LỜI ĐẦU SÁCH
Đầu đời hai tiếng mẹ cha là giai bậc cung
tâm, trổi lên từ bờ sâu thẳm của đáy lòng con trẻ, cũng là tiết tấu thương
âm, xuất phát tận mé thiêng liêng vô cùng của kiếp người. Mênh mang! Thênh
thang! Biết nói làm sao cho trọn từ ân
nghĩa ấy.
Vậy hay! Mượn hình non
Thái để so bằng, đem dáng biển cả mà dò nét. Thật cũng không làm sao nêu
biểu được với cái bao la không bờ không bến kia.
Kinh nói: “ Giả sử hai vai gồng gánh mẹ cha, đem khắp vòng hòn núi Tu di,
trải trăm ngàn kiếp như vậy cũng không thể đáp đền một phần nào ân nghĩa
mẹ cha”. Sâu nặng làm sao!
Chỉ tâm niệm đời kiếp trọn người hiếu đạo, khả dĩ thế thôi. Người xưa cũng
bảo: “ Cha sinh ta, mẹ nuôi ta. Nhớ thương cha mẹ xót xa tất lòng”.
Thế thì, ngang đây xin mời người con Phật,
bước vào ngưỡng cửa này.
Mùa Vu Lan
2002
Thiền sinh Thường Chiếu
?
Hôm nay nhân ngày Tự Tứ, quí Phật tử về Thiền viện cúng dường lễ Vu Lan,
chúng tôi sẽ nói một ít chuyện đạo lý mang ý nghĩa báo hiếu để quí vị nhận
hiểu và áp dụng chữ Hiếu đúng theo tinh thần Phật dạy.
Từ lâu chúng ta đã nghe nói về ngài Mục
Kiền Liên với lễ báo hiếu Vu Lan, tức ngày rằm tháng bảy, ngày hoan hỷ của
mười phương chư Phật và chúng Tăng. Nói đến Tôn giả Mục Kiền Liên, ai cũng
biết Ngài cùng với Tôn giả Xá Lợi Phất được xem như hai cánh tay phải và
trái của đức Phật. Xá Lợi Phất là trí tuệ đệ nhất, còn Ngài là thần thông
đệ nhất. Tư cách của hai vị đại đệ tử này trong Tăng đoàn rất đặc biệt.
Đại chúng đều kính nể uy đức của hai Ngài.
Ngài Mục Kiền Liên có người mẹ tên là Thanh Đề. Khi còn sinh tiền, bà
thường ôm lòng keo sẻn xấu xa, lại không kính tin Tam Bảo nên khi chết bị
đọa vào loài quỷ đói. Đọa vào loài này thì trong cổ họng luôn cháy khát,
vì bất cứ thức ăn nào để vào cũng biến thành lửa đỏ. Chẳng những thế mà
nghe tên của thức ăn, nghe mùi thức ăn, nghe tiếng động dao thớt hoặc nghe
tiếng chén bát khuav.v… trong cổ họng cũng phát lửa.
Trong kinh nói lửa đó từ tham, sân, si mà
ra. Tâm keo sẻn, không rộng rãi buông xả, gây tạo tội lỗi sẽ chiêu cảm các
quả báo như thế. Do vậy sau khi thành đạo, nghĩ đến mẹ, ngài Mục Kiền Liên
vận thần thông tìm kiếm khắp nơi. Cuối cùng Ngài gặp mẹ trong chốn địa
ngục sâu thẳm, mang lớp quỷ đói. Thương mẹ vô cùng, Ngài quay trở về nhân
gian đi khất thực được một bát cơm, vội vã đem xuống địa ngục dâng mẹ.
Nhưng vì lòng tham lam bỏn sẻn, sợ các tội nhân chung quanh giành lấy mà
ăn, nên bà vội vàng che giấu thức ăn, vừa bốc cơm lên thì cơm hóa thành
lửa đỏ, không dùng được.
Sau khi chứng kiến cảnh này rồi, Ngài quá
đau xót, thấy mình quả thật bất lực. Ngài vội trở về trình bạch với đức
Phật, khẩn thiết cầu xin Phật chỉ phương pháp cứu mẹ. Đức Phật thể theo
yêu cầu của Tôn giả Mục Kiền Liên, chỉ cho phương pháp cúng dường chúng
tăng trong ngày mãn hạ, tức ngày Tự Tứ. Vì ngày ấy, chư Tăng vừa qua ba
tháng an cư, công đức tu hành viên mãn, nếu dâng lễ cúng dường tứ sự, sẽ
được công đức rất lớn. Tứ sự là bốn thứ thức ăn, y phục, ngọa cụ, thuốc
men, nói chung là vật dụng cần thiết của các vị tu hành. Chư Tăng hoan hỷ
nhận những phẩm vật cúng dường này rồi, các Ngài vận dụng công đức tu tập
trong suốt mùa an cư của mình, hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Nhờ công
đức đặc biệt của các vị Thánh tăng qua thời gian an cư, tập trung cầu
nguyện có thể làm chuyển hóa tâm thức của các loài ngạ quỷ. Nhân đó mà
chúng có thể siêu thăng, thoát khỏi nghiệp báo khổ đau trong địa ngục.
Quả thực, khi ngài Mục Kiền Liên vừa thiết
lễ cúng dường dâng lên, mười phương các bậc hiền thánh hoan hỷ nhận lễ,
trong đó có đức Phật. Nhờ sức gia bị của Phật và chư Tăng, bà Thanh Đề
phát tâm kính tin Tam Bảo, bỏ lòng keo sẻn, chuyển nghiệp quỷ đói được
sanh thiên. Tất cả những loài quỷ chung quanh cũng được sự chú nguyện này
mà thoát nghiệp báo khổ đau trong loài quỷ, được sanh lên các cảnh giới an
vui hơn.
Điểm quan trọng chúng tôi muốn nói ở đây là
căn cứ từ tâm. Cũng bát cơm ấy, cũng con người ấy, nhưng nếu lòng mình
chưa thật sự cởi mở, còn cố chấp, muốn một mình mình dùng bát cơm đó thôi,
thì không đủ phước để hưởng bát cơm ấy. Cho nên khi được bát cơm, bà Thanh
Đề sợ các quỷ đói kia xin ăn, bà ôm lòng keo sẻn chỉ muốn ăn một mình, nên
bát cơm biến thành lửa dữ. Do lòng tham che mờ, mắt bà tối tăm, lòng bà
cùng quẫn, không có cơ hội mở ra, nên bà vẫn bị tù hãm vây khốn. Càng bị
tù hãm thì càng khổ sở đói khát, càng khổ sở đói khát thì lòng tham càng
tăng trưởng, nên lửa than bốc lên đốt cháy tâm can.
Sau khi được sự hỗ trợ của đức Thế Tôn và
các vị Thánh tăng bà đã phát tâm. Chữ “Phát” là mở ra, “Tâm” là lòng mình,
phát tâm nghĩa là mở rộng lòng mình ra. Mở ra bằng cách nào? Ta đang đói,
thấy người khác đói mình biết họ cũng khổ như mình. Nếu mình được ăn, chia
sớt cho người cùng ăn, ta no họ cũng no, ta bớt khổ họ cũng bớt khổ. Đó là
cách mở rộng lòng ra. Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta cách mở rộng lòng ra
vì mọi người chung quanh, không nên vì mình mà quên người khác. Mình khổ,
biết người cũng khổ như mình, cũng đói như mình nên thương yêu giúp đỡ
nhau. Bởi nghĩ thế nên có gì, đều hướng cho tất cả mọi người chung quanh.
Mình vui thì cũng hướng nguyện cho tất cả đều được vui. Đó là tinh thần
phát tâm của người con Phật, cũng gọi là phát tâm Bồ-đề, phát tâm chân
thật đối với tất cả chúng sanh. Đó là yếu điểm của sự tu hành.
Bây giờ trở lại đời sống thường nhật của
quí Phật tử. Ví dụ, ngày xưa quí vị chỉ lo cho gia đình và bản thân mình.
Xóm làng ai đi chùa được thì tốt, không đi được thì thôi, ta không biết
tới, miễn mình tới chùa vui vẻ là đủ. Nhưng bây giờ không phải thế, mình
thấy đạo lý hay quá, nên muốn huynh đệ chung quanh đều được nghe Phật
pháp, hiểu Phật pháp như mình. Đó là mở rộng lòng ra.
Sở dĩ chúng ta đi chùa, học Phật pháp là vì
muốn hết khổ, được an vui. Phật tử không muốn mình bị khống chế bởi tham
sân si phiền não, không muốn bị mắc mứu bởi những tiện nghi trong cuộc
sống, không muốn gây tạo những nghiệp nhân bất hảo để chịu quả khổ. Ta
muốn giải tỏa những điều đó nên đi chùa, đồng thời động viên bạn bè cùng
đi chùa để chung một hướng tiến. Người như thế là người biết phát tâm
Bồ-đề. Trong các kinh Đại thừa, chư Bồ-tát được một bát cơm thơm, các Ngài
liền nghĩ đến chúng sanh cũng cần có bát cơm thơm để được an vui, no đủ.
