HOA VÔ ƯU
(Tập I)
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]
LỤC TẶC VÀ LỤC THÔNG
Đề tài chúng tôi sẽ tŕnh bày cho quư Tăng Ni và Phật tử hôm nay là lục tặc và lục thông. Thường người thế gian có điều ǵ giận dỗi hay nói "nổi tam bành lục tặc". Vậy lục tặc là ǵ? Chữ tặc là kẻ cướp, kẻ giặc. Trong kinh Phật luôn luôn dạy, mỗi chúng ta có đủ sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư. Sáu căn đó nếu mê lầm bị sáu trần lôi cuốn th́ sáu căn biến thành lục tặc. C̣n nếu chúng ta khéo tu, khéo gỡ, không cho dính nhiễm sáu trần th́ sáu căn liền thành lục thông. Như vậy th́ mắt, tai, mũi, lưỡi… của chúng ta là lục tặc mà cũng là lục thông. Chỉ khác một bên không biết tu để cho dính nhiễm, c̣n một bên biết tu gỡ bỏ không cho dính nhiễm. Như mắt chúng ta thấy vật ǵ đẹp liền trầm trồ khen ngợi rồi sanh tâm ưa thích. Đó gọi là dính, là nhiễm. Như vậy con mắt là một đứa giặc. V́ dính nhiễm với sắc trần cho nên nó phá hoại công đức lành của ḿnh, do đó gọi nó là giặc, là kẻ cướp. Các vị nào tu mà thấy người đẹp, đồ vật đẹp, hoa đẹp liền chú ư, khen ngợi, chính là bị một đứa giặc dẫn đi rồi. Kế đến lỗ tai nghe lời khen, tiếng chê. Nghe lời khen trong ḷng chúng ta vui mừng, bị chê chúng ta phiền năo, đó là đứa giặc thứ hai. Bởi v́ vui mừng là hiếu danh, phiền năo là bệnh hoạn nên nó cướp mất công đức lành của chúng ta. Lỗ mũi cũng vậy. Khi ta đi qua những chỗ có hoa thơm, có mùi ngọt ngào th́ ưa thích, c̣n qua những chỗ có mùi hôi thối th́ không ưa. Như vậy lỗ mũi đă phá hoại công đức của chúng ta. Đó là đứa giặc thứ ba. Đến lưỡi của chúng ta. Khi món ngon chúng ta thấy thích, ăn món dở chúng ta bực bội. Thích món ngon mà không được ăn, ghét món dở mà bị ăn hoài đâm ra bực bội. Vậy cái lưỡi thích ngon, chán dở đó là đứa giặc thứ tư. Thứ năm là xúc chạm. Xúc chạm những ǵ êm ái ta có cảm giác thích thú, xúc chạm những ǵ thô nhám khó chịu th́ chúng ta ghét. Những xúc chạm đó làm chúng ta đắm mến, say mê hoặc làm chúng ta khó chịu chán ghét, nên nó là đứa giặc thứ năm. Đứa thứ sáu là ư. Ư chúng ta tiếp xúc với pháp trần, trần này hơi thầm kín một chút. Khi chúng ta nhớ h́nh ảnh người phá hoại ḿnh th́ bực bội, nhớ h́nh ảnh người thương mến ḿnh liền dễ chịu. Đó là đứa giặc thứ sáu. Chúng ta hăy thật thà xem xét có phải sáu căn là sáu đứa giặc không? Nếu phải th́ chúng ta c̣n công đức hay mất công đức? Nuôi sáu đứa giặc phá phách này th́ công đức chúng ta tiêu tan hết. Như vậy chúng ta tu là phải làm sao đừng để sáu căn dính nhiễm với sáu trần. Đó là đuổi được sáu đứa giặc hay c̣n gọi là lục tặc, nếu không bọn chúng sẽ làm hư hoại các công đức của chúng ta. Mỗi vị hăy tự kiểm lại ḿnh để cố gắng khéo tu. Tôi dẫn một h́nh ảnh mà mọi người đều dễ thấy, dễ nhớ. Khi vào chùa chúng ta thường thấy thờ một vị Bồ-tát h́nh tướng mập mạp, miệng cười toe toét. Đó là Bồ-tát Di Lặc. Có tượng Bồ-tát ngồi với sáu đứa trẻ, đứa móc con mắt, đứa chọc lỗ tai, đứa khều lỗ mũi, đứa thọt vào miệng v. v… Sáu đứa chọc phá như vậy nhưng Bồ-tát vẫn cười, không bực bội, không rầy rà ǵ hết. Sáu đứa trẻ đó