Chúng ta tu
Phật đặc biệt là tu thiền, cần phải đặt trọng tâm của mình cho thật chính
xác, sâu sắc để từ đó thắng vượt được tất cả những trở ngại, thực hiện
công phu tu hành trọn vẹn. Nếu chúng ta chưa nắm vững trọng tâm, chưa có
cách thức tu hành cụ thể thì những trở ngại, chướng duyên thường làm chùn
bước khiến ta không thể vượt được những khó khăn.
Sở dĩ Phật tử đến với đạo Phật là vì muốn
tìm chân lý, bởi trong lòng mỗi người đều tự cảm nhận rằng cuộc đời này có
quá nhiều bấp bênh, quá nhiều điều bất như ý, bất hạnh. Do đó quí vị tìm
đến đạo như tìm một lối thoát, để được an tâm. Muốn vậy chúng ta phải đặt
lại trọng tâm việc tu tập của mình, sự hiểu biết về đạo lý Phật pháp của
mỗi cần được kiện toàn như thế nào? Hiện nay Phật tử đa số đã có một kiến
thức Phật pháp tương đối, nhưng kiến thức này chưa bảo vệ được công phu tu
hành lắm, vì nó còn thuộc về phương tiện, chưa phải chỗ rốt ráo.
Khi công phu chúng ta còn bị trở ngại,
chùng chình bởi những việc như ăn uống, ngủ nghỉ, bệnh tật, tiếp xúc, sự
nghiệp v.v… Nếu chúng ta chưa đặt trọng tâm, chưa nắm vững pháp tu, chưa
có ý thức sâu sắc, thì việc tu hành khó tiến. Bởi trong cuộc sống đây,
chúng ta có quá nhiều quan hệ như gia đình, xã hội, bạn bè v.v… Cho nên
những trở ngại đôi khi thuộc mặt thuận, êm dịu, dễ thương, chớ không phải
lúc nào cũng gay góc, khó chịu, đáng ghét. Bây giờ muốn vượt qua những thứ
đó chúng ta phải làm gì? Trước tiên, ta phải nắm vững phương thức tu hành
cho hợp đạo lý, thực hiện cuộc sống, làm việc chuẩn xác, như vậy cuộc sống
mình sẽ có chiều sâu và vững vàng hơn.
Nhiều Phật tử còn tại gia phát tâm tu rất
mãnh liệt, thấy việc tu tập rất êm xuôi. Nhưng khi vừa mới xuất gia liền
gặp chướng ngại. Như các vị tịnh nhân cư sĩ từ các nơi về đây, mỗi lần gặp
Hòa thượng, họ tha thiết lạy dài. Có vị khóc kể cuộc đời con bị trôi giạt,
khổ sở nọ kia v.v.. nên nguyện đến đây gặp thầy, nương thầy học đạo tiến
tu. Thưa thỉnh năm lần bảy lượt như vậy, cuối cùng được chấp thuận cho tập
sự trong viện với hình thức cư sĩ. Thời gian này có thể gọi là thời gian
huấn dục, chịu nhiều khó khăn, tu học lao động nhiều hơn chư tăng chính
thức trong nội viện. Song các vị đa số đều vượt những khó khăn này một
cách nhẹ nhàng, thoải mái. Có những thời ngồi thiền đau chân ghê lắm mà
vẫn chịu được. Giờ giấc làm việc bất thường, làm không kịp thở mà vẫn cứ
vui, vẫn cứ làm được. Nhưng mà chừng xuất gia, thành thiền sinh rồi lại có
vấn đề, có trở ngại. Đó là một hiện thực.
Giai đoạn đầu, vì thiết tha mong muốn xuất
gia, là đệ tử của Hòa thượng làm một vị thiền sinh, chớ không muốn gì khác
hơn. Do có trọng tâm nên tập trung chú mục vào đó, nhất định thực hiện cho
kỳ được. Nhờ nắm trọng tâm chính xác như vậy nên vượt qua hết mọi thử
thách ban đầu một cách dễ dàng. Nhưng sau khi xuất gia rồi, trọng tâm có
xê dịch nên không còn giống như trước nữa. Xê dịch thế nào? Bây giờ ngoài
việc tu học và lao tác, nghe nói hoài bão của người tu là phải thượng cầu
Phật đạo, hạ hóa chúng sinh. Phải thông hiểu Phật pháp, phải tu thế nào
cho sáng đạo rồi còn trách nhiệm hoằng pháp lợi sinh nữa, ngỗn ngang trăm
thứ, thấy lớn lao quá đâm ngán. Do ngán nên tiến không được, mà bây giờ
lùi cũng không được. Tại sao lùi không được? Vì hồi mình đi bà con dòng họ
khóc lóc, đãi đằng, đưa tiễn đủ chuyện, bây giờ không lẽ cuốn gói trở về,
mặt mũi nào nhìn thiên hạ!
