh bày cho chúng ta thấy ở đầyla một cảnh giới hoàn toàn trái ngược với cảnh giiới tối tăm, sầu khổ, đớn đau mà chúng ta đang sống. Cảnh giới ấy là cảnh giới huy hoàng, an lạc, mà chỉ những người diệt tục, hết mê mới đạt được.

Cảnh giới ấy, chúng ta sẽ nghe đức Phật tŕnh bày trong phần diệt đế sau đây:

B. Chánh Đề

I. Định Nghĩa Sao gọi là Diệt đế?

Diệt là tiêu diệt, trừ diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền năo Đế là lỹ lẽ chất thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suọt soi thấu và thuyết minh. Diệt đế, chữ Pali gọi là "Nirodha Dukkha" tức là sự thật đúng đắn, mà đức Phật đă thuyết minh về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi người có thể đạt được khi đă diệt hết mọi phiênd năo, mê mờ. Phiền năo, mê mờ là nguyên nhân của đau khổ, như chúng ta đă nghe Phật thuyết trong Tập đế.

Khổ là quả, mà tạp là nhân. Diệt khổ mà chỉ diệt cái quả th́ không bao giờ hét khổ được. Muốn diẹt khổ tận gốc, th́ phải diệt cí nhân của nó, như muốn nhổ cái thân cây, th́ phải băí cho hết cái rễ ăn sâu trong ḷng đất.

Trong khi nhân qủa, Phật dạy rằng: "Các ông phải biết, ví Tập nhân phiền năo mới có quả khổ sanh tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền nào tập nhân. Khi đă dứt trừ rồi, lại thường thương nắm chắc chổ dứt trừ chjo chắn chắc, không khi nào nới bỏ. Đến khi chứng được đạo Niết Bàn, th́ phải tất nhiên tập nhân phiền năo phải diệt hết, mả khổ luân hồi cũng không c̣n".

Thế cho biết, muốn giải thóa tất phải tu hành. Mà tu hành là ǵ?

Là diệt trừ tập nhân phiền năo vậy. Diệt trừ phần nào tập nhân là đă bước đến hết gần giải thoát chừng ấy, như một cái phao; càng bớt dần chừng nào vật nặng d́m nó xuống, th́ nó lại nổi dần lên mặt nước chừng ấy vậy.

II. Thứ Lớp Đoạn Hoặc (mê lầm)

như chúng ta đă biết trong bài tập đế, tập nhân phiền năo rất phức tạp, có thứ mong manh, cạn cợt, có thứ in sâu vào tâm thức từ lâu đời lâu kiếp rất khó dứt trừ. Do tính chất cạn sâu của các thứ phiền năo ấy, nên đoạn trừ cũng phải tuần tự, theo thứ lớp.

Có hai lớp đoạn hoặc chính là:

1. Kiến đạo sở đoạn hoặc: Những mê lầm nầy, khi thấy chánh đạo mới đoạn được. Đây là sự dứt trừ những sai lầm về phần lư trí. Những phiền năo nầy thuộc loại cạn cợt gây ra bởi sự gần gũi tà sư, sự tuyên truyền ta vạy của sách vở, cùng những người tri kiến không chân chánh. Nếu gặp được Minh sư, thấy đưưọc chân lư, th́ liền đoạn hết. V́ thế sự dứt trù những phiên năo nầy, gọi là "Kiến đạo sở đoạn hoặc".

2. Tu đạo sở đoạn hoặc: Những mê lầm nầy, khi tu đạo mới đoạn được. Đây là sự đoạn trừ những phiền năo, sâu kín, đă đam sâu gốc rễ trong tâm thức, biến thành thói quen, như sự chấp ngă, sự say đắm nhục dục, tham, giận, kiêu căng v.v...Đối với những thứ phiền năo nầy, phải cần nhiều công phu tu hành dẻo dai, chắc chắn mới có thể đoạn trừ được. Do đó, mới gọi là "Tu đạo sở đoạn hoặc".

III. Các Tầng Bậc Tu Chứng

Đoạn trên đă nói tổng quát về hai loại đoạn diệt phiền năo cho dễ phân biệt và dễ hiẻu. Đến đây, để có một ư niệm rơ ràng về các tầng bậc tu chứng mà một hành giả cần phải trải qua, chúng ta hăy tuần tự điểm qua các quả vị từ thấp đến cao.