Do đó các Ngài hướng tâm Bồ-đề, hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh đều
được hưởng bát cơm này. Nhờ phát tâm rộng lớn vô lượng vô biên như thế mà
các Ngài tu hành đều được thành Phật. Hướng tâm của người tu Phật chúng ta
là thế. Hướng tâm như vậy, mình không bị buộc ràng trong phạm vi cá nhân
độc đoán riêng tư. Tinh thần này rất cần thiết để xây dựng một xã hội tốt
đẹp tích cực.
Tôi nghĩ một xã hội nhỏ thôi, ví dụ như
trong các xã Phước Kiểng, Hiệp Phước, Long Phước, Phước Thọ v.v.. một số
quí Phật tử nòng cốt phát tâm như vậy, học hiểu như vậy, thấy rõ như vậy,
áp dụng như vậy, rồi khuyến phát huynh đệ đều được như vậy, thì tốt đẹp
biết bao nhiêu. Xã hội rất cần những con người có tâm rộng rãi vì số đông,
làm thành cho cái chung. Đó là tinh thần cởi mở, vị tha, là chân tinh thần
của Bồ-tát đạo. Đó cũng là cách phát tâm Bồ-đề của hàng Phật tử.
Nhân câu chuyện của bà Thanh Đề, Phật dạy:
Do lòng tham ác nặng sinh vào loài quỷ đói. Đức Phật giải thích cho ngài
Mục Kiền Liên biết mẹ của Ngài, từ nhiều đời do lòng tham ác nặng nề, nên
khi chết bị sinh vào loài quỷ đói. Bây giờ muốn cứu được bà thì phải nhờ
sức của tập thể, của số đông. Phật nói: Như tảng đá nặng, một hai người
không thể khiêng nổi. Tuy nhiên nếu có được số người đông đảo, có lực mạnh
hơn thì có thể dời tảng đá đó một cách dễ dàng. Như vậy sự cầu nguyện, sự
hướng tâm của chúng ta phải như lời dạy thứ hai của đức Phật. Vật nặng cần
có nhiều người đồng tâm hiệp lực dời đi mới nổi.
Qua tinh thần này, chúng ta thấy sự cầu
nguyện không hẳn là mê tín, tùy thái độ và tâm thành của người cầu. Trong
đạo Phật cũng có cầu nguyện chứ. Ví dụ như tôi đi đường được bình yên, tôi
cũng mong muốn mọi người đi đường được bình yên. Điều này không mang tính
dị đoan, mà trái lại còn thực tế nữa. Bằng tấm lòng chân thật và sự hỗ trợ
tích cực, chúng ta có thể hướng tâm chúc lành, trợ giúp cho nhau nhiều
lắm.
Bây giờ nói thẳng vào tinh thần báo hiếu.
Ngày lễ Vu Lan trong đạo Phật rất trọng đại. Nhiều chùa tổ chức lễ hoa
hồng cài áo gây ấn tượng sâu đậm với mọi người. Người được cài hoa hồng
thì vui vẻ, người không được cài hoa hồng thì nước mắt chảy trào. Tôi nhớ
năm đó, cũng khoảng ngày hai mươi mấy tháng bảy, lúc thầy Phước Viên còn
sinh tiền ở ngã ba Thái Lan. Thầy mời tôi lên dự lễ Vu Lan, có gia đình
Phật tử đông đảo. Trong lễ cài hoa hồng, mấy anh gia đình Phật tử hát lời
hiếu đạo, mấy chị cài hoa. Khi ấy chị Tuyết cài hoa hồng cho người ta, mà
bản thân chị cài hoa trắng. Thành ra chị vừa cài vừa khóc, làm cho những
bạn bè được chị tới cài hoa đều khóc theo. Sau đó chị đến đảnh lễ quí Thầy
và cũng xin cài hoa, thấy chị khóc sướt mướt, có nhiều Thầy cũng muốn rơi
lệ.
Quí vị thấy trong cái ổn có cái bất ổn,
trong cái vui có cái không vui. Và dường như cái không vui nhiều hơn cái
vui. Cuộc đời tương đối thôi. Tôi thấy các vị hơi lớn tuổi một chút, có ai
được cài hoa hồng đâu? Một dãy chư tăng ngồi hai ba chục vị, số chư Tăng
được cài hoa hồng hiếm lắm. Vì vậy, ngày nay để đỡ tủi, Phật tử chế ra hoa
hồng vàng. Thế là quí Thầy, Cô đều bình đẳng với một màu vàng trang nghiêm
rực rỡ, khỏi ai phải tủi thân nữa. Thông qua những lễ tiết nhỏ như vậy,
cũng làm cho người ta dễ cảm xúc.
Ở Thiền viện tổ chức lễ Vu Lan giản dị hơn
các nơi, quí ở lòng thành của chúng ta. Quí Phật tử về chùa cúng dường,
rồi thỉnh quí Thầy nói chuyện cho nghe để Phật tử hiểu, áp dụng tu hành.
Như vậy bớt đi những lễ tiết phụ, mà nhắm thẳng vào trọng tâm là làm sao
Phật tử hiểu được đạo lý, thông suốt việc làm của mình trong tinh thần
Phật dạy.
Trong những cách báo hiếu của Phật dạy, có
nhiều Phật tử làm được, nhưng cũng có vị chưa làm được. Tôi nêu ra một số
điều, quí vị cùng kiểm nghiệm thử xem.
Thứ nhất đối với cha mẹ, khuyên gắng tu
phước, làm các việc công đức, quy y Tam Bảo, tin nhân quả, sống đời sống
cao thượng theo tinh thần giác ngộ giải thoát. Điều này một số Phật tử lâu
năm thấm nhuần Phật pháp, có lẽ áp dụng được. Tuy nhiên, không phải ai
cũng làm được. Nhiều Phật tử nói với tôi vui lắm: “Thầy ơi! Nhiều khi con
phải trốn nhà mà đi chùa, rủ không ai chịu đi hết. Thôi thì độc diễn”.
Ở đây nói khuyên cha mẹ làm phước, làm các
việc công đức là thế này. Ví dụ, ngoài việc cúng dường chư Tăng Ni, quí vị
có thể giúp đỡ hoặc tạo điều kiện cho cha mẹ giúp đỡ người trong xóm của
mình, ai nghèo thiếu ta giúp cho họ. Không giúp được bằng tiền của thì
giúp bằng công sức, bằng lời nói, hành động, đem lại an vui cho người. Đó
cũng là cách tu tạo công đức lành. Luôn động viên, an ủi cha mẹ hướng tới
Tam Bảo, nếu đủ duyên nữa thì quy y Tam Bảo và sống đời sống cao thượng
của một người Phật tử tại gia. Trong nhà mọi người sống với nhau, trao đổi
với nhau bằng tinh thần nhân quả, tinh thần vị tha sáng suốt thì rất hay.
Nếu Phật tử tu tạo được như vậy, động viên các huynh đệ trong đạo tràng
của mình cùng được như vậy thì tốt đẹp biết mấy!
Thứ hai là săn sóc đời sống của cha mẹ, làm
sao cho cha mẹ có niềm vui thanh thản ở tuổi già. Muốn có niềm vui thanh
thản thì đời sống phải có đạo lý. Nhờ hiểu đạo lý, nên tâm không bực dọc
buồn khổ bởi những công việc làm ăn hay các việc khác. Điểm này là điểm
làm cho người ta khổ lắm. Làm được thì cố ý giữ gìn cho còn mãi của mình,
nếu bị mất đi thì khổ. Cho nên Phật nói: “Được mà muốn giữ cho còn cũng
khổ. Giữ không được bị mất đi càng khổ hơn”. Được rồi thì nói là của mình.
Ai đụng tới là có chuyện rầy rà. Hồi chưa được, muốn cho được chỉ là một
cái khổ. Nhưng khi đã được rồi phải canh cánh giữ gìn thì thành một tòa
nhà khổ rất kiên cố. Ai động đến cũng không được.
Thế nên Phật tử phải săn sóc đời sống cha
mẹ theo hướng có đạo đức, có trí tuệ. Giải tỏa được tất cả những ràng buộc
bởi đời sống làm ăn, tiếp cận quan hệ với mọi người chung quanh. Giúp cho
tâm hồn cha mẹ được thanh thản bằng cách khuyên cha mẹ buông bỏ bớt, đừng
lo cho con cháu nữa. Mỗi vị lớn khôn, phải tự biết lo liệu cho mình, để
thời giờ cho cha mẹ rảnh rỗi tu hành. Cuộc sống này khi đầy khi vơi, ta
làm sao cho mọi người trong gia đình có thái độ bình thản, tự nhiên trước
những đổi thay đó.
Mình là người Phật tử, khi đầy cũng không
quá tự kiêu rằng mình có phước, khi vơi cũng không quá tự ti rằng mình kém
phước, vô duyên bạc phận rồi than Trời trách Phật không ủng hộ mình. Quí
Phật tử áp dụng được như thế thì đời sống sinh hoạt tu tập không bị bất cứ
một ngoại duyên nào cản trở. Nếu không chuẩn bị tinh thần như thế, chúng
ta sẽ dễ dàng bị trở ngại lắm.
Tôi nói qua một vài trở ngại cho quí Phật tử thấy. Có nhiều người lúc làm
ăn được thì đi chùa cúng kiến cái này cái kia cho quí Thầy, vui vẻ lắm.
Nhưng thời gian sau làm ăn thua lỗ, sầu thảm không đi chùa nữa. Quí Thầy
gặp hỏi: “Sao lâu quá không thấy đi chùa?” Thưa: “Lúc này con làm ăn thất
bại quá, về chùa không có gì cúng kiến cho quí Thầy, con thấy xấu hổ quá”.
Nếu cuộc làm ăn đó thất bại kéo dài thêm một thời gian nữa thì chắc là sẽ
bỏ chùa luôn. Thành ra từ việc làm ăn mà làm cho đạo tâm bị lui sụt. Khi
làm ăn lên thì đạo tâm lên, khi làm ăn xuống thì đạo tâm xuống. Như vậy
làm sao tu được? Bởi đâu có ai bảo đảm được việc làm ăn của mình lên hoài.
Phật tử đến với quý Thầy là để học hiểu Phật pháp, ứng dụng tu trong những
lúc thăng trầm biến đổi như vậy, chớ đâu phải đến chỉ để cúng kiến. Cho
nên hiểu như thế là hiểu sai lầm, vì vậy việc tu theo đó cũng sai luôn.
Tóm lại, Phật tử làm ăn được hay không được
nên biết do phước nghiệp mà ra. Phước còn thì đi xe hơi ở nhà lầu, phước
hết thì đi bộ ở nhà tranh cũng được. Làm sao giữ vững đạo tâm là quí. Giữ
vững đạo tâm như vậy mới thấy lời Phật dạy chí lý: “Giàu sang không thật”,
những cái ta được không thật. Đã không thật mà mình muốn giữ, làm sao giữ
được. Cuộc đời này với bao nhiêu sự kiện bấp bênh trước mắt, chúng ta thấy
rõ ràng hết rồi. Chiến tranh, thiên tai, dịch họa… bao nhiêu thứ đe dọa
mạng sống của con người. Thế thì của cải, tiền tài, danh vọng, địa vị có
nghĩa lý gì! Trong kinh nói một cơn gió độc, một con rắn độc, một viên đạn
cũng đủ cắt đứt mạng sống của mình rồi. Vậy mà con người không hiểu còn
làm khổ nhau, hành hạ nhau đủ thứ chuyện trên đời. Chúng ta là Phật tử,
biết tu rồi phải tránh những nhân như thế.
Phật tử muốn săn sóc đời sống tinh thần của
cha mẹ, tạo cho cha mẹ có niềm vui thanh thản, chính bản thân mình phải có
được niềm vui thanh thản trước. Chúng ta tự tại đối với tất cả. Tự tại có
nghĩa là đối với công việc làm ăn, cái được cái mất, cái vui cái buồn,
những gì quí vị nếm trải phải biết nó không thật. Như con cái trong nhà
năm đứa, nhưng đâu phải quí vị dạy được hết năm đứa. Nhiều khi đứa mình
thương nó lại trận thượng, phá hết tiền bạc tài sản của mình.
Đó, hiện trạng xã hội ngày nay chúng ta
thấy rõ, đám trẻ con nhà có tiền nhiều được nuông chiều đã lao đầu vào xì
ke ma túy, một tệ nạn mà xã hội đang trừ khử quyết liệt. Bình thường đối
với cha mẹ rất thương biết, nhưng tới cơn nghiền nó không kể chi, cứ nhằm
cha mẹ mà quậy phá vơ vét, đôi khi không được như ý, chúng còn hành hung
nữa. Bản chất nó không phải là đứa con bất hiếu, nhưng lúc đó nó chỉ nghĩ
làm sao có tiền để thỏa mãn cơn nghiền thôi. Chúng ta đừng đổ thừa cho xã
hội, mà mình phải giáo dục gầy dựng lại từ đầu, giáo dục là ngay ở chỗ
này. Để tránh khỏi những cái khổ trước mắtù, mình phải chăm sóc giáo dục
con cháu mình một cách chu đáo. Phải thường xuyên chỉ dạy cặn kẽ những cái
hay cái xấu, và cũng luôn quan tâm đến cuộc sống của nó. Nhưng nếu vì một
nguyên do nào đó mà bị rơi vào con đường khổ sở như vậy, thì ta phải bình
thản sắp xếp, bình thản trước những cảnh được mất, bình thản đối với tất
cả những sự đổi thay chung quanh. Đó là quí vị bình thản để trả nghiệp,
chuyển nghiệp. Đây là yếu điểm tu tập, quí vị học Phật rồi phải áp dụng
cho được giáo pháp vào đời sống của mình. Học Phật là để sống bình thản.
Trong tinh thần thứ hai này, tôi muốn nhấn mạnh đến hướng tiến tự thân của
người Phật tử. Đó là bình thản an nhiên đối với tất cả các cảnh duyên. Kế
đến động viên, tạo điều kiện cho cha mẹ, những người thân của mình cũng
được như thế.
Thế thì có cách thức nào để chúng ta được
tự tại? Chạy lên chùa tụng một biến kinh, cầu Phật hay nhờ thầy cứu con ?
Không phải thế, mà bản thân mỗi người nên thấy tất cả muôn sự muôn việc
trên thế gian này đều không thật. Ví dụ như đứa con bình thường thương
mình, bây giờ nó hỗn láo với mình, nói những lời trái nghịch xấc xược, làm
bức xúc mình. Ta là người Phật tử phải làm sao? Phải bình tĩnh dạy lại nó.
Giải thích cho nó hiểu cái tốt cái xấu bằng tình thương cởi mở, chứ không
dùng quyền lực ép buộc hay trấn áp nó. Không phải lên đốt nhang cầu Phật
dạy cho con của con đừng nói như thế. Phật trên bệ đâu có nói được mà dạy.
Cũng không phải chạy tới nói với bà nội nó: “Bà nội! Bà dạy cháu bà nghe,
nó không được nói với tui như vậy”. Nói kiểu đó, con nó lại càng lộng hành
hơn, vì nó bắt chước mình. Phải tự hóa giải, tự an ổn, tự bình thản trước
rồi hãy dạy con.
Trong cuộc sống, mối quan hệ giữa cha mẹ
con cái rất quan trọng. Nếu Phật tử có tu tập, có đời sống đạo đức thì sẽ
tạo cho gia đình mình hạnh phúc. Có nhiều vấn đề đôi khi rất khó xử, nhưng
nhờ ta bình thản nên sáng suốt, từ từ tháo gỡ được tất cả không khó. Quí
Phật tử ở trong đạo tràng, mỗi tháng được quí Thầy nói Phật pháp cho nghe,
nên cố gắng ứng dụng những gì mình học hiểu vào đời sống để gia đình luôn
được an ổn vui vẻ. Như vậy mới xứng đáng là người con Phật.
Bản thân mỗi Phật tử phải sống luôn tỉnh
táo sáng suốt, thành thật kiên nhẫn và có sức chịu đựng. Kiên nhẫn và chịu
đựng như thế nào? Đối với hoàn cảnh hiện tại, quí vị phải kiên nhẫn gánh
chịu. Thật ra hạnh phúc trên thế gian là cái gì đâu? Sinh ra lụi hụi mười
bảy, mười tám tuổi có gia đình. Bắt đầu có gia đình rồi thì phải chấp nhận
khuôn luật gia đình. Chồng con hay vợ con ra sao, bao nhiêu những nghĩa
vụ, bổn phận đủ thứ. Nội những chuyện đó ập tới, quí vị cũng đủ bạc tóc,
già trước tuổi rồi. Nhiều người ba bốn mươi tuổi, mặt đã nhăn nheo ngồi bó
gối thở ra, có sung sướng gì đâu. Nếu người thiếu kiên nhẫn, không chịu
đựng nổi, thì thấy như có ai lảng vảng xúi mình nhảy xuống sông, xuống hố.
Thế là từ khổ này chập chồng thêm khổ khác.
Những người chịu đựng không nổi, thường đổ
thừa cho hoàn cảnh gia đình bức xúc. Nói thế cũng là một cách biện luận.
Hồi xưa tự mình muốn lập gia đình, chứ đâu có ai tới bắt quí vị phải như
vậy đâu. Sao hồi đó chịu, rồi bây giờ nói chịu không nổi? Thật ra tại vì
hồi nhỏ mình chưa biết gì thì chịu, bây giờ biết rồi than khổ. Cuộc đời
này trớ trêu lắm. Cho nên không giữ được tâm bình thản, để quá phần thì dễ
dẫn tới sự mất thăng bằng. Bộ chỉ huy của mình là não bộ mất thăng bằng
rồi thì coi như thân thể này hết xài, vô tác dụng. Người còn biết tốt xấu
thì còn có đạo lý, còn sống ra người. Nếu để mất hết lý trí, không đủ sức
chịu đựng thì quí vị thấy đó, trời nắng chang chang họ vẫn trùi trụi đi
ngoài đường, chẳng thấy chi. Đó là những hiện tượng bất ổn.
Là Phật tử, có sinh hoạt đạo tràng, được
học Phật pháp, quí vị làm sao tu tập sửa đổi mình ngày một tốt hơn. Không
phải học Phật để nhớ nhiều hoặc tính năm tính tháng, mà học Phật pháp để
xem mình có sáng suốt chưa, đã bỏ những tập khí nhỏ nhen ích kỷ chưa. Học
Phật pháp để phát tâm rộng rãi cầu giác ngộ giải thoát, tha thứ yêu thương
người, vật v.v… Nếu ai học Phật pháp mà chưa làm được những điều đó thì
phải ráng lên. Quí vị nhớ người Phật tử phải sáng suốt, phải chân thật,
phải kiên nhẫn, có sức chịu đựng để giải trừ tất cả những nghiệp xấu của
mình. Giữa cuôïc đời này ai nhát gan, không chịu đựng nổi thì sanh chuyện
dữ lắm. Nhiều chuyện không ra gì mà do ta không chịu đựng nổi nên thành
lớn chuyện.
Ngoài ra Phật tử còn phải có nếp sống đạo
hạnh, khép mình trong giới luật. Người Phật tử nào áp dụng được Phật pháp,
chúng ta nhìn vào phong thái của họ sẽ thấy rõ, khoan dung độ lượng, trang
nghiêm mực thước. Gia đình Phật tử nào có áp dụng Phật pháp, thấm nhuần
Phật pháp, nhìn vào tổ chức của họ rất tốt đẹp, an vui. Khi mà nội dung
bên trong có rồi, tự nó biểu hiện ra ngoài rõ ràng, không cần ai phải giới
thiệu quảng cáo. Đó là những điều cần thiết đối với đời sống của hàng Phật
tử tại gia.
Quí Phật tử nhớ, luật nhân quả rất quan
trọng trong đời sống. Chúng ta lờ mờ đối với nhân quả hoặc không tin nhân
quả thì sẽ gây tạo những nghiệp nhân bất hảo, dẫn đến kết quả đau khổ vô
cùng. Hễ gây nhân rồi thì phải chuốc quả. Người không đủ sáng suốt đã tạo
nghiệp nhân xấu nào, phải nhận chịu quả báo tương ứng như thế. Ví dụ, ban
đầu người ấy không muốn hút xì ke, mà do bạn bè dụ dỗ, kẻ ấy để dính vô
cái đó rồi thì thành nghiền, sau đó chuốc khổ.
Trong cuộc đời có nhiều trường hợp bất hạnh
như vậy, nhưng không thể đổ thừa hết cho hoàn cảnh. Chủ yếu là tại đương
sự không kiên quyết, không tỉnh táo sáng suốt. Bạn bè nói gì thì nói, ta
không nghe thì thôi. Tại mình yếu đuối, đến khi gặp khổ cũng khiếp nhược
không dám chịu trách nhiệm về sự sai lầm của mình, lại đổ thừa cho hoàn
cảnh chung quanh. Đạo Phật không chấp nhận những người có thái độ nhu
nhược, thiếu tỉnh táo như thế.
Ở đây nói rõ hơn về nhân quả. Chữ “Nhân” là
nhân tố, “Quả” là hậu quả. Người học Phật pháp, biết rõ gây nhân xấu thì
sẽ đưa đến hậu quả xấu. Muốn được quả tốt, không bao giờ ta gây nhân xấu,
rõ ràng như vậy. Nhiều người cứ gây bừa, không áp dụng theo tinh thần nhân
quả, gây nhân xấu nhiều, nhân tốt ít. Nhưng đến khi hậu quả tới thì kêu
trời, khấn Phật cứu con. Phật trời nào cứu được. Nhân đó của mình gây, chứ
Phật đâu có gây mà đòi Ngài sửa quả cho mình. Do vậy quý vị phải sáng
suốt, không gây nhân xấu thì không bị quả xấu.
Hằng ngày chúng ta kiểm lại từ sáng tới
chiều, vừa thức dậy ăn cơm, nói chuyện, đi làm… xem mình có phạm sai trái
gì không, tâm tình như thế nào, đời sống ra sao? Kiểm lại từ sáng tới tối
mình chưa hề có niệm xấu, tức là không gây những nhân xấu ác. Đó là một
ngày vui, ta có quyền để vào trong lon một hạt đậu trắng, vì biết mình
không gây nhân xấu thì không bao giờ có quả xấu tới, rõ ràng như vậy. Căn
cứ từ nhân quả mà tu, quí vị khỏi phải tốn tiền với mấy ông thầy bói. Bởi
chúng ta không gây nhân xấu thì không có quỷ ma nào làm gì mình được. Còn
nếu đã gây nhân xấu, dù có đút lót mấy ông thầy bói bao nhiêu tiền, hậu
quả xấu mình cũng phải gánh chịu thôi. Ví dụ, người thụt két hay tham lạm
tiền của người khác, thầy bói báo trước: “Coi chừng ở tù nghe con”. Nếu
người ấy không có tiền bù vô, chạy đằng nào đi nữa thì cũng vô tù thôi,
chuyện đó dĩ nhiên như thế.
Cho nên ai phủ nhận nhân quả thì cuộc đời
họ đáng sợ lắm, dù hiện tại là người gì, Vua chúa Đế vương cỡ nào cũng
không thoát được lưới nhân quả. Đối với vấn đề nhân quả, Phật tử chúng ta
nên quan tâm. Học đạo phải thông nhân quả. Chính chúng tôi cũng vì lo nhân
quả nên ráng tu. Ngày xưa có một vị tăng thọ nhận của đàn na mà tu không
ra gì, tới chừng chết phải trả nợ cũ bằng cách đầu thai làm khúc gỗ mục,
sanh nấm mèo quanh năm cho chủ nợ ăn. Hồi đó người ta cúng cho mình ăn, mà
tu không thành tựu gì hết, thì bây giờ thành khúc cây mục để lên nấm cho
người ta ăn.
Cũng vậy, nếu như ai sợ bị người hại thì
mình đừng có tâm hại người, đó là sống đúng luật nhân quả. Muốn người ta
không cướp giật của mình thì ta đừng khởi tâm tham của người. Muốn gia
đình mình được hạnh phúc thì đừng phá hại hạnh phúc gia đình người. Đó là
những điều luật thông thường, người thế gian còn biết huống nữa là Phật
tử. Đối với vấn đề nhân quả, nắm rõ tin sâu, sau đó sắp xếp mọi việc trong
gia đình không khó. Người sống đúng luật nhân quả sẽ thể hiện được tinh
thần tu tập đúng chánh pháp của hàng Phật tử tại gia.
Trở lại vấn đề báo hiếu của người con Phật.
Nhiều vị quan niệm rằng: Người xuất gia như chư Tăng chúng tôi không làm
tròn được hiếu đạo, vì bỏ cha mẹ đi tu. Nhưng trong kinh Phật, nhất là
những kinh thuộc về nhân quả, Phật lại nói nhiều về hiếu hạnh. Tinh thần
hiếu hạnh của đạo Phật rất cao siêu, chính hàng xuất gia chúng tôi mới có
thể thực hiện trọn vẹn hiếu hạnh đối với song thân, chớ không phải bất
hiếu như nhiều người lầm tưởng. Bởi vì không phải chỉ có lo miếng cơm manh
áo cho cha mẹ là đủ báo đáp thâm ân sanh thành dưỡng dục. Mà làm sao cho
cha mẹ thức tỉnh, chuyển đổi tâm xấu thành tâm lành, giúp cha mẹ thoát
khỏi sự thống khổ trong các đường dữ mới là người con chí hiếu.
Đạo Phật dạy hàng xuất gia phải nỗ lực tu
hành, đem công đức ấy hồi hướng cho cha mẹ chuyển tâm tánh, dìu dắt cha mẹ
đi trên con đường chân chánh. Như vậy mới gọi là hạnh hiếu chân thật. Cho
nên không thể nói Tăng Ni không làm trọn bổn phận với cha mẹ, mà quí Thầy,
Cô báo hiếu khác với người thế gian. Hiểu như vậy chúng ta mới trân quí
chữ Hiếu trong đạo Phật. Phật dạy Phật tử sau khi quy y Tam Bảo rồi, dành
dụm thời gian ổn định việc tu học của mình. Sau đó hướng dẫn cha mẹ cũng
quy hướng Tam Bảo, giữ gìn năm giới. Như vậy là người biết tri ân và đền
ân cha mẹ.
Tôi xin dẫn câu chuyện của Thiền sư Động
Sơn Lương Giới, Thiền tổ của tông Tào Động. Bức thơ Ngài gởi cho mẹ khi đã
quyết tâm xuất gia. Đây là bức thơ thể hiện lòng dứt khoát chọn con đường
đạo, xuất gia tu hành, không đi con đường của thế gian nữa. Thơ viếtù như
thế này:
“Được nghe chư Phật ra đời, đều do cha mẹ
mà có thân. Muôn loài sanh trưởng cũng nhờ trời đất che chở. Cho nên không
có cha mẹ thì chẳng sanh, không có trời đất thì chẳng trưởng, thảy nhờ ân
dưỡng dục, đều thọ đức chở che. Song mà tất cả hàm thức, vạn tượng hình
nghi đều thuộc về vô thường, chia lìa sinh diệt. Tuy ơn bú sú nặng nề,
công nuôi dưỡng sâu thẳm. Nếu đem của cải thế gian phụng dưỡng thì trọn
khó đáp đền. Dùng máu thịt để dâng hiến cũng không bền chắc. Trong Hiếu
kinh nói: Dù một ngày giết đôi ba con vật để cúng hiến cha mẹ vẫn là bất
hiếu, vì sẽ đưa nhau vào trầm luân, chịu muôn kiếp luân hồi. Muốn đền ơn
sâu dày của cha mẹ thì đâu bằng công đức xuất gia. Vì sẽ cắt đứt dòng sông
ái sinh tử, vượt qua khỏi biển khổ, đáp ơn cha mẹ ngàn đời, đền ơn từ thân
muôn kiếp. Bốn ân ba cõi thảy đều đáp đền. Kinh nói một người con xuất gia
đắc đạo chín họ đều được sinh lên cõi trời. Con nguyện bỏ thân mạng đời
này thệ chẳng trở về nhà, đem căn trần muôn kiếp chóng tỏ sáng Bát Nhã.
Cúi mong cha mẹ mở lòng hỷ xả, ý chớ trông
mong, học theo gương phụ vương Tịnh Phạn và thánh mẫu Ma Da hẹn đến sau
kia sẽ gặp nhau trong hội Phật, còn hiện nay cam chịu lìa nhau. Con chẳng
phải quên ơn dưỡng dục, chỉ vì thời giờ chẳng đợi người. Cho nên trong
Hiếu kinh nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân
này”. Xin cha mẹ lòng chớ nhớ mong.
Tụng rằng:
“Vị liễu tâm nguyên độ số xuân,
Phiên ta tịnh thế mạn thuân tuần,
Cơ nhân đắc đạo không môn lý,
Độc ngã yêm lưu tại thế trần,
Cẩn cụ xích thơ từ quyến ái,
Nguyện minh đại pháp báo từ ân,
Bất tu sái lệ tần tương ức,
Thí tợ đương sơ vô ngã thân”.
Tạm dịch:
“Chưa tỏ nguồn tâm trải mấy xuân,
Thương thay mê mải luống bâng khuâng,
Cửa không đã lắm người được đạo,
Riêng kẻ thô hàn mãi phong trần,
Viết lá thư này từ cha mẹ,
Nguyện thông đại pháp báo từ ân,
Không nên rơi lệ nhiều thương nhớ,
Xem tợ buổi đầu con không thân”.
Ngài khuyên cha mẹ bớt đi những thương nhớ,
cứ xem như trong gia đình không có con từ buổi đầu để Ngài yên tâm tu
hành. Bởi vì chỉ có tu hành sáng đạo hay đạt đạo thì mới có thể đền trả
thâm ân cha mẹ một cách rốt ráo mà thôi. Lá thư thứ hai:
Con từ lìa cha mẹ, chống tích trượng dạo
phương nam, tháng ngày trôi qua đã mười năm. Trên đường con đã trải qua
muôn dặm, cúi mong mẹ đem hết tâm ý hướng về Phật pháp, đừng ôm ấp tình ly
biệt, chớ đứng tựa cửa trông con. Mọi việc trong nhà tùy thời sắp đặt,
việc nhiều thì phiền não thêm nhiều. Phần anh cả thì nên tận tâm hiếu
thuận, học đòi gương Vương Tường nằm giá. Còn tiểu đệ thì hết sức bắt
chước theo Mạnh Tông khóc măng. Phàm người ở đời phải biết tu thân hiếu để
mới hợp lòng trời. Kẻ làm Tăng trong cửa Không thì mộ đạo tham thiền để
đáp ơn cha mẹ. Ngày nay hai đường xa cách, muôn sông ngàn núi, mượn giấy
mực viết vài hàng để bày tỏ tấc dạ.
Tụng rằng:
“Bất cầu danh lợi bất cầu Nhu,
Nguyện nhạo không môn xả tục đồ,
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt,
Ân tình đoạn xứ ái hà khô.
Lục căn giới định hương phong dẫn,
Nhất niệm vô sanh huệ học phù,
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng,
Thí như tử liễu thí như vô”.
Tạm dịch:
Chẳng cầu danh lợi chẳng cầu Nho,
Ưa thích cửa không bỏ thế đồ,
Phiền não hết rồi lòng sầu tắt,
Ân tình dứt bặt tâm ái khô.
Sáu căn giới định hương thơm ướp,
Một niệm vô sanh sức huệ phò,
Xin nhắc mẹ già thôi trông ngóng,
Ví con đã chết ví như không.
Đó là hai lá thơ Ngài gởi cho mẹ. Kế đến
chúng ta nghe thơ của bà mẹ gởi lại cho Ngài. Đây là một bà mẹ Phật tử,
hiểu Phật và áp dụng lời Phật một cách hết sức đặc biệt trong đời sống của
bà.
“Mẹ cùng con đời trước có nhân duyên mới
kết thành tình mẹ con. Kể từ ôm thai trong lòng, sớm chiều cầu Thần khẩn
Phật nguyện sanh được con trai. Thai bào đủ tháng mạng sống như chỉ mành,
sanh con được toại nguyện quí như châu bảo. Không nề sự hôi hám của phẩn
uế, chẳng ngại sự bú sú nhọc nhằn. Con vừa thành người dắt đến trường học
tập. Hoặc khi con đi chơi về trễ, mẹ đứng tựa cửa trông mong. Con viết thư
về, quyết xin xuất gia. Cha đã mất, mẹ già, anh yếu, em nghèo nàn, mẹ
trông cậy vào ai? Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có tâm quên con. Từ khi con
cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường rơi lệ. Khổ thay! Khổ thay! Nay
con lại thệ chẳng về quê, mẹ cũng tùy chí nguyện của con. Mẹ không dám
mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây, chỉ mong con như Tôn
giả Mục Kiền Liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Nếu mẹ
không như vậy e có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.”
Lá thư của bà tuy ngắn nhưng lời lẽ hết sức
dứt khoát. Tình nghĩa, sự nhớ thương theo thế thường thì không phải là
không có, nhưng biết được ý chí quyết tâm xuất gia của con, không về nhà
nữa thì mẹ rất hài lòng. Không mong con làm điều gì khác hơn là tu hành
thành đạo như Tôn giả Mục Kiền Liên để độ mẹ thoát khổ luân hồi sinh tử.
Lòng mẹ thực thà như vậy, nếu chỉ nói suông mà không như vậy thì mẹ chịu
tội. Con chỉ một việc duy nhất là phải tu làm sao cho được thành tựu, sáng
được việc của mình tức là thành đạo.
Đọc qua những lá thơ này rồi, chúng ta thấy
Ngài là một người con hiếu thảo nên đi tu mà vẫn cưu mang trong lòng ân
nghĩa, hiếu đạo cho nên viết thư gởi về cho gia đình, cho mẹ. Và cũng nhờ
gia đình hữu phúc nên ngài có được một bà mẹ cao cả, dứt khoát với những
lời lẽ khẳng khái, để ngài yên lòng tu. Bà luôn mong mỏi con mình tu thành
đạo, chớ không trông chờ cái gì khác. Đó là tinh thần hiếu đạo trong nhà
Phật.
Ngày xưa, có một Hòa thượng khi xuất gia
còn nhỏ. Đến lúc đã thành tựu đạo nghiệp, Ngài nhớ đến mẹ già và tìm về
quê cũ. Trải qua mấy mươi năm, cảnh vật đều thay đổi. Ngài không nhận ra
được ngôi nhà thuở xưa. Hỏi thăm mới biết mẹ Ngài sống trong một cái chòi
nhỏ trên nền đất cũ, bán trà sống qua ngày. Ngài vội vã tìm kiếm và gặp
lại mẹ trong một tình trạng rất thương tâm. Mẹ Ngài vì quá già yếu, mắt mờ
nên không thể nhìn ra con. Ngài đau xót và thương mẹ quá nên đến gần hỏi
han và ngỏ ý muốn rước về chùa. Bà cụ sợ về chùa không làm gì nổi thì có
tội, Ngài trấn an: “Bà chỉ cần niệm Phật là tốt rồi, không có tội”. Bà cụ
mừng lắm và chịu theo Hòa thượng về chùa.
Sau khi trình qua tăng chúng, Ngài rước mẹ
về và sắp xếp bà ở trong một am tranh. Mỗi sáng Ngài đều sang thăm mẹ
nhưng không cho bà biết Ngài là con, và cũng không cho đại chúng biết bà
cụ là mẹ mình. Sau khi thăm viếng xong, Ngài vẽ một vòng tròn cỏ cho bà cụ
làm. Làm xong thì vào niệm Phật. Cứ thế Ngài dìu mẹ quy hướng theo Tam
Bảo. Bà sống rất thanh thản, an vui. Ngày qua ngày bà cụ yếu dần, đến một
hôm thì bà mất. Bấy giờ đứng trước quan tài mẹ, Ngài nói: “Phật dạy, nếu
trong dòng họ có một người con tu hành đắc đạo thì cha mẹ sẽ được sanh
thiên. Nếu lời này không sai thì xin quan tài của mẹ được bay lên không
trung”. Tức thì quan tài của bà cụ bay lên. Và Ngài vui mừng vì biết mẹ
mình đã được sanh lên Thiên giới. Bấy giờ đại chúng mới biết bà cụ là mẹ
của Hòa thượng, một vị Trụ trì uy đức cao lớn và là Thầy của bao nhiêu
tăng chúng.