Một khi lý tưởng, đỉnh cao của việc mình
làm chưa nắm vững, thì những sự việc chung quanh sẽ bào mòn lý tưởng ấy
trước khi nó thành tựu. Hồi còn cư sĩ bắt rửa chén, mình không thấy gì
hết, nhưng làm thiền sinh rồi bắt rửa chén liên tiếp vài ngày là hư tay hư
chân hết. Nó lạ lùng như vậy! Cái gì trong ta không biết, mà nó đổi thay
nhanh chóng mình không kiểm soát kịp. Đến khi nó thành hình cụ thể rồi, ta
không làm chủ được nữa. Ví dụ hồi trước, không chỉ vị thầy chịu trách
nhiệm hướng dẫn tu hành rầy quở mình, mà mấy sư huynh, mấy bạn đồng chí
của mình rầy quở là ta đã lo sợ, chuẩn bị tự khắc tự hứa sẽ vượt qua, sẽ
không để có trở ngại. Nhưng tới khi chính thức làm thiền tăng rồi, có khi
thầy quở đúng mà mình vẫn cứ buồn, không biết sao kỳ vậy? Điều này chứng
tỏ ta chưa nắm vững, chưa dám thí xả, chưa bước tới được. Những bước đầu
mình bước được nhưng tới đây không bước nổi nữa, bởi vậy nên chùng chình
lại đó.
Do đó tôi muốn nói đến sự hiểu biết của
chúng ta về Phật pháp, về nếp sinh hoạt đạo lý hàng ngày phải chuẩn đạt,
sâu sắc, vững vàng mới vượt qua được những giai đoạn sẽ có dự đổi thay xảy
ra đối với mình. Người xưa, khi bắt đầu tu tập, mười người thực hiện công
phu có đến năm bảy người thành công. Không như thời đại chúng ta việc tu
hành dễ đưa vào tình trạng lơ lững, tiến thoái lưỡng nan. Đó là vì chúng
ta không nắm vững trọng tâm của việc tu hành vậy. Do thế những tập khí cũ
còn tồn đọng bên trong, chưa phẩu thuật được.
Đối với người tu, những gì không cần thiết
là vứt bỏ ngay. Phật tổ đã ban cho chúng ta cây kiếm trí tuệ với mụ đích
gì quí vị biết rồi, đó là một loại vũ khí sắc bén để chặt đứt những dây mơ
rễ má của nghiệp tập phiền não. Sử dụng cây kiếm trí tuệ thì phải biết
công dụng của nó hễ chặt là phải đứt ngay, không được lây nhây. Một người
phát tâm xuất gia là điều rất quí giá, nên quí vị cố gắng giữ tâm ban đầu
không cho thoái chuyển. Phải giữ nó bằng thanh gươm trí tuệ luôn cầm sẵn
trong tay, không để những tâm niệm giải đãi phóng túng làm lay động ý chí
cầu đạo giác ngộ giải thoát.
Cho nên đối với người tu chúng ta, Phật dạy
thấy các pháp như huyễn, sẽ không bị những trở ngại về đời sống của. Ngược
lại, nếu không thấy như thế, chúng ta sẽ bị trở ngại bởi những tác động
chung quanh. Ở đây có hai giai đoạn chúng ta phải thực hiện. Giai đoạn thứ
nhất, phải bình thản an nhiên, tự tại buông xả tất cả các pháp bên ngoài.
Chỗ này Hòa thượng dạy biết tất cả đều là vọng không thật, huyễn hóa v.v…
Đây là chìa khóa mở cửa công phu. Làm sao đối với những cảnh duyên thuận
nghịch, những hay dở tốt xấu, mình người, chúng ta làm chủ được. Nói làm
chủ ở đây tức là ta phải có trí tuệ, bình tỉnh, sáng suốt đặt định cho
mình trước mọi tình huống. Cần thì làm, không cần thì thôi, như vậy ta mới
yên tâm tu tiến được.
Thứ hai, Phật tổ dạy người tu muốn áp dụng
Phật pháp đến nơi đến chốn, phải giải quyết cho tận gốc bản ngã của mình.
Đây chính là nguyên nhân gây mọi trở ngại trên bước tiến đạo của chúng ta.
Bản ngã là cái mà mình bảo vệ muôn đời, không ai đụng đến được, cho nên
trọng tâm tu hành của chúng ta là phải phá cho tan tành cái bản ngã này.
Triệt tiêu được nó rất khó, vì bản ngã đã ăn sâu gốc rễ trong ta từ vô
lượng đời kiếp rồi. Giai đoạn đầu đối trị với những lăng xăng lộn xộn
ngoại cảnh tuy khó mà dễ. Nhưng tới giai đoạn phá dẹp cố thủ, ái ngã đòi
hỏi công phu phải vững vàng triệt tiêu được nó.