1. Tứ gia hạnh: Muốn đoạn trừ kiến hoặc, trước tiên người tu hành phải rời xa các tà thuyết, xoay tâm ư, tư tưởng dần vào chân lư: vô thường, vô ngă, bất tịnh, tứ đế, để nhận chân được các tánh cách vô thường, vô ngă, bất tịnh, không thật v.v...của cuộc đời. Nhờ sự gần gũi với chân lư như thế, nên những điều thấy biết sai lầm điên đảo sẽ tan hết và 88 món kiến hoặc cũng không c̣n. Tuy nhiên, không phải chỉ trong một lúc mà đoan được tất cả kiến hoặc; trái lại, phải cần nhiều thời giờ, công phu tu tập. Từ những tư tưởng, thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào ḷng Thánh quả, người tu hành phải tu bốn gia hạnh sau đây:

a) Noản vị: Noản là hơi nóng; vị là địa vị. Người xưa, khi muốn lấy nữa, họ dùng hai thanh củi tre cọ sát vào nhau; trước khi lửa sắp bật lên, phải qua giai đoạn phát ra hơi nóng. Người tu hành muốn có lửa trí tuệ, cũng phải trải qua giai đoạn hơi nóng. Tất nhiên hơi nóng lửa trí tuệ chưa đốt cháy được củi phiền năo, nhưng không thể không qua giai đoạn nầy được. Đó là giai đoạn "Noản vị".

b) Đảnh vị: Đảnh là chóp cao. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành tiếp tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Đứng ở địa vị nầy, toàn thân hành giả được tắm trong khoảng không gian rộng răi vô biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê lầm.

c) Nhẫn vị: Nhẫn là nhẫn nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn vẫn yên lặng sáng suốt trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu hành lên đến bậc này, trí giác ngộ đă gần sáng tỏ, thân tâm vẫn giữ được mực yên lặng trong sáng, mặc dù các pháp có lăng xăng và ẩn hiện.

d) Thế hệ nhất vị: Bậc nầy cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là một công phu rất to tát, gần giải thoát ra ngoài ṿng Dục giới, như con diều giấy bay liệng giữa không trung, tự do qua lại, không c̣n bị cái ǵ làm ngăn ngại, ngoài sợi giây gai nhỏ. Nếu bứt sợi gai kia là diều bay luôn. Cũng như thế, người tu hành phá hết phần kiến hoặc nhỏ nhít sau cùng là được giải thoát luôn.

Tóm lại, người tu hành thường xuyên qua bốn món gia hạnh nầy, tức là phá được cái lầm về tri kiến hay kiến hoặc, cái lầm của Phi phi tưởng mà chứng đặng quả Tu đà hoàn là quả vị đầu tiên trong Thanh văn thừa.

2. Tu đà hoàn: Tàu dịch là Dư lưu quả (dự vào ḍng Thánh). Ở quả vị này, ư thức đă sáng suốt, không c̣n bị mê lầm nữa, song thất thức c̣n chấp ngă, nên phải trở lại trong cơi Dục, nhiều nhất là bảy phen sanh tử nữa, mới gọt sạch các kiết sử phiền năo thầm kín, nằm nép trong tâm thức, và chứng quả A La Hán.

3. Tư đà hàm: Tàu dịch là Nhất lai, nghĩa là một phen sanh lại cơi Dục để tu hành và dứt cho sạch phần mê lầm ở cơi Dục, mới tiến đến bực A La Hán. Trên kia, quả tu đà hoàn chỉ là kết quả của công phu tu hành đoạn được kiến hoặc, chứ chứ đá động đến tư hoặc. Sau khi chứng quả Thánh đàu tiên rồi, phải tu nữa để đoạn trừ tư hoặc, mới chứng được bậc nầy. Tuy nhiên, ở cơi Dục có chín phẩm tư hoặc, mà vị này chỉ mới đoạn có 6 phẩm, c̣n 3 phẩm nữa chưa đoạn. Nghĩa là mới đoạn sáu phẩm thô thiển bên ngoài, c̣n ba phẩm sâu kín bên trong chưa đoạn. V́ thế, phải trở lại một phen để đoạn cho hết ba phần sau, mới bước lên Thánh quả thứ ba là A na hàm được.

4. A na hàm: Tàu dịch là Bất lai (nghĩa là không trở lại cơi Dục nữa). Khi c̣n mê lầm của cơi Dục lôi kéo, mới sanh vào cơi Dục. Đến địa vị A na hàm nầy những mê lầm ấy không c̣n nữa, nên không bị tái sanh ở đấy nữa, trừ trường hợp phát nguyện trở lại cơi nầy để độ sanh. Vị nầy ở cơi Trời Ngũ tịnh cư thuộc Sắc giới, cũng gọi là Ngũ bất hoàn thiên hay Ngũ na hàm. Vị nầy đă cách xa chúng ta như trời vực, đă thoát ra ngoài cơi Dục. Tuy thế, họ vẫn c̣n mang trong ḿnh những mê lầm vi tế cu sanh của hai cơi Sắc và Vô sắc. V́ vậy, ở Ngũ tịnh cư thiên, họ phải tu luyện để dứt cho hết vi tế hoặc, mới bước lên Thánh quả A La Hán (Tư hoặc gồm có 9 phẩm. Từ đà hàm quả đoạn sáu hoặc, A na hàm quả đoạn thêm ba hoặc; đến A La Hán quả là đoạn hết).