Đó là một cách báo hiếu trong nhà Phật.
Hướng dẫn mẹ vững niềm tin tu tập đúng theo lời Phật dạy. Gìn giữ cho mẹ
không lạm dụng sự cúng kính của đàn na thí chủ. Và nhất là mỗi ngày hướng
dẫn mẹ tu tập, gầy dựng công đức giác ngộ giải thoát cho mẹ. Đó là một
trong những cách thức báo hiếu của người xuất gia. Còn nhiều cách thức
khác nữa. Như tôi đọc hành trạng của Ngài Hám Sơn, có sự kiện như vầy:
Ngài đi tu từ thuở mới mười hai, mười ba
tuổi. Thời gian này Ngài thương mẹ nhiều lắm. Cứ mỗi lần có dịp về nhà
thăm mẹ là Ngài không muốn đi. Sáng mai bà mẹ phải đưa đi. Nhà ở trong
quê, đưa ra ngoài có sông rạch. Ra tới ngoài rồi Ngài lấn quấn bên mẹ hoài
không chịu đi. Sáng hôm đó đến bến đò, mẹ con phải chia tay, thấy Ngài
quấn quýt hoài, bà nói: “Một đứa con yếu đuối như thế này, làm được việc
gì”. Nói xong bà đẩy Ngài xuống bến, rơi tủm xuống nước, rồi bỏ đi. Người
chung quanh thán oán bà biết bao nhiêu. Họ cứu Ngài lên, đem về chùa. Từ
sự cố đó, Ngài nỗ lực tu hành và sau này thành đạo. Khi thành đạo rồi,
Ngài mới nhận ra được ý muốn thầm kín của mẹ. Nếu ngày xưa mẹ Ngài không
cứng rắn như vậy, thì làm sao uốn nắn được ý chí cho Ngài.
Người mẹ không có sự dứt khoát, cứ để con
lẩn quẩn bên mình thì làm sao con thành tựu đạo nghiệp được? Sau đó Ngài
nhận ra được cách giáo dưỡng của mẹ mình, mới quí bà vô kể. Bởi vì thật ra
khi Ngài rơi xuống sông, bà bỏ đi nhưng trong lòng giống như người đã
chết. Bà đứt từng khúc ruột khúc gan nhưng mà gắng chịu. Bà phải dạy như
vậy, sau này mới có được một người con xứng đáng với đạo pháp và làm ích
lợi cho chúng sanh. Đó là cách giáo hóa của một người mẹ có ý chí hướng
thượng, có tâm hồn lớn. Và để bù đắp lại, ngài Hám Sơn đã quyết tâm tu
hành và đạt đạo, đền trả được công ơn lớn lao của mẹ Ngài.
Nhân mùa hiếu hạnh, chúng tôi nhắc lại vài
cách thức Phật dạy, để quí Phật tử thực hiện theo, trở thành một người con
tốt:
Thứ nhất Phật dạy không nên làm điều gì hại
mình, hại người. Không làm hại người thì dễ rồi, nhưng không hại mình là
sao? Là con Phật, chúng ta hiểu nhân quả, hiểu lời Phật dạy nhưng vẫn gây
tạo những nghiệp nhân không tốt, đó là chưa biết thương mình. Hạng người
này Phật gọi là tự hại mình. Dù hiện tại ta vẫn an vui, vẫn có nếp sống
bình thường đầy đủ, nhưng cứ lầm lũi gây tạo nghiệp nhân bất hảo, thì chắc
chắn một ngày không xa, hậu quả xấu sẽ đến với ta. Phật nói đó là người
chưa biết thương mình, chưa biết tu. Bởi vì gây nhân nào thì sẽ chuốc quả
nấy. Thành ra Phật dạy, trước nhất mình phải biết thương mình, làm những
việc công đức, tránh vi phạm vào lỗi hại mình. Đó là tu từ nhân. Nhân tốt
này sẽ có năng lực đưa mình tới kết quả tốt. Cố gắng tu tạo những công đức
lành, tránh xa những nhân xấu. Đó là hạnh tu ban đầu của người con Phật.
Thứ hai, Nỗ lực thể hiện nếp sống tránh xa
hai thái cực. Thái cực thứ nhất là tham đắm theo dục lạc thấp hèn. Thái
cực thứ hai là cực đoan. Phật dạy người Phật tử thể hiện nếp sống đạo đức,
sáng suốt. Không gây những nhân xấu xa để rồi sẽ gánh lấy những hậu quả
không tốt. Ta gầy dựng từ tâm niệm chân thành, bằng sự sáng suốt, thấy rõ
những dục lạc thấp hèn nơi mình, ta bỏ đi không tham đắm. Tu tạo, gầy dựng
một đời sống trong sáng, đầy đủ đạo đức là nếp sống đạo. Phật tử tu tập có
nếp sống đạo, dù đang sống giữa cuộc đời phức tạp đa đoan, nhưng luôn luôn
thể hiện một đời sống sáng suốt. Như vậy sẽ tránh sa vào tham đắm dục lạc.
Phật dạy: Tham nhiều thì khổ nhiều. Đắm nhiều thì lụy nhiều. Chính cái vui
của thế gian là nhân của quả khổ.
Thái cực thứ hai là tránh sự cực đoan.
Phật tử phải có nếp sống tương đối, không nên thiên lệch thái quá. Thiên
lệch một bên là cố chấp. Cố chấp chính là si mê chớ không gì khác. Nhìn
vào gia đình của một Phật tử có tu tập đúng tinh thần Phật dạy, chúng ta
thấy thể hiện rõ ràng nếp sống quân bình, cởi mở, không câu nệ vào định
kiến của ai. Nhờ thế mọi thành viên trong gia đình đều vui vẻ, hòa hợp,
biết quí trọng lẫn nhau. Như vậy gia đình ấy là một gia đình có hạnh phúc.
Ở đây Phật muốn dạy chúng ta tránh xa những
tác nhân có thể làm mình mê lầm, bị sa ngã vào đường khổ. Nếu ta sống bình
thường an nhiên, có cái nhìn rõ ràng, thấy được lẽ thật các sự kiện chung
quanh thì sẽ không lầm bất cứ một sự kiện nào. Do không lầm nên ai nói gì
ta cũng không vội tin, ai rủ rê làm gì ta cũng không vội vàng chấp nhận.
Chúng ta luôn sáng suốt xét nét, thấy rõ việc nào đúng, việc nào không
đúng. Đúng thì làm, không đúng thì không làm. Nếu người Phật tử luôn được
tỉnh sáng như vậy, mới sắp xếp sinh hoạt gia đình bình ổn, thường làm chủ
mình, không dễ dàng sa vào con đường lầm lỗi.
Thứ ba, Chúng ta biết chọn một lối sống
lành mạnh, biết đủ. Từ đó đưa đến tâm thanh tịnh và trí tuệ sáng suốt.
Hạnh này phải trải qua một quá trình tu tập mới có được như thế. Ví dụ như
quí Phật tử từ lâu từng biết đi chùa, từng làm việc phúc, thấy người ta
khổ mình thương, nhưng chưa chọn nơi để hướng về. Đối với lời Phật dạy,
cách thức tu tập quí vị có nghe nhưng chưa làm, chưa quan tâm lắm. Bây giờ
tiến lên một bước nữa, mình phải học hiểu giáo lý, áp dụng những lời dạy
của đức Phật vào đời sống thì mới có lối sống lành mạnh, có tâm định tỉnh
và trí tuệ sáng suốt. Cuộc sống lúc nào cũng biết đủ, không đòi hỏi, không
chạy theo vật chất thế gian. Nhờ thế thân tâm an ổn, vì ít việc thì ít
phiền não.
Tuy nhiên, nói dễ nhưng làm thì nhiêu khê
lắm. Nếu ý chí của mình chưa đầy đủ, chưa mạnh, khi gặp khó khăn, cam go,
trắc trở không vượt qua được, không khắc phục nổi. Ở ngoài đời mà quý vị
không có sự sắp đặt, không có ý chí thì cũng không gầy dựng nổi gia đình
êm ấm hạnh phúc. Bước vào đạo cũng thế. Trong đạo lại có nhiều sự việc cam
go gấp bao nhiêu lần ở ngoài đời. Bởi vì như chúng ta đã biết, học làm
người đã khó, học làm Phật lại khó hơn. Vì vậy một trăm người học làm Phật
chưa chắc được đôi ba người.
Tôi nhớ một câu chuyện thế này: Xưa có hai
cậu cháu nọ cách nhau khoảng chừng đôi ba tuổi. Người cậu mười lăm mười
bảy tuổi gì đó, đứa cháu mười hai mười ba tuổi. Trong gia đình, hai cậu
cháu này rất tâm đắc. Đi chơi hay làm gì luôn luôn có nhau. Bà mẹ cũng rất
hài lòng vì thấy em mình là người tốt, có tâm hướng về Phật pháp nên bà
tin đứa con mình sẽ trở thành người tốt. Hai cậu cháu gần gũi được thời
gian thì có một sự đổi thay lớn. Người cậu chết. Đứa cháu chưa biết cậu
mình chết, chỉ thấy cậu nằm im đó thôi. Sáng ra người cháu mới lại gần
kêu:
- Cậu dậy đi, dậy đi chơi.