Như sáng mai nghe người nào đó nói xa nói
gần về xóm làng mình, ta thấy bỏ qua được vì mình tu hành rồi chấp nhất
làm gì. Nhưng nếu họ không dừng lại ở đó, mà còn tiếp tục nói xấu đến dòng
họ mình, như bố mẹ hoặc ông cố ông nội mình, lúc đầu ta cũng ráng bình
thường. Nhưng họ nói đi nói lại một lần nữa về bố mình, thì thấy khó giữ
rồi đây. Nó đụng tới cái lư hương của mình thì dễ đổ vỡ lắm, thế là bắt
đầu sân lên và cơn giận từ từ lan tỏa ra lời nói, hành động. Dĩ nhiên tiếp
theo sau là những lời nói qua nói lại to dần, rồi dẫn đến ấu đã nhau.
Phật dạy nội tài ngoại tài đều buông hết
mới gọi là khắc phục được tham dục để tu tiến. Các bậc tu hành trước chúng
ta, bố thí tài sản, vợ con cho tới bản thân mình nữa, mà trong lòng không
dấy một niệm nào hết mới thành tựu được đạo nghiệp. Bây giờ chúng ta phải
chuẩn bị cho mình ngay niệm ban đầu mãi tới về sau. Luôn trong tư thế sẵn
sàng, để khi có gì xảy ra bất trắc ta vẫn kiểm soát được tâm mình. Chuẩn
bị thế nào? Ví dụ ta nghe người khác nói về mình điều gì không đúng, ta
vẫn bình thản, vì biết nó không thật. Đã không thật tại sao mình lại khởi
niệm buồn giận?
Chúng ta học Phật, quí kính Phật, nhưng quả
thực chưa tin lời Phật. Bởi vì Phật nói các pháp không thật mà mình còn
thấy thật, Phật bảo vọng tưởng phiền não phải bỏ đi mà mình chưa chịu bỏ,
cho nên cứ chùng chình trở ngại, không tiến được. Chỉ cần phát huy một
chút, tỉnh một chút, dừng lại một chút là được an lạc mà ta không chịu
làm, để mắc mứu đầu nọ đầu kia đủ thứ chuyện. Rồi sau đó đốt nhang lạy
Phật tha thiết khóc lóc cho con được an lạc. Thành ra chúng ta đi một vòng
rốt lại đâu nó cũng ỳ ra đó, chẳng tới đâu hết.
Tóm lại, muốn vượt qua những khó khăn giản
dị như thế, chỉ hội đủ hai phần quan trọng: Thứ nhất đối với tất cả cảnh
duyên chung quanh phải bình thản, thấy nó không thật, không bị động bởi
chúng. Thứ hai buông hết nội tài. Những gì ruột rà nhất, thân thương nhất,
dễ chịu nhất, thích thú nhất cũng phải buông đi, mới có thể khắc phục trở
ngại để đi đến thành công. Nữ Hoàng Đế Võ Tắc Thiên ở Trung Hoa đã nói một
câu hết sức nổi tiếng: “Chỉ khi nào ta vào nhà tắm, mới thấy được con
người thực của mình”. Thường chúng ta sơn vẽ bên ngoài đủ thứ màu mè, nên
không thể hiện bày chân tướng thực của mình. Chỉ khi áo cởi bỏ những thứ
che đậy ấy đi, ta mới thấy rõ con người thực của mình.
Nếu chúng ta thấy được như vậy, nói được
như vậy thì những nghiệp nhân luân hồi khổ đau dừng được, không có gì khó
khăn. Ngược lại những thứ đó còn tác động thì cả đời mình gầy dựng, đấu
tranh, nhưng cuối cùng khi nín thở nhắm mắt buông xuôi hai tay, tới cái
nút áo cũng bị lấy lại, có đem theo được gì đâu. Điều hòa thân này để có
một chút bình an đã khó rồi, nói gì con đường Phật đạo, đâu phải dễ. Tuy
nhiên nếu chúng ta nắm được yếu thuật và có quyết tâm thì sẽ thành tựu sở
nguyện.
Phật tử sống giữa đô thị với bao nhiêu thụ
hưởng vật chất mà các vị dừng được, bỏ được, làm chủ được, các vị cũng là
bậc hiền trong cuộc đời này rồi. Nội ăn uống ngủ nghỉ mà chúng ta làm chủ
được cũng đã hay lắm rồi. Thế nên Phật dạy hàng tu sĩ xuất gia phải bớt ăn
bớt ngủ, không cầu mong thụ hưởng vật chất sung mãn để dễ tu. Tới giờ ăn
mới ăn, ăn xong thì thôi, dù đói bụng bất tử cũng không vô bếp lục lạo gì
cả. Ai vi phạm là bị kỷ luật. Một tu sĩ không thể ăn lạp xạp cả ngày, ăn
như vậy làm sao tọa thiền tụng kinh được? Kế đến là bớt ngủ, tới giờ ngủ
mới được ngủ. Bù buồn ngủ lắm nhưng chưa tới giờ cũng chưa được ngủ. Bởi
vì Phật dạy ngủ nhiều là nhân của si mê trì trệ, không tỉnh sáng thì làm
sao ngộ đạo, tu đạo được?
Đây là những vấn đề bình thường trong cuộc
sống, nếu Phật tử làm chủ được, điều hòa được, đừng để bị kéo lôi theo sức
hấp dẫn của ngoại cảnh thì quí vị là những bậc hiền trong đời. Tìm người
như thế cũng hiếm lắm rồi, chớ không phải đợi có hào quang hoặc đi trên
mây trên nước gì. Ngay trong cuộc đời này, nhịn ăn nhịn mặc mà lòng vẫn
thấy bình thản, đầy đủ là tu giỏi đó. Chữ nhẫn là nhẫn chịu tất cả đói no
nóng lạnh, khó khổ của cuộc đời mà tâm vẫn bình thản an nhiên. Thế gian
thường ca tụng người mẹ là vì sao? Vì hình ảnh người mẹ dịu dàng, chịu
đựng được tất cả những bất thường, bất như ý trong cuộc đời. Ví dụ trong
nhà có con nhỏ, nó làm dơ làm xấu, người cha thấy gớm, chịu không được bỏ
đi chỗ khác, không rầy la là tốt rồi. Còn mẹ thì phải lau rửa, ẳm bồng,
nuôi nấng mà vẫn vui làm. Gánh chịu những việc hết sức bình thường lại trở
thành đức nhẫn phi thường của người mẹ. Bởi vậy công đức của người mẹ được
ca tụng nhiều là điều rất hợp lý.
Nếu Phật tử đã vượt qua được những khó khăn
rồi, còn có thể đem chánh pháp chỉ dạy cho người được giác ngộ, là quí vị
mang tâm nguyện rộng lớn của những vị Bồ-tát, tự giác giác tha, giác hạnh
viên mãn. Tức quí vị đã làm chủ được rồi, bình thản trước những hiện tượng
lăng xăng trong cuộc sống. Bây giờ đem những kinh nghiệm, những phương
pháp ấy chỉ dạy lại cho người khác để họ đừng bị mắc mứu, khổ đau nữa. đây
là quí vị thực hiện một đại nguyện. Mỗi khi được yên, tu thấy an lạc, vui
vẻ và thích thú học Phật pháp, tự nhiên chúng ta lại khởi niệm làm sao nói
cho bạn mình nghe, hướng dẫn bạn cùng tu học để được như mình. Đây chính
là chất liệu từ bi, lạc quan yêu đời trong đạo Phật. Không bao giờ ta vui
hưởng niềm hạnh phúc này một mình, lúc nào cũng muốn động viên khuyến
khích bạn bè hoặc người thân cùng tu, cùng được an lạc.
Trong những điều hòa kính Phật đã dạy, có
điều “ý hòa đồng duyệt”. Tức chúng ta có những niềm vui gì, hiểu biết gì,
hoặc kinh nghiệm gì về sự tu tập, ta nên chia xẻ bàn bạc với huynh đệ,
trao đổi cùng nhau. Để làm gì? Để loại những phần sai và tiếp thu những
phần đúng, ngõ hầu nâng đỡ tập thể cùng vui tiến tu. Tinh thần này rất
hay. Bởi nếu chúng ta tu một mình rất khó phát hiện những sai lầm của
mình. Nhờ huynh đệ đông, trí tuệ sáng suốt sẽ chỉ cho ta những khuyết
điểm, đồng thời khuyến khích động viên hỗ trợ cùng nhau tiến tu, cho được
những kết quả lợi lạc, thiết thực, chân chánh.
Phần đầu tôi đã nói về sự tự vượt qua những
khó khăn. Bây giờ đến phần chúng ta tự làm chủ mình, tự chiến thắng và tự
thành tựu cho mình. Việc tu tập phải trải qua từng giai đoạn như vậy.
Những khó khăn chúng ta đã vượt qua rồi, bây giờ phải làm chủ liên tục,
chứ không phải vượt qua khó khăn rồi thôi. Quí vị nhớ vọng tưởng đến không
có báo trước cho chúng ta, nếu mình sơ hở là chúng tấn công nhiễu loạn
ngay. Thế nên ta phải tu tập liên tục mới hy vọng làm chủ được. Những gì
cần loại bỏ ta phải có thái độ dứt khoát, mạnh dạn loại bỏ thì công phu
mới tiến. Đừng bao giờ nói một đàng làm một ngã, người con Phật nói điều
gì làm điều đó và phải làm cho được.
Phật Tổ dạy tất cả các pháp không thật,
chúng ta làm sao thực nghiệm điều đó. Thực nghiệm để làm gì? Để đừng bị
các pháp kéo lôi, chúng không có lực hấp dẫn mình, như vậy mới tự chủ tự
tại được. Cho nên nói tự chủ là nói ta không bị lay chuyển bởi các pháp
bên ngoài. Còn bị động một vấn đề gì dù lớn dù nhỏ, như ăn uống ngủ nghỉ
là mình chưa tự chủ. Làm chủ được ta mới tự khẳng định cuộc đời của mình.
Hiểu như vậy, công phu hằng ngày nhất định phải tiến thôi. Mỗi khi nói
điều gì, làm việc gì, ta nghiệm lại thấy mình đã gây nhân xấu hay nhân tốt
thì tự quyết định việc ấy nên làm hay không nên làm. Đó là chúng ta đã
giành được thế chủ động rồi. Tóm lại, chúng ta tu phải làm sao nuôi dưỡng
phát huy ông chủ của mình, mới được an lạc, vượt qua những khó khăn và
không bị kéo lôi bởi bất cứ thứ gì bên ngoài.
Người tu thiền có một sức sống rất mãnh
liệt. Sức sống đó không dính bên này, không mắc bên kia, tự tại trót lọt.
Từ đó mới có những con người siêu xuất, những vị thiền sư đi vào đời mà
không hề vướng mắc mùi đời. Như mười bức tranh chăn trâu trong nhà thiền,
từ bức thứ nhất là tìm trâu cho tới bức tranh thứ tám là vòng tròn; đó là
trải qua một quá trình tu tập từ lúc tâm chúng ta còn thô động đến trâu và
thằng chăn đều mất hết. Đến đây là mình đã hoàn toàn làm chủ, nhưng vẫn
chưa phải rồi. Làm sao ta có thể vào đời mà không bị ô nhiễm mới viên mãn.
Đi ngang quán nhạc mà tâm bình thản tự tại, vào chợ mà không vác bất cứ
thứ gì cả mới được. Cho nên phải tiến lên bức tranh thứ chín là lá rụng về
cội, chim bay về tổ. Đây là giai đoạn nhập Phật đạo. Để từ đó tiến sang
giai đoạn rốt ráo hơn nữa là bức tranh số mười thỏng tay vào chợ, tức nhập
ma giới để cứu độ quần sanh. Đó là quá trình thể nghiệm của người tu Phật
hay tu thiền.
Người tu sau khi đã ổn định pháp tu, kế nữa
giữ vững công phu làm chủ mình. Mọi hoàn cảnh khó khổ bức xúc cũng đều
chiến thắng được. Đi qua một một đoạn đường dài nếu tâm chúng ta lúc vầy
lúc khác thì tu không tiến được. Ở đây đòi hỏi tính tự quyết, chấp nhận
tất cả. Trong kinh Phật có dạy, người sáng suốt biết mình có duyên nghiệp
nên mới có mặt ở đây, nên cương quyết trả nợ cho xong. Người cương quyết
trả nợ khác với người khất nợ, tìm cách quịt nợ. Người khất nợ, tìm cách
quịt nợ thì sợ sệt, bất an. Sợ tu không nổi, sợ nghiệp chướng sâu dày, sợ
đổ nghiệp nên không dám tu. Người con Phật biết rõ đời này mình ngu tối là
vì đời trước gieo nhân si mê nên trí tuệ thiếu kém, bây giờ phấn đấu để
đừng ngu nữa. Đời này gặp nhiều khó khăn là mình biết đời trước mình gây
tạo khó khăn cho người, bây giờ phấn đấu đừng gây nhân đó nữa. Tự mình
quyết định, ngay đây cam chịu chấp nhận. Hòa thượng Viện trưởng thường dạy
người tu phải có tâm kiên cố, tâm trường viễn, phải gan dạ mới thành tựu
việc lớn.
Ví dụ quí vị gặp hoàn cảnh khó khăn, thiếu
ăn thiếu mặc, là biết phương thức làm ăn, vốn luyến của mình thiếu, hoặc
phúc duyên kém. Bây giờ phát tâm bố thí của cải tài vật bên ngoài và xả bỏ
tâm tham lam keo xẻn bên trong. Đó là trừ bỏ nhân xấu, bồi dưỡng nhân tốt.
Bản thân mình muốn an lạc mà không gây tạo nhân tốt, lại gây nhân xấu thì
làm sao an lạc được. Như thế chúng ta phạm phải hai lỗi: Lỗi thứ nhất tự
mình đánh mất nhân tố để được an lạc. Lỗi thứ hai làm mất đi sự an lạc cho
người khác. Thành ra chúng ta phải tự quyết trong công phu tu hành, không
ai tu thế cho ai được. Thiện hữu tri thức nhắc nhở mình cũng chỉ trong một
giới hạn nào thôi. Bản thân từng vị phải nỗ lực vươn lên trước những khó
khăn, bức xúc, không để bị cản trở chùng chình bước tu học bởi bất cứ
nguyên nhân nào.
Qua giai đoạn tự quyết tự chủ rồi, tới giai
đoạn kế tiếp là sự gắng gỗ để chiến thắng. Chữ “gắng” là phấn đấu vươn
lên. Điều này trong kinh Pháp Hoa, đức Thế Tôn đã kể lại câu chuyện giữa
ngài và Bồ-tát Di Lặc cùng phát tâm tu một lúc, cùng thờ một thầy, cùng
học một pháp, nhưng đức Thích-ca thành Phật trước, còn Bồ-tát Di Lặc thành
Phật sau. Bởi vì Bồ-tát Di Lặc thường giao du với người thế gian, những kẻ
cao sang quyền quý, ít chuyên tâm tu hành như đức Phật Thích-ca. Vì vậy
công phu tu tập không năng nổ nên tuy phát tâm cùng một lúc mà thành Phật
sau đức Thế Tôn. Tới bây giờ ngài cũng còn là vị Bồ-tát đang tu ở cung
trời Đâu Suất.
Cho nên biết
nếu chúng ta năng nổ, tích cực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thì có thể
đoán định được kết quả tu học của mình. Còn như phần này còn lờ mờ, chưa
quyết, chưa khẳng định, thì còn dài lắm không biết tới bao giờ. Nói về
Phật thể ai cũng có hết. Nhưng đức Phật đã trải qua kiếp số vô lượng làm
tất cả việc, thực hiện hạnh Bồ-tát viên mãn mới thành Phật đạo. Thời đại
chúng ta, Phật Thích Ca là vị giáo chủ, còn đức Di Lặc ở nội viện Đâu
Suất, đang giảng pháp và giáo hóa cho hàng Bồ-tát ở đó, đợi cơ duyên đến
Ngài sẽ thị hiện thành vị Phật kế tiếp làm Giáo chủ cõi Ta-bà.
Thành ra thành
Phật đầy đủ phúc trí trang nghiêm, chỉ có một vị duy nhất. Nhưng Phật chất
hay khả năng Phật thì tất cả chúng ta đều có đủ. Tùy tùy sức phấn đấu của
mỗi người, nếu tích cực liên tục, nắm vững đường lối chủ trương và tin ở
khả năng giác ngộ của mình thì sẽ thành công sớm. Còn ai lề mề, vừa tu vừa
bác phố thì không hẹn ngày thành tựu.
Trong sử kể
lại, sau khi Thế Tôn trải dài thời gian tu tập, cho tới ngày phóng quang
thành đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài đứng lên nhìn khắp chúng sanh bằng con mắt
trí tuệ, thấy tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, đều có trí tuệ
đức tướng Như Lai, nhưng vì ngu mê nên bị trôi giạt trong luân hồi sanh
tử, không có lối thoát. chúng ta vì lầm mê nên đi lạc đường, chớ gốc là
Phật không có gì khác. Trong nhà thiền nói Phật thể là chỉ cho cái gốc đó.
Phật tử đừng bao giờ lầm lẫn, nghe nói mình là Phật liền vỗ ngực xưng ta
là Phật. Không phải, chúng ta chỉ có Phật nhân nhưng chưa thành tựu được
Phật quả. Nhiều đời ta đi lạc, quên lối nên bị ma ốp làm cho mê mờ, bây
giờ phải lột ra, rửa sạch cho nó sáng lên.
Trong kinh
Lăng Nghiêm Phật dạy, tánh giác sáng suốt như ngọn đèn sáng ở trong nhà
phát ra ánh sáng bên ngoài. Từ hào quang bên ngoài ta quay về nhận lại
tánh giác của mình thì thành Phật tức thì. Ngược lại từ ánh sáng bên ngoài
mình lao ra, chạy theo các trần cảnh thì bị rơi rớt trong luân hồi sinh
tử, ngược xuôi trong các đường khổ không biết bao giờ mới thoát khỏi. Cho
nên ở đây chúng ta cần phải gắng gổ để thức tỉnh, để tự làm chủ. Có câu
thế này “Dốc lực tự thắng để chóng thành đạo quả. Dốc lực thực hiện tất cả
những việc công đức để đem lại lợi lạc cho chúng sanh”. Có hai phần, một
phần là tự mình phấn đấu dốc lực để xong việc của mình. Một phần nữa là
không ích kỷ, sau khi được lợi lạc rồi ta đem những lợi lạc đó truyền đạt
cho tất cả chúng sanh, khiến mọi người đều được lợi lạc như mình. Thì đó
là giai đoạn tự thắng.
