[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập I)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


BA ĐIỀU CĂN BẢN
       CỦA NGƯỜI TU PHẬT

 

Hôm nay chúng tôi xin nói đề tài Ba điều căn bản của người tu Phật. V́ chúng ta tu Phật phải biết thế nào là cội gốc, thế nào là ngọn ngành. Ba điều này tôi căn cứ theo kinh Pháp Hoa, nhắc lại cho quư vị nhớ và thực hành.

Trong kinh Pháp Hoa Phật dạy: "Người tu Phật phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi ṭa Như Lai". Chúng ta tu theo Phật th́ phải vào nhà Phật, mặc y Phật và ngồi ṭa của Phật. Như vậy mới trung thành với đức Phật, mới có thể thành công được sở nguyện tu hành của ḿnh.

Vào nhà Như Lai là ǵ? Đức Phật dạy vào nhà Như Lai là thực hành ḷng từ bi. Chúng ta muốn vào nhà Phật phải mở rộng ḷng thương đối với tất cả mọi người. Nếu người tu hành mà không có tâm từ bi th́ không phải là đệ tử của Phật. Cho nên tâm từ bi là bước đầu để đem lợi ích cho chúng sanh. Đó là tâm nguyện của người Phật tử tu theo Phật. Thế th́ thương chúng sanh bằng cách nào và thương những ai? Tôi sẽ lần lượt dẫn cho quư vị thấy.

Thứ nhất, chúng ta thương mến những người thân cùng sống chung quanh với ḿnh. Giới xuất gia th́ những người cùng tu trong một viện, một chùa, huynh đệ phải thương nhau, bảo bọc nhau. V́ sao? V́ tất cả chúng ta cùng một lư tưởng tu hành cầu giải thoát, cầu giác ngộ. Đă đồng một lư tưởng, vô lư chúng ta lại không thương nhau? Thương nhau để mà đùm bọc, thương nhau để mà tha thứ cho nhau, đừng làm phiền lụy, đừng làm khổ đau cho những người chung sống với ḿnh.

Giới cư sĩ tại gia, quư Phật tử phải thương những người trong gia đ́nh, những người thân tộc của ḿnh, những ai chung quanh có công, có nghĩa với ḿnh, chúng ta đều thương, đều mến, đừng bỏ sót người nào, xử sự với tất cả trong t́nh thương yêu kính trọng.

Thứ hai, nếu là giới xuất gia, các vị phải thương mến các vị thí chủ đă bỏ công, bỏ của giúp đỡ chúng ta có phương tiện tu hành. Chúng ta phải nỗ lực tu sao cho đủ phước, đủ đức để độ những vị đó, không thể thọ nhận của thí chủ rồi ăn chơi vui vẻ qua ngày. Như thế là phụ ân của đàn na thí chủ.

Trong kinh Phật thường dạy: Phật tử cúng dường Tam Bảo giống như người nông phu làm ruộng vậy.

Trước hết chúng ta phải lựa những thửa ruộng ph́ nhiêu đất tốt để gieo giống. Cũng vậy, Phật tử cúng dường Tăng Ni cũng phải nghĩ chỗ nào tu hành chân chánh, những vị tiến lên theo con đường Phật chỉ dạy… đó là những vị gánh vác Phật sự đáng quư, đáng kính. Gieo giống những thửa ruộng tốt hết rồi mới tiếp theo những thửa ruộng vừa phải, không tốt lắm và cuối cùng là những thửa ruộng khô cằn.

Như vậy người tu là người tạo phước đức cho chúng sanh, nhận của đàn na thí chủ có nghĩa là chúng ta nhận phần giúp đỡ bằøng vật chất để rồi chúng ta tu, chúng ta sẽ giúp đỡ lại, cứu độ lại phần tinh thần cho Phật tử. Nên chúng ta thương những vị thí chủ. Nếu là Phật tử tại gia th́ phải thương mến những người có công giúp đỡ cho ḿnh sống, có công đem lại sự tốt đẹp, an lành cho ḿnh. Luôn nhớ ơn và đền ơn cho xứng đáng.