Bà mẹ đau lòng nói:
- Cậu con đã chết rồi! Đừng kêu cậu nữa.
Nghe mẹ nói cậu chết, đứa bé ngạc nhiên
hỏi:
- Chết là sao hả mẹ!
Bà mẹ trả lời không được. Kể từ đó đứa cháu
không hỏi nữa chỉ để ý theo dõi từng cử chỉ của mẹ. Nó thắc mắc tại sao mẹ
trả lời không được, mà cũng không biết tìm hỏi ai. Cho tới hôm đó, có mấy
vị thiền tăng đi ngang nhà. Bà mẹ là một Phật tử nên thấy các Thầy ghé
ngang nhà, bà ra cúng dường. Người con để ý thấy quí Thầy có vẻ siêu
thoát, mỗi lần ghé ngang mẹ đều ra lễ lạy cúng dường. Nó chú ý lắng nghe
đối đáp giữa quý Thầy và mẹ mình có nhiều câu rất lạ tai, nhưng không biết
nói gì.
Một hôm quý Thầy ghé, bà mẹ bận công việc,
chú bé mới chạy ra hỏi Thầy:
- Tu là sao? Con có thể đi tu được không?
Vị thầy đáp:
- Con có thể đi tu được.
Nghe vậy rồi, đứa bé vui vẻ xin mẹ:
- Xin mẹ cho con đi theo quý Thầy tu.
Bà mẹ hoan hỉ. Từ đó, chú bé cất bước theo
quý Thầy tu, nhưng trong lòng là để giải quyết cho ra cái nghi án trước mẹ
chưa trả lời. Đó là “Tại sao chết? Mình có bị chết không?” Vì vậy trong
suốt thời gian tu, vị tăng trẻ này rất chuyên chú làm sao để giải quyết
được nghi án của mình. Cuối cùng, Thầy nhận ra: Mọi người đều bị sự chi
phối của vô thường. Có thân này, có sự sinh ra thì sẽ có già, có bệnh và
có chết. Nói tóm lại, ai cũng chết. Con đường này người nào cũng phải đi
qua. Một bản án tử hình ai cũng phải bị tuyên án, không có tòa chống án.
Vỡ lẽ, vị Tăng quyết chí tu hành tới khoảng ba mươi tuổi thì ngộ đạo, làm
chủ hoàn toàn được vấn đề sanh tử.
Ở đây tôi muốn nói đến cơ duyên của người
xuất gia từ thuở bé. Do sự kiện trong gia đình có người thân qua đời, rồi
vị ấy ưu tư. Ưu tư đó được nuôi dưỡng cho tới ngày theo các Thầy xuất gia
làm Tăng, nỗ lực tu hành, cuối cùng sáng đạo, đạt đạo. Nói "sáng đạo" tức
là mình không còn bị lầm mê bởi một sự kiện gì trước mắt. Đạt đạo là bình
yên giữa những cuộc đổi thay, nhận ra tất cả những lăng xăng điên đảo
trong tâm là không thật có, luống dối. Được thế là mục đích tu hành cứu
cánh của người con Phật chúng ta.
Từ chủng Phật cộng thêm các thuận duyên,
khiến ta có người thân giúp mình thực hiện được tâm nguyện tu hành. Như
quý Phật tử do có duyên nên mới gặp nhau trong một xóm, một trú xứ, có
huynh đệ đồng tu, đồng đi chùa, đồng học hiểu Phật pháp. Đó là thuận duyên
đối với Tam Bảo. Nhưng từ thuận duyên đó quý vị phải tiếp tục phát huy
thêm tinh thần ý chí tu học của chính mình. Nếu không như thế mà chỉ lệ
thuộc các duyên bên ngoài thì đạo tâm của quí vị sẽ không vững chãi. Khi
gặp duyên trắc trở có thể quí vị sẽ thối tâm, không tu được.
Khi vị Tăng trẻ biết ai rồi cũng phải chết,
thì Thầy hết sợ chết, hết thắc mắc về cái chết của cậu mình. Từ đó Thầy
nghiệm ra một điều là, mỗi người phải tự nương tựa lấy mình, không thể
nương tựa người khác, vì họ có thể ra đi bất cứ lúc nào. Nói tới đây tôi
nhớ câu chuyện hồi Phật còn tại thế. Có một phụ nữ kia ôm xác đứa con trai
duy nhất của mình vừa mới bệnh chết, chạy khắp nơi gào khóc kêu thét, tìm
người cứu con bà. Không ai cứu được. Thấy tình cảnh bà thảm não quá, có
người chỉ:
- Bà đến với đức Phật đi! Đức Phật sẽ cứu
được con bà.
Nghe lời, bà chạy đến đức Phật van xin Ngài
hãy cứu con bà sống lại. Bà xin chịu mọi điều kiện của Phật đưa ra. Phật
bảo:
- Này cô! Hãy đến nhà nào chưa từng có
người chết, xin một ít tro bếp về đây, ta sẽ cứu con của cô.
Mừng quá, người phụ nữ kia chạy khắp làng
này qua xóm khác, tro thì có nhưng tuyệt nhiên chưa từng thấy gia đình nào
không có người chết. Cuối cùng bà quay về trình với đức Phật:
- Con làm sao tìm được nhà nào không có
người chết để xin một ít tro?
Đức Phật nói:
- Cũng vậy. Trên đời này, sự đổi thay, chết
chóc không tha cho người nào hết. Ai rồi cũng phải chết. Có thân này thì
phải hoại. Đâu chỉ riêng con của cô mới chết thôi.
Nghe đến đây, người thiếu phụ kia chợt tỉnh
ra, mới bớt sầu não và đem đứa con yêu quí của mình chôn cất đàng hoàng.
Sau đó bà theo Phật nghe pháp và phát tâm tu hành.
Chúng ta cũng thế, có thân này thì nhất
định sẽ có ngày bại hoại, sẽ chết. Vậy mà chúng ta không lo chuẩn bị gì
cho mình. Cứ lo lắng chuyện này, chuyện kia, chuyện chồng con, chuyện sự
nghiệp, chuyện địa vị, danh vọng… Bản thân mình chưa được gì thì hôm nào
đó đùng một cái ngã lăn ra chết. Khi nhắm mắt rồi, mời quý thầy tới tụng
kinh cầu siêu, có siêu nổi không? Làm sao siêu nổi. Bình thường không chịu
tu tập, không chuẩn bị, tới chừng đó nghiệp xấu lôi đi, đâu có ai cứu
được. Cho nên hằng ngày chúng ta phải tu. Trong các sự đổi thay giữa cuộc
đời này, mình phải biết đầu tư cho chính mình. Nghĩa là phải có công phu
tu hành, có đạo đức, đó là có sự chuẩn bị cho mình.
Hiện tượng chết làm cho người ta sợ, người
ta khổ. Bởi vì đó là một sự mất mát vô chừng, không ai biết trước được.
Bây giờ chỉ biết vâng theo lời Phật dạy, ngay đây muốn được an ổn, nhẹ
nhàng, không bị khổ thì phải nỗ lực tu. Đối với hàng xuất gia, khi đi tu
rồi, thì chỉ một việc duy nhất là tu làm sao cho thành đạo. Đó là một cách
báo hiếu. Tinh thần hiếu hạnh trong Phật pháp là tự mình tu tập cho có kết
quả, sau đó hướng dẫn cha mẹ quy hướng Tam Bảo, cũng biết tu tập như mình.
Cho nên chỉ có người con tu thành đạo mới có thể đền trả được thâm ân to
lớn của cha mẹ. Nếu không thành đạo thì không cách gì trả nổi công ơn trời
bể ấy.
Như ngài Mục Kiền Liên, nếu không thành
đạo, không cách gì Ngài cứu được mẹ. Bởi vì từ nhiều đời bà mẹ của Ngài đã
gây tạo nghiệp nhân không tốt, bị đoạ trong loài quỷ đói. Loài này bụng to
như cái trống chầu, mà cổ nhỏ như cây kim, vì vậy lúc nào cũng đói khát mà
ăn không được. Cho nên nghe hay ngửi mùi thức ăn mà không ăn được thì nổi
sân lên. Do nổi sân nên lửa bốc cháy trong cổ họng, thành ra nói thức ăn
biến thành than lửa, rất đau đớn thống khổ. Nếu Tôn giả Mục Kiền Liên tu
hành không chứng đạo thì làm sao cứu được mẹ trong lớp quỷ đói khổ sở như
thế.
Chúng ta ngày nay cũng vậy. Phật tử trước
nhất phải hiểu đạo, rồi tùy theo hoàn cảnh, điều kiện của mình áp dụng tu
đạo. Ví dụ Phật dạy cuộc đời vô thường, mọi thứ sẽ đổi thay. Các pháp
không có gì thật. Bây giờ mình là người Phật tử, nên nghiệm xem lời dạy
này của Phật có đúng không? Vô thường là gì? Là một sự đổi thay lớn lao,
không buông tha cho ai hết. Như con người có sanh ra thì có lớn lên, rồi
già nua, bệnh hoạn và cuối cùng là chết. Trình tự của thân này là như thế.
Sinh ra. Lớn lên. Già nua. Bệnh hoạn. Chết.
Có những bà mẹ thương con quá muốn con mau
lớn, như vậy khác nào muốn con mau chết. Phải vậy không? Cứ mỗi ngày kiếm
đồ ngon bổ dưỡng cho con ăn mau lớn. Mau lớn để làm gì? Mau lớn thì mau
già, mau già thì mau chết. Quý vị thấy mới năm nào mình ngồi trên ghế nhà
trường tiểu học, vụt một cái thì lên trung học. Thời gian không lâu, có
khi người đang học bỗng lập gia đình, có người vì hoàn cảnh sao đó bỏ học,
hoặc có người đang học ngã ra chết… đủ thứ chuyện. Lớn lên, học xong hay
chưa xong nữa thì lo chuyện gia đình, rồi con cái. Loay hoay tới già, tới
chết. Nhanh lắm!
Như bản thân tôi đây, về Thường Chiếu năm
ba mươi mấy tuổi, năm nay sáu mươi tuổi rồi! Mới đó thôi. Ngày nào chống
gậy xuống vùng cỏ gai mênh mông, tôi không nghĩ mình ở đây tới bây giờ.
Thời gian qua nhanh quá. Ngồi đó mà chờ thì thấy lâu, nhưng bẵng đi một
lúc thì rất nhanh. Mới ăn tết đó, bây giờ là rằm tháng bảy rồi, lụi hụi
tới tháng mười hai, rồi lại tết. Cứ như thế, thời gian không dừng lại bao
giờ.
Như
hồi sáng quí vị chuẩn bị đi chùa là sáu giờ, bây giờ là chín giờ, mười
giờ. Ai ở đây tìm giùm tôi, nắm lại giùm tôi lúc sáu giờ sáng, xem nó ở
đâu? Làm sao nắm lại? Tiếng tích tắc của đồng hồ qua, qua... Bảy giờ, tám
giờ, chín giờ, mười giờ. Không phải nó ngừng ngang đó, rồi mười một, mười
hai giờ cho đến sáu bảy giờ sáng nữa, nhưng không phải của ngày hôm nay,
mà là của ngày mai, ngày mốt. Nước đã xa nguồn không bao giờ trở lại. Quý
vị cứ nhìn sẽ thấy như vậy.
Sự đổi thay lớn lao quá, có gì bình yên
đâu, có gì hạnh phúc đâu, mà chúng ta không chịu lo cho mình. Lo cho mình
bằng cách như tôi đã nói, phải có chút ít công phu tu hành, có vốn liếng
công đức. Bởi vì cuối cùng con đường mình đi chỉ có một mình thôi. Có ai
tới lúc chết, kêu ông bạn mình chết thế được đâu? Không có. Ổng sợ thấy
mồ! Coi vậy chứ chết rồi, ổng sợ ma… Quý vị thấy cuộc đời là như vậy. Tôi
nói thế không có nghĩa là nêu lên những bi đát của cuộc đời, nhưng sự thực
là vậy. Cho nên người Phật tử phải biết chuẩn bị cho mình bằng cách lo tu.
Lúc bệnh chết, chúng ta chỉ đi một mình,
không có ai thay thế được hết. Như ta đau răng, đau đầu hay đau bất cứ chỗ
nào trong thân thể là chỉ mình ta cảm nhận nỗi đau đó thôi. Chớ người thân
dù có thương mình bao nhiêu cũng không thay thế được chút xíu nào. Do vậy
trong kinh Địa Tạng, Phật nói: Chí thân như cha với con trên đường gặp
nhau, cũng không thể thay nhau chịu khổ. Rõ ràng như vậy. Duyên hợp trong
quãng thời gian đây, quí vị là chồng, là vợ, là cha, là con, là huynh đệ,
là quyến thuộc… nhưng được bao lâu? Không bao lâu hết. Hôm nào đó mình
bệnh hoạn, không có thuốc men chữa trị hoặc phúc duyên hết rồi thì đường
ai nấy đi. Con đường phước, con đường tội của mình, mình đi. Chứ không ai
thay thế được hết.
Dân gian có nhiều mê lầm mà họ không biết.
Như hồi xưa Phật tử tới chùa quê quy y, ông thầy dẫn vô bàn Tổ, bảo lạy ba
lạy, xong ông nói :
- Như vậy là bữa nay con quy y rồi. Thầy sẽ
cho con cái pháp danh, bây giờ con chính thức là Phật tử.
Nhưng pháp danh viết chữ Tàu mình không đọc
được, ông Thầy nói rồi thôi, lại đi xuống. Tấm phái đó xếp lại cất. Đến
lúc mình chết mới đem ra, nướng hai miếng ngói ốp tấm phái lại cho nó ra
tro rồi để trên ngực, có người lại nói: Có miếng này, đi đường quỷ sứ
không dám hỏi. Vì nó biết mình là đệ tử của Phật, không ai dám đụng tới.
Thưa quý vị, hoàn toàn sai lầm. Nghiệp dẫn chúng ta đi chớ không có quỷ sứ
nào đưa đường dẫn lối cả. Người tạo nghiệp lành thì sanh về cõi lành,
người tạo tội dữ thì rơi xuống đường dữ. Giấy thông hành này dưới âm phủ
đâu có đọc được. Cho nên nhiều vị tu hành mà không hiểu đạo lý, lại còn
dạy bảo Phật tử sai trái nữa, thật là họa lớn cho đạo pháp. Cho nên quan
trọng là Phật tử phải chọn cho mình một lối sống lành mạnh. Từ đó nuôi
dưỡng tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt sanh khởi. Đây mới là hạnh của
người tu Phật chân chánh.
Tinh thần của người Phật tử là tự nỗ lực tu
hành, không trông chờ hay ỷ lại vào Phật Tổ được. Chúng ta thờ Phật, cúng
Phật không phải để được Phật cứu. Thờ Phật, cúng Phật là nghĩ nhớ ơn Phật.
Mỗi khi nhìn thấy tượng Phật, chúng ta nhớ lại gương hạnh của Ngài, những
lời dạy bảo của Ngài mà nỗ lực tu tập. Không phải thờ Phật để ỷ lại rằng
"Mình có thờ Phật rồi, không ai phá phách hoặc làm gì mình được". Xem Phật
như lá bùa hộ mạng hay ông thần, ông tướng gì mình thỉnh về để trấn ếm
trong nhà. Nghĩ như vậy là sai lầm, là có tội với Phật. Vì Ngài có bao giờ
dạy ta như thế đâu!
Phật tử đối với Phật pháp, đối với đời sống
tu tập phải tự ý thức rằng tất cả những công đức lành do mình tự làm, tự
gầy dựng. Không ai có thể tu giúp giùm quí vị được cả. Phật Tổ hay thầy
bạn chỉ hướng dẫn, nhắc nhở chúng ta thôi, tự thân mỗi người phải chịu
trách nhiệm về các việc làm của mình. Ví dụ ở gần nhà quí vị, có người
láng giềng đời sống không được nghiêm túc, họ phạm phải tội lỗi gì đó.
Mình biết rõ, thương nhắc họ: “Anh hay chị hành động như thế, sẽ dẫn đến
hậu quả xấu. Đừng đi con đường đó nữa, sẽ chuốc quả khổ”. Chúng ta chỉ có
thể nhắc như vậy thôi, chớ làm sao hơn được. Đó là hỗ trợ tinh thần trong
đời sống Phật pháp.
Trong sinh hoạt đời thường, chúng ta cố
gắng tránh gây tạo những hụt hẫng giữa mình và người. Làm sao đối với mọi
người chung quanh ta có sự cảm thông, hỗ trợ, nhắc nhở nhau tu tiến. Đừng
làm việc gì gây cấn, có hành động hoặc ngôn ngữ bức xúc người. Đó là nết
hạnh của người Phật tử thấm nhuần đạo pháp. Có thế quí vị mới cảm hóa được
mọi người trong gia đình, đem niềm vui, niềm tin lại cho cha mẹ, biết quy
hướng về Tam Bảo.
Và như tôi đã nói, hiếu hạnh trong đạo Phật
là chúng ta biết tu rồi phải hướng dẫn cha mẹ cùng tu, cùng hướng về Tam
Bảo, giữ gìn năm giới để đời này được an vui, đời sau sanh ra càng an vui
hơn. Có thế chúng ta mới gặp nhau trong hội Phật, tiếp tục tu hành cho tới
ngày viên mãn. Nên nhớ không một thành công nào có giá trị mà không đánh
đổi bằng mồ hôi nước mắt của mình. Không có ông Phật nào tự nhiên thành
Phật. Nhân thế nào thì quả thế ấy. Lý nhân quả xưa nay rõ ràng như vậy.
Hôm nay quý vị gieo nhân tốt đối với chánh
pháp, đó là nhân hiếu hạnh, chắc chắn mai này quý vị sẽ gặt hái được quả
tốt, cũng được con cháu thể hiện hiếu hạnh với mình. Chúng ta nguyện cùng
đem hoa trái hiếu hạnh này cúng dường mẹ cha nhiều đời và làm quà tặng cho
thế hệ con cháu mai sau, cũng biết nêu gương hiếu hạnh theo tinh thần Phật
đã dạy.
Kính chúc toàn thể quí Phật tử đều biết tri
ân và báo hiếu cha mẹ bằng chính sự nỗ lực tu tập của mình. |