Giai đoạn tiếp
theo là sự thành tựu. Sự thành tựu của người tu thiền là gì? Là mình làm
chủ được tất cả những lăng xăng. Chúng ta điều phục vọng tưởng đưa nó vào
chỗ yên lắng, đó là thành tựu hàng phục tâm. Ví dụ như hồi trước đối với
chuyện làm ăn, chuyện con cháu, chuyện liên hệ xã hội, làm cho ta chạy bên
đây, dính bên kia, đó là vì mình chưa biết tu, nên bị vọng tưởng điên đảo
kéo lôi, mất quyền chủ động. Bây giờ biết tu rồi, ta cũng đối diện với tất
cả những thứ đó nhưng mình cắt đặt được, làm chủ nó. Cần thì để ý tới,
không cần thì thôi. Tu tập được như vậy thì an lạc. An lạc chính là sự yên
lắng tất cả mọi vọng tưởng, không bị chúng kéo lôi nữa. Phật tử đừng nghĩ
an lạc là ngồi tòa sen, đi có mây đỡ dưới chân… Bây giờ chỉ lấy chuẩn là
làm sao mình làm chủ, chiến thắng được sự hấp dẫn của ngoại cảnh, nói gọn
là yên lắng được tất cả vọng tưởng.
Trong công phu
hằng ngày chúng ta đang tu tập là nhằm thực hiện được điều đó. Bất cứ một
dấy niệm nào, một hình ảnh nào mình cũng bình thản. Hằng ngày sắp đặt, giờ
nào làm việc ấy, cứ như thế mà làm. Niệm gì dấy khởi lên ngoài sự sắp đặt
đó liền dùng kiếm trí tuệ chặt phăng nó đi. Ví dụ mình tính đi chợ Phước
Thái, nhưng ra ngoài nghe người ta nói chợ Long Thành bán đồ rẻ hơn, mình
liền đi Long Thành là trật rồi. Người tu thiền phải dứt khoát, nếu buổi
sáng giỏi tính, định lên Long Thành thì đi Long Thành ngay từ đầu. Còn bây
giờ đã ấn định đi chợ Phước Thái là đi chợ Phước Thái, ai rủ rê gì cũng
dứt khoát không thay đổi. Như vậy mới làm chủ được chương trình, thời khóa
biểu của mình. Điều này nói nghe dễ, nhưng thiếu tự chủ, thiếu cương quyết
sẽ khó thực hiện, chớ không phải dễ đâu.
Người không có
lập trường làm gì cũng khó thành công. Lấy lại ví dụ trên, như mình nghe
lời người ngoải không đi chợ Phước Thái mà lên Long Thành. Tới Long Thành
không có món hàng đó, bấy giờ có người giới thiệu mình đi chợ Cầu Ông
Lãnh. Thế là ta đón xe đò đi tuốt Sàigòn. Lên tới chợ Cầu Ông Lãnh, người
bán bảo hàng này ở đây hết rồi, phải đợi tháng sau mới có. Lúc ấy chết dở.
Cứ thế ta long bong ngoài đường không về nhà được. Cuộc đời này, nếu sống
thêm một trăm một ngàn tuổi nữa, chúng ta giải quyết cũng không rồi đâu
nếu cứ dong ruổi mãi. Cho nên ta phải tập trung tu, làm chủ cho được. Trăm
năm trước trăm năm sau, bao kẻ lang thang trầm luân sanh tử cũng vì thế.
Chúng ta thấy
đó, Bồ-tát Địa Tạng phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh trong địa ngục
rồi mới thành Phật. Nhưng tới bây giờ Ngài vẫn là Bồ-tát, chưa nghe thành
Phật thì biết chúng sanh dưới kia còn nhiều lắm, cho nên Ngài đang bận ở
dưới. Trong đó chắc Bồ-tát cũng đợi chúng ta, vì ít nhiều gì mình cũng có
hồ sơ ở dưới, vì cứ loay hoay lẩn quẩn không chịu tu thì sẽ bị kéo vô đó
thôi. Thế nào chúng ta cũng phải nhờ tích trượng, minh châu, trí tuệ và
lòng từ bi của Ngài thôi. Nói thế không phải để chúng ta lo sợ mà để cố
gắng nỗ lực tu tập. Nếu bây giờ không nỗ lực, sơ sẩy bị thế lực phiền não
kéo lôi rơi vào nẻo khổ, chừng đó hối hận không kịp.
Khi tâm tự yên
lắng, mọi lăng xăng không còn, ta hoàn toàn làm chủ. Như vậy là đã vượt
được tất cả những khó khăn, không bị hấp dẫn theo bất cứ một pháp trần
nào. Đó là người thành công đối với pháp tu, công phu tu hành đã thành
công. Tôi nhắc lại chuyện chăn trâu trong nhà thiền. Một hôm Mã Tổ hỏi
thiền sư Thạch Củng: “Ông làm gì ở đây?” Ngài Thạch Củng trả lời: “Con
chăn trâu”. Mã Tổ hỏi tiếp: “Chăn như thế nào?” Ngài đáp: “Mỗi khi nó chạy
vào ruộng lúa thì lôi mũi kéo lại”. Mã Tổ bảo: “Thế là ông chăn giỏi”. Đây
là một pháp tu cụ thể.