Thứ ba, thương tất cả những người c̣n mê lầm. Chúng ta được phúc duyên lớn nên mới xuất gia, bởi v́ xuất gia là đă thức tỉnh, nếu không tỉnh th́ ḿnh cứ đi trên đường đời chớ không trở gót vào chùa đi trên đường giải thoát. C̣n người đời v́ bận bịu thế gian, chuyện gia đ́nh thân quyến nên cứ say mê làm ăn cho có tiền của, không nghĩ tới đạo lư thức tỉnh, nên chúng ta thương xót những người si mê ấy, làm sao đánh thức để họ tỉnh, như vậy mới tṛn bổn phận một người tu. Đức Phật thường dạy người tu phải có đủ tự giác và giác tha. Nếu chỉ tự giác đó là xong phần ḿnh nhưng c̣n phải giác tha nữa, làm sao cho những người chung quanh ḿnh cùng giác ngộ. Như thế mới tṛn bổn phận của một tu sĩ tu Phật.

Với người cư sĩ, quư Phật tử cũng phải có trách nhiệm v́ ḿnh đă biết đạo, đă nếm được mùi vị thâm trầm của Phật pháp, chúng ta cũng phải đem chia xẻ cho huynh đệ ḿnh cùng hưởng, cùng nếm. Đó là tinh thần tự giác, giác tha. Tinh thần thương yêu này không riêng ǵ người xuất gia mà kể cả người tại gia cũng mở ḷng từ bi thương những người mê lầm hơn chúng ta và cố gắng đánh thức họ cùng tỉnh, cùng tiến tu, cùng hết khổ như ḿnh.

Thứ tư, từ bi là thương tất cả chúng sanh từ loài người cho đến loài vật. V́ vậy mùa Vu Lan Phật tử thường mua chim thả để thể hiện ḷng từ bi của ḿnh, nhưng việc làm này nếu không khéo sẽ trở thành ích kỷ. V́ quư vị nhốt chim trong lồng chờ quư thầy tụng kinh cầu nguyện cho ḿnh được an vui hạnh phúc rồi mới thả, trong khi mấy chú chim muốn chết ngộp hết cả. Đó là trái với ḷng từ bi, vô t́nh chúng ta trở thành ích kỷ là vậy.

Khi đă tu hoặc xuất gia, hoặc tại gia chúng ta đều mở ḷng thương v́ người, v́ chúng sanh. Đó mới thật là ḷng từ bi. C̣n t́nh thương ích kỷ gọi là ḷng thương vị ngă.

Đến phần mặc áo Như Lai. Áo Như Lai là ǵ? Phật dạy áo Như Lai là ḷng nhu ḥa nhẫn nhục. Chữ nhẫn nhục này có nhiều người hiểu theo nghĩa tiêu cực, cho rằng nhẫn là nhục. V́ nhẫn nên chịu thua, v́ thua nên nhục. Nghĩ như vậy là sai lầm.

Chữ nhẫn trong đạo Phật nghĩa là có sức chịu đựng, có sức an nhẫn. An nhẫn những điều trái tai, gai mắt, chúng ta không tức giận, không bực bội. An nhẫn được những sự đ̣i hỏi, những nhu cầu thèm khát của thân, chúng ta đều an nhẫn được. An nhẫn được hoàn cảnh khó khăn, thời tiết nóng lạnh bất thường. Nên chữ nhẫn nhục trong nhà Phật nói lên một sức chịu đựng mạnh mẽ phi thường. Như có người chọc giận ḿnh, làm trái ư ḿnh th́ chúng ta mạnh mẽ làm chủ, đừng để cơn sân dấy lên, hiện ra ở miệng, ở tay. Do đó phải có sức chịu đựng cứng cỏi, gan dạ, không thể yếu đuối được.

Kinh Pháp Cú có câu: "Thắng một vạn quân không bằng thắng ḿnh. Thắng ḿnh mới là chiến công oanh liệt". Cơn tức giận dấy lên mà chúng ta thắng được tức là công phu tu hành mạnh mẽ, sức chịu đựng cứng cỏi chớ không phải tầm thường. Như vậy sao gọi là nhục nhă được! Thắng được ḿnh c̣n hơn một ông tướng thắng cả một vạn quân. Người nhẫn nhục thắng được ḿnh th́ đâu phải yếu đuối.

Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta gặp rất nhiều điều bất như ư. Nếu chúng ta không có sức chịu đựng, không có sức kham nhẫn th́ chúng ta sẽ đau khổ liên miên. Ngược lại chúng ta đủ sức kham nhẫn chịu đựng th́ chúng ta sẽ được an vui tự tại. V́ vậy Phật dạy người tu phải tập đức nhẫn nhục. Đức nhẫn nhục đă được đầy đủ gọi là mặc áo Như Lai.

Cho nên người tu không nên có thái độ nóng giận, lúc nào cũng e dè sợ sệt một cơn giận nổi lên. Nó là cái họa lớn, thiêu đốt công đức bao nhiêu năm tu hành khổ cực của ḿnh. Đức Phật dạy "chỉ một đốm lửa sân làm cháy cả rừng công đức". Nếu chúng ta luôn nghĩ tới đạo đức, nghĩ tới công phu của ḿnh th́ phải khéo dè dặt, đừng cho những cơn nóng giận khởi lên.

Nhẫn nhục có chia làm ba.

Một là nhẫn với người. Đối với lời nói trái tai, hành động gai mắt hoặc người mắng chưởi đánh đập mà chúng ta nhẫn được, bỏ qua hết, không buồn giận. Đó là chúng ta nhẫn nhục với người khác. Trong kinh A-hàm có câu chuyện ngài Phú Lâu Na. Khi Ngài xin đức Phật về phương Bắc giáo hóa.

Đức Phật liền hỏi: Này Phú Lâu Na, người phương Bắc hung hăng lắm, nếu ông về đó giáo hóa họ sẽ chưởi mắng ông, ông nghĩ thế nào?

Ngài trả lời: Bạch Thế Tôn, nếu họ chưởi mắng con, con nghĩ họ cũng c̣n lương thiện v́ chưa đánh đập con.

Phật nói: Giả dụ họ đánh đập ông th́ ông nghĩ thế nào?

Ngài thưa: Bạch Thế Tôn, nếu họ đánh đập con, con nghĩ họ cũng c̣n lương thiện v́ chưa giết con chết.

Phật bảo: Nếu họ giết ông chết th́ ông nghĩ thế nào?

Ngài trả lời: Bạch Thế Tôn, nếu họ giết con chết th́ họ là người ơn của con v́ nhờ họ mà con bỏ được cái thân tứ đại hôi thối này.

Phật nói: Được. Như vậy th́ ông nên đến đó giáo hóa.

Quư vị thấy đức nhẫn nhục của Ngài cỡ nào? Trong đại chúng, chúng ta chỉ nhẫn nhục các việc nói nặng, nói nhẹ vớùi nhau thôi, vậy mà có khi chịu không nổi. C̣n Ngài bị chưởi bới, đánh đập cũng nhẫn được cho đến giết chết cũng nhẫn luôn, không thù hằn mà c̣n mang ơn nữa.

Đây là tấm gương cho chúng ta học. Tu là phải như vậy. Đừng nghĩ ḿnh căi giỏi, nói hay là tốt. Càng căi giỏi nói hay, lấn lướt người th́ tội lỗi càng tăng chớ không phải giảm. Đó là phần thứ nhất, nhẫn với người.

Hai là nhẫn với ḿnh. Ḿnh có ǵ đâu mà nhẫn. Thật ra là nhẫn với ḿnh rất khó. Nhẫn với ḿnh là nhẫn sự đau đớn, bệnh hoạn. Có người nào đau bệnh mà không rên không? Đó là cái bệnh. Nên chúng ta tu phải ẩn nhẫn khi cơ thể bệnh hoạn, đau yếu, phải b́nh tĩnh cố gắng hạn chế, đau trăm phần chúng ta chỉ nói đau hai mươi phần thôi. Chớ mỗi lần đau khóc lên, khóc xuống rên rĩ om ṣm cho mọi người chú ư đến ḿnh. Trong đạo như vậy là kẻ yếu đuối chớ không phải hay.

Kế là nhẫn với sự đ̣i hỏi của thân, thèm cái này, muốn cái nọ… những sự thụ hưởng. Như người mới tu chừng một hai năm, đi ngang qua chỗ nướng thịt cá th́ phát thèm. Đó là nhẫn không được nên khởi niệm bậy. Ẩn nhẫn những thứ thèm muốn, những đ̣i hỏi của ḿnh gọi đó là nhẫn với ḿnh.

Như vậy nhẫn nhục là có sức chịu đựng rất mạnh mẽ cứng cỏi chớ không phải chuyện thường. Đối với những ǵ ḿnh ưa thích cũng phải bỏ. Như người xuất gia xem thân này là đăy da hôi thối, vậy mà lâu lâu cũng có người nh́n ḿnh xem đẹp hay không? Rồi sửa sang chút chút cho dễ coi. Thậm chí ngày nay tôi nghe nói cũng có kẻ thoa kem cho da mịn. Việc đó có trái với đạo lư không?

Người tu khi xuất gia, cạo tóc đă tự nguyện hủy h́nh thủ khí tiết. Hủy h́nh là làm cho thân xấu đi. Phụ nữ ngoài đời, người ta sửa sang mái tóc cho đẹp, cho duyên dáng. C̣n người tu đă cạo bỏ phức rồi, bây giờ c̣n muốn thoa môi son hay đánh kem th́ coi hết được! Đó là trái với lẽ thật của ḿnh. Những ǵ ḿnh ưa thích trái với tư cách của người tu, trái với bản nguyện của người xuất gia th́ chúng ta phải ẩn nhẫn, dẹp nó qua một bên, đừng để nó lôi kéo ḿnh. Được như vậy mới là người khéo tu. Nếu không chúng ta sẽ quên đi bản nguyện xuất gia cầu giải thoát ban đầu.

Chẳng những người xuất gia mà hàng cư sĩ tại gia cũng vậy, thấy điều ǵ ḿnh thích mà trái với đạo lư th́ phải giảm, phải hạn chế chớ đừng theo nó. Như vậy là biết nhẫn với ḿnh.

Ba là nhẫn với hoàn cảnh, thời tiết. Sống trong đạo cũng có khi gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn. Trong kinh Phật dạy nơi nào có Phật pháp, dù cho đói rét cũng phải theo thầy tu học. C̣n nơi có gạo dư thừa mà thiếu đạo đức, cũng nên bỏ mà đi. Như vậy những nơi nào có Phật pháp chúng ta ở đó gặp hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, nhiều phiền hà, bực bội cũng phải ráng ẩn nhẫn, v́ Phật pháp, v́ sự tu chớ không v́ sự ăn uống. Người được như vậy là người chiến thắng bản thân ḿnh, chiến thắng được hoàn cảnh. Rồi c̣n phải nhẫn với thời tiết bức bách, chúng ta chịu đựng không than van, vẫn thản nhiên tự tại. Đó là chúng ta biết nhẫn.

Như vậy người tu muốn mặc áo Như Lai phải nhẫn nhục, tức là nhẫn người, nhẫn ḿnh, nhẫn hoàn cảnh thời tiết v. v… Lúc nào cũng chấp nhận khó khăn, không bao giờ chán nản. Người mạnh như thế mới sống đúng với câu Phật dạy: "Thắng một vạn quân không bằng tự thắng ḿnh". Đó gọi là mặc áo Như Lai.

Đến phần ngồi ṭa Như Lai là quán tất cả pháp Không. Chúng ta dùng trí tuệ quán chiếu tất cả các pháp trên thế gian này do nhân duyên hợp thành, không có chủ tể cố định. Luôn dùng trí tuệ quán sát thấu triệt như vậy.

Ví như nh́n một ngôi chùa, chúng ta quán xét xem cái ǵ là chủ ngôi chùa. Trong đó nào là xi măng, cát, đá, ngói, gạch v. v… tụ hội lại. Chúng ta hiện thấy ngôi chùa như vậy nhưng thật ra đó là một hợp thể do nhiều thứ hợp lại, th́ cái ǵ là chủ? Không có chủ, cũng không cố định. Hiểu như vậy th́ từ cái nhà, cái bàn cho tới con người của ḿnh cũng thế, do tứ đại hợp thành nên thân này không thật, cũng không có chủ. Hiểu như vậy là hiểu được lư Không.

Chúng ta quán sát bằng trí tuệ, thấu suốt được sự vật bên ngoài đều do nhân duyên hội hợp, không có thực thể cố định. Do không có thực thể, không cố định nên nói nó không thật. Thấy như vậy là quán pháp Không. Nói quán pháp Không là nói lư nhân duyên. Nhà Phật nói tất cả pháp đều từ nhân duyên sanh, nên trong kinh A-hàm có đoạn đức Phật dạy: "Thấy được lư nhân duyên, tức là thấy được pháp, thấy được pháp tức là thấy được chân lư".

V́ trên thế gian này không có vật ǵ tự nó thành mà phải do nhiều thứ hợp lại. Tôi thường thí dụ, bàn tay của tôi, nếu co năm ngón lại th́ gọi là nắm tay. Nắm tay này thấy dường như có thật mà không phải thật. V́ năm ngón co lại, nếu năm ngón buông ra th́ c̣n ǵ là nắm tay? Do duyên hợp tạm có, duyên tan trở về không.

Tất cả pháp trên thế gian đều do nhân duyên sanh, không có chủ thể nên không thật, không cố định. V́ vậy nói là hư ảo. Trong Trung Quán Luận ngài Long Thọ nói về lư nhân duyên như sau:

Nhân duyên sở sanh pháp

Ngă thuyết tức thị không

Diệc danh vi giả danh

Diệc danh trung đạo nghĩa.

Nghĩa là các pháp do nhân duyên sanh nên Phật nói tức là không. Tại sao? V́ nó không có chủ thể, đâu có ǵ là cố định, duyên hợp th́ có, duyên tan th́ mất, không thật, nên nói là không. Không đây là không có chủ thể, không cố định chớ không phải không ngơ, không có ǵ hết cả.

Khi duyên hợp th́ tạm có giả tướng, nên nói "Diệc danh vi giả danh". Như nắm tay chưa có bao giờ, chỉ khi co năm ngón lại mới có nắm tay, như vậy nắm tay là cái giả danh thôi. Nắm tay giả danh th́ bàn tay có giả danh không? Nắm tay chúng ta dễ thấy c̣n bàn tay hơi khó thấy hơn. Vậy chúng ta hăy phân tích xem, bên ngoài bàn tay th́ có da, trong năm đốt xương ngón tay có thịt, gân, máu. Phân ra từng món có c̣n bàn tay không, có c̣n từng ngón tay nữa không? Như vậy nắm tay không thật, bàn tay hay ngón tay cũng không thật, chỉ là giả danh thôi. Nếu chúng ta chấp giả là thật th́ đó là si mê.

Người tu không cho phép ḿnh si mê mà phải luôn luôn có trí tuệ. Vậy mà lâu lâu, quư cô muốn đeo cái ǵ đó trên tay cho đẹp, th́ sao? Hiện tướng ǵ? Phật tử ngoài thế gian si mê đă đành đi, c̣n người tu mà si mê như vậy th́ không tha thứ được rồi. Đă biết nó không thật, là giả danh th́ c̣n ǵ phải trang sức cho đẹp. Thấy được tướng bên ngoài là giả danh, không phải thật, nên nói " Diệc danh trung đạo nghĩa". Ai thấy được như vậy, biết được như vậy là hiểu nghĩa trung đạo. Nên chữ Không trong nhà Phật không phải không ngơ mà đó là không có thực thể, chỉ là giả danh. Biết rơ như vậy chúng ta không chấp thật không, cũng không chấp thật có. Đó là thấy được lư trung đạo. Lư trung đạo là lư thật.

Qua bài kệ này quư vị thấy rơ, chúng ta tu phải có trí tuệ, phải thấy rơ tất cả các pháp do nhân duyên sanh. Hiểu như vậy th́ hết chấp, mà hết chấp là sáng suốt. V́ vậy người tu Phật phải có trí tuệ. Nhờ trí tuệ nên thấy đúng như thật, không c̣n mê, không c̣n lầm lẫn say mê vật chất thế gian, không chạy theo những ảo tưởng giả dối, có thế mới thật là người học đạo.

V́ người học đạo là người đi t́m chân lư, t́m lẽ thật. Nếu hiểu sâu xa cùng tột đạo lư của Phật th́ đối với thân này được cũng không mừng, mất cũng không buồn, v́ nó tạm bợ giả dối do duyên hợp. Kinh Bát Nhă, Phật dạy: "Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Nghĩa là thấy năm uẩn không thật, duyên hợp hư ảo liền qua hết khổ nạn. Đó là trí tuệ.

Quư vị xét chỉ cần ba điều Phật dạy trong kinh Pháp Hoa, nếu chúng ta biết ứng dụng tu hành th́ đă giải thoát sanh tử chưa? Cho nên chúng ta khéo ứng dụng theo lời Phật dạy th́ chúng ta sớm được an lành, sớm được giải thoát.

Hiện nay Phật tử chúng ta thích tụng kinh Pháp Hoa lắm, nhưng tụng để hiểu như tôi nói hay tụng để tính quyển? Nếu tụng để tính quyển chớ không ứng dụng theo lời Phật dạy th́ đúng là tu Pháp Hoa chưa? Lời Phật dạy như vàng ngọc, nếu chúng ta biết ứng dụng tu hành, ứng dụng vào cuộc đời th́ quư vô kể.

Nhưng đáng tiếc Phật tử không biết đúng, chỉ nghĩ tụïng kinh cho có phước. Nên lúc nào làm ăn sơ thất liền phát nguyện đi chùa tụng kinh Pháp Hoa để cầu phát tài. Như vậy tụng Pháp Hoa để t́m chân lư hay v́ lợi dưỡng. Quư Phật tử tự kiểm lại xem ḿnh ở dạng nào? Thế nên Tăng Ni cũng như tất cả Phật tử chỉ cần chân thành ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống hằng ngày của ḿnh th́ chắc chắn sớm được hết khổ đau trong đời này và giải thoát sanh tử ở những đời sau.

Tóm lại tất cả người tu chúng ta dù xuất gia hay cư sĩ đều phải đủ ba đức tính này, mới gọi là người chân chánh tu Phật. Đó là vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi ṭa Như Lai. Phật tử là con cháu của Phật nên mới dám vào nhà Phật, dám mặc áo Phật, dám ngồi ṭa Phật. Nếu không dám vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi ṭa Phật th́ chừng nào thành Phật tử. Con Phật mà không dám vào nhà Phật th́ c̣n gọi là con Phật không? V́ vậy ai là con Phật, ai là người đệ tử trung thành của Phật phải đủ ba điều kiện trên. Được vậy chúng ta mới kế thừa địa vị của Như Lai, không nghi ngờ.

Đó là điều tôi nhắc nhở tất cả Ni chúng cũng như tất cả Phật tử hôm nay ráng học, ráng tu, làm sao chúng ta tu học đúng với ư nghĩa là người con chân chánh của Phật, người xuất gia chân chánh, đừng để lệch lạc sai lầm uổng một đời, sau này hối hận không kịp.

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]