tượng trưng cho lục tặc. Mặc dù chúng nó chọc phá nhưng Ngài vẫn thanh thản tự tại. Sáu đứa giặc tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, dù bị quấy nhiễu nhưng Bồ-tát vẫn tươi cười, chứng tỏ Ngài đă thắng được lục tặc. Chiêm ngưỡng h́nh tượng Ngài chúng ta phải học theo gương của Ngài. Một vị Bồ-tát lúc nào cũng thong dong tự tại, không buồn phiền, bực bội. Như vậy lục tặc đối với Ngài đă thành lục thông rồi. Chúng ta tu phải làm sao chuyển lục tặc thành lục thông mới là người thắng trận. C̣n nếu bị lục tặc nhiễu loạn th́ thành người thua trận. Trong kinh A Hàm chư Phật có kể câu chuyện một đàn khỉ đi ăn. Khỉ chúa ra lệnh tất cả khỉ con phải đi chung đàn, theo sau khỉ chúa không được đi tản mát. Trong đó có một khỉ con thấy khỉ chúa đi trước, gặp thức ăn ngon khỉ chúa lượm ăn hết, nên nó tách đàn đi riêng lẽ để kiếm ăn. Khi thấy miếng mồi thơm ngon nó liền dùng chân trước chụp lấy, không ngờ đây là bẫy của thợ săn đă gài chất nhựa xung quanh nên nó bị dính tay. Dính tay này nó lấy tay kia gỡ nên cũng dính luôn. Kế lấy chân sau gỡ cũng bị dính, c̣n lại một chân cố bươi cũng dính. Như vậy dính hết bốn chân nó dùng cái đuôi ngoe ngoe móc cũng bị dính. Sau cùng nó lấy cái miệng quặp gỡ nên bị dính luôn. Bốn chân, đuôi, miệng, cả sáu thứ bị dính, hết cục cựa. Chú thợ săn đến lượm bỏ vô giỏ quảy về. Phật mượn ví dụ này để nói chư Tăng, chư Ni tu hành nương các bậc đạo đức. Nhưng khi thấy Phật tử cúng dường các Ḥa thượng, không cúng cho ḿnh th́ cảm thấy buồn v́ nghèo thiếu, nên muốn ra riêng để được người ta quư trọng hơn. Cũng như chú khỉ con c̣n trong đàn, thấy khỉ chúa hưởng hết những thức ăn ngon nên bất b́nh mới bỏ đàn. V́ thiếu kinh nghiệm không biết đâu là mồi người ta bẫy, đâu là thật nên gặp ǵ lượm nấy mới dính tay chân cho đến sáu căn, không c̣n dẫy dụa được nữa. V́ vậy bị thợ săn lượm bỏ vô giỏ. Đức Phật dụ miếng mồi là sáu trần. Một tay bị dính rồi th́ cả sáu bộ phận bị dính hết. Bẫy nhựa của thợ săn dụ cho sáu căn dính với sáu trần. Khi sáu căn dính với sáu trần rồi th́ thợ săn (dụ cho Ma vương) xách đi đâu cũng phải chịu. Chúng ta tu nếu khôn ngoan th́ như con khỉ đi theo đàn, có người bảo hộ. Khỉ con không dính bẫy nên được tự do dù ăn ít một chút cũng không sao. C̣n muốn ăn ngon, đi riêng lạc đàn th́ bị mắc bẫy rất là tai hại. Như vậy sáu căn dính với sáu trần tức chúng ta bị Ma vương dẫn đi. Nó biểu chúng ta làm ǵ chúng ta đều phải nghe theo, không chạy đâu được hết. Chư Tăng Ni tu bao nhiêu năm gỡ được mấy trần, c̣n lại mấy trần? Nếu dính hết th́ thôi coi như đầu hàng Ma vương, c̣n nếu dính một hai căn th́ c̣n dẫy dụa được, Ma vương chưa dám nắm cổ lôi đi. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy sự tu quan trọng. Hằng ngày mắt đối sắc, tai đối thanh, mũi đối hương, miệng đối vị, thân đối xúc, ư đối pháp trần không bị dính kẹt, đó là chúng ta giải thoát. Nếu c̣n dính kẹt th́ chúng ta bị Ma vương dẫn đi trầm luân trong lục đạo luân hồi. Như vậy giải thoát là không dính mắc, c̣n dính mắc là không giải thoát. Như chúng tôi vừa kể, h́nh ảnh con khỉ bị dính nhựa nên mất tự do. Nếu không dính th́ được tự do, đó là lục thông. Ngược lại c̣n dính mắc là lục tặc. Tăng Ni tu đừng để cho căn dính với sáu trần th́ chúng ta được tự tại giải thoát. C̣n bị dính nhiễm th́ mất hết tự do, đó là gốc của sự tu. Tôi xin dẫn thêm chuyện của Lục tổ Huệ Năng với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Ngũ tổ đem kinh Kim Cang ra giảng cho Ngài nghe. Kinh Kim Cang có hai câu hỏi của tôn giả Tu Bồ Đề. Câu thứ nhất: "Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm thế nào để hàng phục được tâm ấy? ". Câu hỏi thứ hai: "Người phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, làm thế nào để an trụ được tâm ấy? ". Phần an trụ tâm, Lục tổ nghe giảng tới câu "Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", Ngài liền đại ngộ và thốt to lên: "Đâu ngờ tánh ḿnh xưa nay thanh tịnh, đâu ngờ tánh ḿnh vốn không sanh diệt v. v…". Ngũ tổ biết Ngài đă ngộ nên truyền y bát và Ngài trở thành vị Tổ thứ sáu. Như vậy Phật dạy muốn tâm yên ổn, an trụ th́ không nên sanh tâm dính kẹt nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn không bị dính kẹt sáu trần là an trụ tâm. Có nhiều vị tu hoặc ngồi niệm Phật hoặc tọa thiền nhưng tâm cứ chạy hoài. Chạy theo sáu trần, nhớ người này, nhớ việc kia v. v… nên tâm bị rối loạn. Nếu biết giữ tâm không cho dính với sáu trần th́ tâm an trụ. Mà tâm an trụ th́ tiến đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không khó. Do đó chúng ta mới thấy ư nghĩa của kinh Kim Cang đă khai ngộ cho Lục tổ là vậy. Kế đây, tôi dẫn kinh Lăng Nghiêm. Tôn giả A Nan hỏi Phật: - Bạch Thế Tôn, cái ǵ là căn bản của luân hồi sanh tử, cái ǵ là căn bản của Bồ-đề Niết-bàn? Khi Ngài hỏi câu này đức Phật Thích Ca chưa trả lời th́ mười phương chư Phật ứng thinh đồng nói rằng: - Này A Nan, cội gốc của căn bản phiền năo, luân hồi sanh tử là sáu căn của ông. Cội gốc của Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông. Rơ ràng không riêng ǵ đức Phật Thích Ca nói sáu căn là gốc sanh tử, sáu căn là gốc Bồ-đề Niết-bàn, mà mười phương chư Phật đều "Dị khẩu đồng âm" (khác miệng đồng lời) phát ra lời như thế. Do đó chúng ta tu phải làm sao để chính ḿnh dứt hết luân hồi sanh tử, để đạt được Bồ-đề Niết-bàn. Đó là gốc của sự tu. C̣n nếu chúng ta vẫn bị phiền năo kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sinh tử th́ sự tu đó không có công hiệu. Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ. Muốn cho có công hiệu, không uổng cơm của đàn na tín thí th́ phải biết rơ sáu căn là cội gốc của sanh tử, đừng để cho nó dính, đừng để cho nó nhiễm. Có thế chúng ta mới đúng là người tu cầu giải thoát sanh tử. Sáu căn từ đâu mà ra? Nó sẵn nơi chúng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư ở ngay thân ḿnh chớ có xa đâu. Chỉ cần đừng để dính nhiễm là đă khéo tu. Chớ nếu chúng ta ăn chay khắc khổ, tụng kinh rất nhiều mà ai động tới liền nổi sân, cái ǵ đẹp th́ ưa thích, tu như vậy có kết quả không? Mắt thấy sắc đẹp ḷng mê thích, tai nghe tiếng chê trong bụng bực bội, như vậy là chưa gỡ được các căn dính với các trần. Chưa gỡ được th́ làm sao chúng ta giải thoát sanh tử, cho nên trên đường tu chúng ta phải cố gắng nỗ lực, làm sao gặp cảnh vui, cảnh buồn v. v… chúng ta vẫn tự tại. Đó là giải thoát thật sự. Nếu chỉ có h́nh thức, không giữ được sáu căn của ḿnh th́ khó giải thoát. Ư nghĩa Phật dạy hết sức rơ ràng. Trong nhà Thiền có câu chuyện này. Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch thuộc hệ Quy Ngưỡng. Lúc c̣n đi tham vấn, Ngài đến hỏi Thiền sư Trung Ấp - Hồng Ân: - Bạch Ḥa thượng, thế nào là Phật tánh? Ngài Trung Ấp nói: - Như có một con khỉ bị nhốt trong chuồng có sáu cửa. Bên ngoài có con khỉ tới cửa số một kêu chéo chéo. Rồi đến cửa thứ hai kêu chéo chéo, con khỉ bên trong cũng đứng dậy kêu chéo chéo, cứ như vậy tiếp tục hết sáu cửa. Khi ấy ngài Ngưỡng Sơn thưa rằng: - Nếu con khỉ bên trong nó ngủ th́ sao? Ngài Trung Ấp từ trên ṭa bước xuống nắm đứng nói: - Chúng ta thấy nhau rồi. Qua câu chuyện, chúng ta thấy cái ǵ? Thường người ta cứ tưởng rằng Phật tánh ở đâu xa, khó t́m, khó biết. Nhưng Thiền sư nói con khỉ nhốt trong lồng nghe con khỉ bên ngoài kêu liền đáp lại. Như vậy Ngài ví con khỉ bên ngoài là trần, con khỉ bên trong là căn. Bên ngoài có sắc trần th́ nhăn căn dính, bên ngoài có thanh trần th́ nhĩ căn dính, nghĩa là sáu căn, đụng tới căn nào th́ căn đó dính liền. Nhưng khi ở trong đă yên lặng th́ bên ngoài tới kêu chọc nó vẫn im ĺm, lúc đó Phật tánh hiện tiền chớ không có ǵ khác. V́ vậy nên nói khi con khỉ bên trong ngủ yên th́ bên ngoài dù có kêu mấy nó cũng không cựa quậy, v́ nó không có tiếp xúc nữa. Cũng vậy khi nội tâm của chúng ta yên lặng sáng suốt th́ Phật tánh hiện tiền, không t́m kiếm ở đâu xa. Chúng ta tu v́ muốn thành Phật, tức là giác ngộ. Mà giác ngộ ngay nội tâm ḿnh, nếu chúng ta hằng tri hằng giác không chạy theo sáu trần th́ đó là Phật tánh hiển lộ rồi. Tu như vậy khó hay dễ? Có xa xôi ǵ đâu. Hiểu được ư nghĩa này chúng ta mới thấy chuyện tu hành không phải chuyện xa vời mà rất gần, ở ngay trước mắt chúng ta, ngay bản thân chúng ta. Tuy nhiên lời Phật, Tổ dạy, nghe rất gần nhưng đụng sự thật th́ chúng ta quên mất tiêu. Chỉ như lỗ tai, khi chúng ta đang b́nh tĩnh đang an ổn, nếu có người đến chỉ mặt nói rằng anh hay chị ngu như con ḅ. Lúc đó chúng ta thế nào? Cười hay muốn tát tai người ta? Nghe nói ngu như con ḅ liền nổi tức lên, mà nổi tức th́ muốn cự lộn. Như vậy lỗ tai chúng ta có dính nhựa phiền năo chưa? Nếu dính rồi th́ Ma vương chuẩn bị dẫn chúng ta đi thôi. Lỗ tai dính rồi th́ các căn khác cũng dính theo, như mắt đỏ, tay muốn cựa quậy, các cơ quan đều muốn hoạt động theo cả. V́ vậy chúng ta phải dè dặt khéo tu. Giả sử có người nói chị là con ḅ, điều đó có nhục không? Tôi thấy đâu có ǵ nhục. Nếu ai nói tôi là con ḅ, tôi cười thưa phải, v́ tôi có uống sữa ḅ. Quư vị có uống sữa ḅ không? Thưa có! Có th́ người ta nói ḿnh là con ḅ cũng phải quá, có ǵ đâu lỗi lầm. Có ǵ đâu để giận. Chuyện đó rất b́nh thường. Thân của chúng ta được kết hợp bởi rất nhiều thành phần. Mỗi một thứ vật chất đều giúp cho ḿnh sống c̣n. Nhờ thế, tế bào chúng ta tăng trưởng. Như vậy chúng ta sống được là có phần con ḅ trong đó nữa chớ. Người ta nói ḿnh con ḅ là phải quá rồi. Cớ sao lại giận? Nhưng ở đời có ai lại chịu như vậy đâu. Nghe nói con ḅ th́ nổi giận, la hét rồi đưa tới đánh đập nhau. Chúng ta bị đau khổ là v́ chúng ta không nhận ra lẽ thật ở con người. Như vậy không biết chừng nào hết bị dính mắc, mới giải thoát sanh tử. Thêm một điều nữa, lâu nay Phật tử chúng ta cứ nghĩ rằng ḿnh có cái ǵ buồn, cái ǵ giận, khi giận nói tôi giận người đó quá, khi buồn nói tôi buồn người đó quá. Như vậy quư vị cho rằng cái giận, cái buồn là tôi, là ḿnh. Nếu giận là ḿnh th́ khi hết giận ḿnh mất luôn phải không? Nếu hết giận chúng ta vẫn c̣n nguyên th́ làm sao nói giận là ḿnh được. Như vậy, giận không phải thật ḿnh, buồn không phải thực ḿnh. Đó chỉ là một phần nhỏ trong tâm ta thôi. Nó sinh rồi nó diệt mà chúng ta lại đồng hóa nó với ḿnh. Từ cái mê lầm này nên chịu khổ, cứ nghĩ ḿnh thế này, ḿnh thế kia. Sự thật giận không phải là ḿnh, đó chỉ là phản ứng của tâm sân mà thôi. C̣n cái ta chân thật th́ lúc nào cũng trùm khắp, không phải cái sân đó đâu. Nếu nói sân là ḿnh th́ phải bảo vệ cái sân, nên khi giận ai dù có người khuyên: "Huynh tu hành rồi mà giận làm chi" th́ cũng bảo vệ cái giận của ḿnh: "Tại v́ người đó làm dễ giận quá nên tôi mới giận". Bởi nghĩ thế nên cho cái giận của ḿnh có lư, chấp và giữ cái giận của ḿnh là đúng. Buồn, thương, hờn, ghét cũng như thế. Chúng ta suy nghĩ xem, nếu giận là ḿnh th́ buồn không phải ḿnh, thương không phải ḿnh, ghét không phải ḿnh. Nhưng buồn, thương, giận, ghét, cái nào chúng ta cũng cho là ḿnh cả. Như vậy có mấy chục cái ḿnh, đó là điều sai lầm. Nên biết buồn, thương, giận, ghét là những tâm sở tạm thời dấy động rồi mất. Biết rơ như vậy mới có thể hàng phục nó, thắng nó. C̣n cho nó là ḿnh th́ thôi hết hàng phục, bởi v́ nó chính là ḿnh th́ hàng phục cái ǵ. Đó là nói về nội tâm. Đến phần thân, khi chúng ta bị đau chỗ nào th́ nói tôi đau quá. Nói như vậy là cho đau đó là tôi, nhưng khi hết đau th́ tôi làm sao? Nên biết cái đau chỉ là đau ở một bộ phận trong cơ thể, hoặc chân hoặc bụng đau chớ tôi không có đau. V́ vậy khi thân đau chúng ta vẫn thấy thảnh thơi, không khổ. Nếu đau chân nói tôi đau quá, đau bụng nói tôi đau, đau chỗ nào cũng tôi hết thành ra quằn quại rên la. Thấy chân đau c̣n tôi không đau mới là thấy chân thật. Cái thấy chân thật ấy biết được cái đau, biết được chân đau, biết được bụng đau. Hiểu như vậy th́ trong cuộc sống này chúng ta đă làm chủ được phần nào. Ngược lại, chúng ta cứ đồng hóa giận th́ tôi giận, đau th́ tôi đau…, cứ đồng hóa như thế th́ chúng ta không làm sao điều khiển được chúng, không làm sao đuổi chúng được. Thế nên người tu phải sáng suốt, nhận cho thật kỹ, khi gặp bệnh hoạn mới có thể làm chủ. Ngày xưa khi các vị Thiền sư bị bệnh, có người hỏi: Ḥa thượng bệnh, có cái chẳng bệnh chăng? Các Ngài đáp: Có. Hỏi: Cái ǵ không bệnh? Các Ngài nói: Ui da! Ui da! Cái biết rên đó, cái ấy không bệnh. Như vậy để thấy rằng các Ngài không đồng hóa như chúng ta. Do chúng ta lầm lẫn nên từ đó sanh ra những chướng ngại khác. Tôi dẫn bài kệ của một Thiền sư đời Trần, tức vua Trần Nhân Tông. Lúc Ngài giao ngôi lại cho con lên làm Thái Thượng Hoàng, cố vấn cho nhà vua cai trị đất nước. Thời gian này Ngài làm bài phú "Cư trần lạc đạo", tức bài phú nói ở trong cơi đời mà vui với đạo. Kết thúc bài phú đó có bốn câu thơ chữ Hán như thế này: Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mích Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền. Tạm dịch: Ở đời vui đạo hăy tùy duyên Đói đến th́ ăn mệt ngủ liền Trong nhà có báu thôi t́m kiếm Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền. Tôi giải thích từng câu ở đời vui đạo hăy tùy duyên, người ở trong cuộc đời thế tục mà luôn luôn vui với đạo th́ phải khéo tùy duyên. Khéo là sao? Đói đến th́ ăn mệt ngủ liền, khéo tùy duyên là như thế. Nhưng câu đó nhiều người hiểu lầm lắm. Giới tu sĩ trẻ nghe nói thế thích lắm. Tu khỏe quá, có ǵ nhọc nhằn đâu. Đói ăn, mệt ngủ thật sướng. Có một Thiền sư tu ở trên núi, khi gặp người hỏi Ḥa thượng tu hành thế nào, Ngài đáp "đói ăn, mệt ngủ". Vị cư sĩ ấy nói đói ăn, mệt ngủ th́ dễ quá, tôi cũng đói ăn, mệt ngủ, vậy Ḥa thượng có ǵ hơn tôi đâu? Ngài đáp: Nói đói ăn, mệt ngủ nhưng người đời đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ. Chúng ta có như vậy không? Như hôm nào đi làm về có cơm nóng, canh nóng đàng hoàng th́ ngồi ăn vui. Hôm nào về mệt mà gặp cơm nguội, thức ăn nguội nữa th́ dằn mâm, xán chén một hồi rồi mới ăn. Đó là nói trường hợp nguội lạnh, chưa kể những vị quen ăn ớt, ăn cay. Tới bữa ăn nếu gặp món hơi tanh lại không có ớt th́ sao? Phải chờ kiếm ớt rồi mới ăn. Như vậy đói có chịu ăn đâu? Rồi đến ngủ. Ngài nói người đời mệt mà không chịu ngủ lại suy nghĩ cả trăm việc. Cứ nằm lăn qua lộn lại, nhớ chuyện năm trên, năm dưới hoài không chịu ngủ. Như vậy mệt có chịu ngủ đâu. Đó là người đời đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ. Mà đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ là chưa biết tùy duyên. Tùy duyên là đói đến th́ ăn, mệt đến th́ ngủ, không có suy gẫm ǵ cả. Nếu được tùy duyên th́ ở trong đời mà vui với đạo. Người không khéo tùy duyên sẽ thấy trong đời khó tu quá, chuyện này chuyện kia phiền hà. Người khéo tu thấy không khó, việc ǵ đến th́ tùy duyên, giải quyết liền, không phải bận tâm lo lắng suy gẫm hay sợ sệt ǵ cả. Hai câu ấy mới nghe dễ như trở bàn tay nhưng xét kỹ không phải dễ đâu. Đến câu thứ ba trong nhà có báu thôi t́m kiếm, mỗi người chúng ta đều có sẵn ḥn ngọc quư bên trong, đừng t́m kiếm đâu xa. Thường Phật tử chúng ta có bệnh đi t́m Phật bên ngoài. Giả sử trên núi có ḥn đá nào na ná tượng Phật th́ t́m đến lạy lê mê, hoặc có g̣ mối nào na ná giống h́nh người cũng hô toáng lên là Phật, rồi áp nhau lạy. T́m Phật như thế biết bao giờ mới gặp Phật. Chúng ta tu, đừng bao giờ lệ thuộc những h́nh ảnh hư ảo đó, v́ nó chỉ là sự tưởng tượng. Tôi đă từng đi núi, cũng từng vô những hang động. Trong hang có những cục đá na ná đức Quan Âm th́ người ta cho rằng đức Quan Âm hiện về rồi ráp nhau lạy. Thật ra đó là chỉ do sự tưởng tượng vậy thôi, có thật đâu. Chính ông Phật ngay nơi ḿnh lại không nhớ, không biết. Khi sáu căn không dính sáu trần là Phật tánh hiển lộ rồi. Phật ngay nơi ta lại không chịu t́m, cứ lo t́m trên núi trên non, trong hang trong động nên suốt đời cứ chạy ngược chạy xuôi, rốt lại khổ vẫn hoàn khổ. Bởi v́ chúng ta đă quên mất của báu trong nhà th́ t́m kiếm bên ngoài cách mấy cũng không có được. Đó là một lầm lẫn lớn của hàng Phật tử chúng ta. Câu chót đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền, sáu căn đối với sáu trần không có dính mắc. Không tâm tức là không có các niệm, không suy nghĩ dính mắc. Đó là Thiền rồi. Chúng ta ngồi thiền một giờ, hai giờ thấy đau chân, chớ c̣n tất cả giờ, những ǵ ở ngoài đến đều không dính, không mắc th́ dễ quá. Thấy h́nh sắc không dính h́nh sắc, nghe âm thanh không dính âm thanh v. v… Đó là chúng ta đang tu Thiền, như vậy thảnh thơi biết mấy. Nhưng v́ chúng ta cứ thấy th́ dính, nghe th́ nhiễm nên bắt buộc phải ngồi Thiền, xếp chân ngó xuống cho bớt nghe, bớt thấy, gỡ lần lần như vậy. Nếu được đối cảnh vô tâm th́ khỏi ngồi, ở đâu cũng Thiền hết. Người biết tu th́ mọi việc rất dễ dàng, rất thuận lợi, c̣n không biết tu th́ thấy khổ, thấy khó. Có nhiều vị tu rất đáng thương. Như nghe nói ăn chay là tu nên bắt đầu ăn chay nhưng không đủ phương tiện thành ra xanh xao, khổ sở. Lại nghe người ta quở ăn chay ốm quá, từ đó sanh buồn nhưng không dám bỏ ăn chay, sợ mất công đức. Do ức chế như vậy nên ai nói động tới liền giận, ai chọc tới liền phiền. Cứ giận phiền hoài th́ ăn chay có lợi ích ǵ? Đó chỉ là giỏi ăn chay thôi chớ không giỏi tu. Tu là đừng dính nhiễm, nghe khen chẳng vội mừng, nghe chê không vội giận, thấy đẹp đừng ưa thích, thấy xấu đừng ghét bỏ v. v… Tất cả sáu căn không dính nhiễm sáu trần, đó là tu kỹ, tu đúng. Nếu c̣n dễ dính nhiễm th́ chúng ta tu chưa đúng, chưa kỹ. Nhiều người v́ việc ăn chay của ḿnh nên khi đến nhà ai cầm đôi đũa ngửi hơi tanh liền buông đũa lắc đầu. Đó là c̣n chấp hơn thiên hạ nữa. Đạo Phật không đặt ăn chay là trên hết, như các sư Nguyên thủy đi khất thực, Phật tử cho ǵ nhận nấy chớ đâu có chê khen. C̣n người tu kỹ quá, đũa hơi hôi cũng chê. Đó là những điểm không khéo, chỉ chuộng về h́nh thức, không phải tu ngay trong tâm tánh của ḿnh. Tăng Ni chúng ta được phúc duyên lớn, nên ngày nay biết thức tỉnh vào chùa tu, bỏ hết triền phược của thế gian để cầu giải thoát. V́ vậy cần phải nắm cho vững, hiểu cho thấu đáo lời dạy của Phật, Tổ để ứng dụng vào đời tu của ḿnh, như vậy mới không uổng phí cuộc đời. Ngược lại chúng ta tu để mà tu chớ không biết ǵ hết th́ chỉ uổng một đời, không đi tới đâu cả. Người xuất gia cần phải tu tiến mới có thể dạy cho hàng cư sĩ tu được. Nếu người xuất gia tu không ra ǵ th́ dạy Phật tử tu cũng không ra ǵ. Đó là mối họa lớn. Mong rằng tất cả Tăng Ni hăy ư thức được điều đó, nỗ lực tu hành, đủ tài đức mai kia dẫn dắt Phật tử đi đúng đường. Đó là biết lợi ḿnh, lợi người hay tự giác giác tha, giác hạnh viên măn. Có thế mới xứng đáng dự vào hàng Thích tử của Như Lai. ]
|