Như tôi đã
nói, chúng ta đừng để các thứ bên ngoài kéo lôi. Mỗi khi chúng muốn kéo
mình thì ta phải xỏ mũi kéo nó trở lại, dừng ngay. Đó là người chăn trâu
giỏi. Trâu là tâm lăng xăng luôn luôn muốn lôi kéo chúng ta, mình phải
chăn giữ nó. Chư Tổ đưa ra một hình thức cụ thể để chúng ta biết cách tu.
Ví dụ quí vị đang ngồi thiền, trong tâm khởi lên niệm gì đó liền chặt đứt
ngay, đừng để niệm này nối tiếp niệm khác mất hết cả tiếng đồng hồ, đó là
đã bị chúng kéo đi. Phật không chấp nhận kiểu tu như vậy, người đâu trâu
đó, phải sống được với nội tại hiện là. Cho nên ngồi thiền chỉ việc ngồi
thiền. Việc ngồi thiền là gì? Chăn trâu giỏi. Chăn trâu giỏi là sao? Mỗi
khi nó ngó lúa mạ người liền nắm mũi kéo lại. Giản dị quá. Tu như vậy là
tu giỏi.
Trong thiền sử
có nhắc câu chuyện này. Một hôm Thiền sư Động Sơn vào rừng gặp Hòa thượng
Ẩn Sơn, Ngài liền hỏi thế này: “Hòa thượng ở đây làm gì?” Hòa thượng Ẩn
Sơn trả lời: “Tôi thấy hai con trâu báng lộn nhau rồi chạy ùm xuống sông,
đến nay không có tin tức”. Ý nghĩa câu này thế nào? Tức Ngài muốn nói tới
bức tranh thứ tám, một vòng tròn trong sáng, thằng chăn và con trâu đều
mất hết. Hòa thượng Ẩn Sơn muốn nói cho ngài Động Sơn biết công phu tu
hành của mình đến chỗ này. Nghe vậy ngài Động Sơn liền đảnh lễ. Đây là một
cách trả lời vừa đạo lý, vừa hiện thực, vừa nói lên chỗ tột cùng chính
xác.
Trong chúng
ta, tìm được người mà hai con trâu chạy ùm xuống sông, không thấy tin tức
hiếm lắm. Con trâu của mình lăng xăng ngược xuôi cả ngày, có khi lẫn đêm
nữa. Cho nên muốn chăn được nó, lúc nào chúng ta cũng phải tay dây tay
roi, hai mắt không ngủ gục, không lười biếng, trâu ngó qua ngó lại là
quất, kéo mũi lại ngay. Đó là người chăn giỏi. Phật tử đi chùa thì thôi,
về nhà thì việc nhà việc cửa, việc ăn việc ở, việc làng nước, việc con
cháu, kéo dài như thế. Có người đi chùa mười năm hai mươi năm vẫn chưa
được an lạc, vì chưa nắm được pháp tu. Bây giờ quí vị không tu, không làm
chủ trước thì đến lúc hấp hối trăn trở từ giã cuộc đời sẽ thấy khổ sở vô
cùng.
Cho nên mình
phải chuẩn bị ngay từ bây giờ, làm sao buông được hết, chăn con trâu điên
đừng để nó kéo lôi nữa. Làm sao đến lúc sắp ra đi, ta ngồi ngay ngắn kêu
mọi người chung quanh lại, nhắc nhở việc nọ việc kia xong, nằm xuống nhắm
mắt thở khì. Thật hay biết chừng nào! Ai có hỏi trước lúc lâm chung, sợ
chết không thì vui vẻ trả lời: “Tôi sắp được cởi cái áo nhơ nhớp mấy mươi
năm nay bỏ đi, khỏe biết mấy!”. Hoặc bạn bè hỏi thêm điều chi, mình sẽ
thanh thản nói: “Bầu trời trong, trăng sáng, ta tự tại đi”. Người tu thiền
phải có phong thái như vậy. Mà muốn được như vậy thì bây giờ phải tu, phải
nỗ lực công phu.
Buổi nói
chuyện hôm nay, tôi mong tất cả chúng ta ít nhiều gì cũng tự sắp đặt được
cho mình, đối với tất cả những cảnh duyên chung quanh cố gắng làm chủ. Kế
nữa là phải tự quyết, tự chủ, tự thành tựu việc tu hành của mình. Phật
dạy: “Mỗi người tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Cụ thể,
chúng ta chỉ làm một việc duy nhất là chăn con trâu điên của mình cho thật
đắc lực, nắm được mũi nó kéo về thì không lo sợ phạm vào lúa mạ nhà người.
Mong tất cả cố
gắng tu tập và cầu chúc quí vị đều được thành công. |