5. A La Hán: Đây là quả vị cao nhất, trong Thanh Văn Thừa. Tàu dịch có ba nghĩa:

a) Ưùng cúng: Vị nầy có phước đức hoàn toàn, trí huệ hơn cả, đáng làm nơi phước điền cho chúng sinh cúng dường.

b) Phá ác. Vị nầy đă phá tan những nhiền năo tội ác, không c̣n bị chúng khuấy phá sai sử trói vuộv nữa.

c) Vô sanh. Vị nầy không c̣n bọ xoay vần trong sanh tử luân hồi nữa, v́ đă phá trừ được phiền năo là yếu tố của sanh tử luân hồi.

Trong ba nghĩa nầy, Vô sanh là nghĩa quan trọng hơn hết, nên đă được nêu lên trong chữ A La Hán. Vị nầy không những đă phá hết mê hoặc nông cạn, mà chính ngay chủng tử mê lầm thầm kín cũng đă dứt sạch. Cho đến chủng tử cháp ngă là nguồn gốc phiền năo, nguồn gốc luân hồi, cũng bị dẹp lại một bên, không c̣n bóng dáng ra vào trong A lại da thức nữa.

Tách cách của ḷng ngă chấp là khiến chúng sanh luôn luôn cố chấp bản thân nhỏ hẹp, tạo thành rang giới giữa ḿnh và người, ḿnh và sự vật, để rồi gây nên vô lượng tội nghiệp và chịu vô lượg khổ báo. Một tách cách nguy hại của ḷng ngă chấp nữa là thường làm cho chúng sanh không tỏ ngộ, không thể chấp được cái tánh "đồng nhất, không mất" của vạn sự vạn vật. Do đó, chúng sanh phải chịu lắm nỗi thăng trầm với xác thân bé nhỏ củ ḿnh.

Vị A La Hán, do sự cố công bền chí, đă diệt được ḷng chấp ngă ấy, nên không bị sống chết khổ đau, lo buồn sợ hăi chi phối. Như đồ đẹ của ả Phù dung, một khi đă bỏ được bệnh nghiền th́ không c̣n ra vào nơi tiệm hút làm bạn với bàn đèn ống khói nữa. A La Hán là vị đă đoạn được cái sai lầm của cơi trờ Phi phi tưởng, nên không c̣n vương vấn với các cơi trời ấy nữa.

Song quả A La Hán cũng chia làm hai bực, tùy theo căn cơ lanh lợi hoặc chậm lụt của các vị ấy.

a) Bất hồi tâm độn A La Hán: là vị A La Hán trầm không trệ tịch, tự thỏa chí vào địa vị đă chứng, chứ không phát tâm xoay về Đại Thừa.

b) Hồi tâm đại A La Hán: là vị A La Hán lợi cứn lợi trí, phát tâm xoay về Đại Thừa rộng lớn chứ không tự măn ở địa vị đă chứng.

IV. Giá Trị Diệu Dụng Của 4 Cơi Thánh

Bốn quả tháng của Thanh văn trên đây, đều là những kết quả giải thoát hiển nhiên của công phu tu tập. Không cứ căn cơ nào đều có thể ở ngay trong cảnh giới củ ḿnh (kinh gọi là tự địa, tự giới), mà tu tập để đạt đến bốn quả vị ấy. Hễ đoạn trừ mê lầm được chứng nào th́ chứng quả đến chứng ấy, chứ không phải chờ sanh qua thế gian khác mới chứng quả kia đâu.

Khi chứng đến quả Tu đà hoàn th́ gọi "Kkiến đạo sở đoạn". Ở đây, ư thức đă tương ứng với Huệ tâm sở, sáng suốt, trực nhận đạo lư một cách rơ ràng. C̣n các vị sau, thuộc về "Tu đạo sở đoạn", nghĩa là sau khi đă gội rửa các chủng tử mê lầm (tư hoăc) của A lại da thức mới chứng được. Do sự dứt trừ phiền năo sâu hay cạn đó, mà diệu dụng của mỗi quả vị khác nhau.

Ở địa vị "Kiến đạo sở đoạn" là thành tựu được năm phép thần thông (công dụng tự tại không bị chướng ngại).

a) Thiên nhăn thông: Nhăn lực soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao la hiện tại.

b) Thiê nhĩ thông: Nhĩ lực nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và dị loại.

c) Tha tâm thông: Tâm lực biết được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác.

d) túc mạng thông: Trí lực hay biết các kiếp trước của ḿnh.

đ) Thần túc thông: Có hai nghĩ: một là được thần thông tự tại như ư muốn, hai là trong giây lát muốn đi đâu liền được như ư muốn, không bị sự vật hữu h́nh làm chướng ngại.

Năm phép thần thông nầy, tuy có đặc biệt hơn nhân loại nhiều, song chưa phải là điểm quan trọng của người tu hành cầu giải thoát. Điểm quan trọng nhất của người tu giải thoát là "Lậu tận thông". Lậu tận thông là được trí tuệ thông suốt cả ba đời, không c̣n bị các phiền năo hữu lậu làm ngăn ngại, nghĩa là giải thoát sanh tử. Chỉ những vị A La Hán mới được qủa nầy.

 


[Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách]