HOA VÔ ƯU
(Tập II)
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]
PHẬT PHÁP TRỊ TẬN GỐC TÂM BỆNH Thiền viện Trúc Lâm - 2000
Lần này cũng như các lần trước, đoàn bác sĩ lên thăm bệnh cho Tăng Ni của Thiền viện, sau đó có xin tôi một thời pháp ngắn, năm nay cũng như vậy. Kỳ trước tôi nói phương thuốc trị từng tâm bệnh của con người, kỳ này tôi nói phương thuốc trị tận gốc rễ của tâm bệnh. Như trước tôi đă nói, nếu người tham tiền của th́ dùng thuốc bố thí trị; tham sắc đẹp th́ dùng thuốc quán bất tịnh trị v. v… Hôm nay trị tận gốc rễ của tâm bệnh mà chỉ dùng một thang thuốc thôi. Như vậy thang thuốc này hơi khó, v́ từng thứ thuốc trị từng thứ bệnh th́ chúng ta dễ nhận, dễ hiểu, dễ ứng dụng. C̣n chỉ một phương thuốc mà trị tất cả bệnh nên khó sử dụng. Phương thuốc này như thế nào? Quư vị nghe châm ngôn của Thiền tông: Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật. Châm ngôn đó nó ảnh hưởng tới phương thuốc này rất sâu đậm. Trước khi nói đến thuốc, tôi chỉ cho quư vị thấy gốc bệnh phát sinh từ đâu. Như tham sân si th́ có thuốc trị tham sân si. Nhưng tham sân si phát nguồn từ đâu? Tham sân si từ tâm niệm dấy khởi. Thí dụ như thấy một đóa hoa, nếu ta chỉ thấy đóa hoa không thôi, th́ có tham không? Không. Đằng này thấy đóa hoa rồi khởi niệm "Hoa này đẹp hay xấu. " Nếu đẹp th́ chúng ta muốn hái về chưng, hoặc bẻ cầm tay chơi. Muốn hái về chưng hoặc bẻ cầm tay chơi, mà ai ngăn không cho th́ giận. Do thấy đẹp dấy ḷng tham. Dấy ḷng tham không được th́ nổi sân. Như vậy tham, sân phát nguồn từ phân biệt đẹp xấu. Nên ư thức phân biệt đẹp xấu là nhân đưa tới bệnh tham, sân. Như vậy muốn trị tất cả tham sân si, phải trị từ đâu? Từ tâm phân biệt. Thấy hoa chỉ thấy hoa, đừng khởi phân biệt đẹp xấu. Không phân biệt đẹp xấu th́ không có tham, sân. Không tham, sân là không tạo nghiệp. V́ tham, sân là nghiệp sanh tử, nếu hết tham, sân th́ nghiệp sanh tử không c̣n. Đó là nói một thí dụ nhỏ. Ngoài ra tất cả các thứ khác cũng vậy. Cho nên trị bệnh tham, sân là trị ngọn chứ không phải gốc. Khởi tâm phân biệt mới là gốc đưa tới tham, sân. Bây giờ muốn trị gốc bệnh đó, chúng ta phải trị bằng cách nào? Đó là chỗ lâu nay tất cả người tu chúng ta ít lưu tâm. Chỉ thấy tham khổ, sân khổ nên lo dẹp tham, sân v. v… mà chưa phăng t́m tại sao có tham, sân. Lâu nay chúng ta có một lầm lẫn lớn, cho cái phân biệt so sánh là tâm ḿnh. Nếu người không khởi phân biệt so sánh th́ bảo người đó ngu dốt. Nhưng sự thật không phải vậy. Bởi v́ phân biệt, so sánh mang tính cách đối chiếu. Thí dụ chúng ta phân biệt người này đẹp th́ tất nhiên phải lôi h́nh ảnh của người xấu ra đối chiếu. Phân biệt hoa này xấu th́ phải lôi h́nh ảnh hoa kia đẹp để đối chiếu. Chúng ta sống với tâm phân biệt trong hiện tại, lại c̣n đeo mang những h́nh bóng của quá khứ để đối chiếu, và ước mơ trông đợi vào vị lai. Ǵn giữ bóng dáng quá khứ đem đối chiếu với hiện tại, rồi mơ ước vị lai. Như vậy tâm ḿnh đang sống trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng ba thời đó có thật không? Quá khứ đă qua mất rồi, vị lai th́ chưa đến, hiện tại th́ luôn trôi chảy không dừng. Cho nên cả ba thời đều không có thật. Tâm ôm ấp những h́nh ảnh đối chiếu theo ba thời không thật th́ tâm đó có thật không? H́nh ảnh nó chứa đă không thật v́ đó chỉ là bóng, rồi thời gian đối chiếu cũng không thật, th́ bản chất của tâm đó làm sao được. Đă không thật mà ḿnh suy nghĩ nói việc này phải, ai đó nói quấy, ḿnh nổi sân liền. Bởi chấp suy nghĩ là ḿnh, cho nên khi bị phản đối chúng ta có phản ứng ngay. Điều này chúng ta cần phải xét nét thật kỹ, để có một phương pháp biết bệnh, rồi mới nghiên cứu tới thuốc. Biết thuốc biết bệnh th́ trị mới lành. Như chúng ta đă biết bệnh tham, sân, si từ niệm phân biệt, so sánh mà ra. Bây giờ muốn dứt tận gốc tham, sân, si th́ phải dứt các niệm phân biệt so sánh. Chúng ta ngồi thiền để làm ǵ? Để dừng niệm phân biệt so sánh đó. Bởi v́ niệm phân biệt suy nghĩ không phải là ḿnh. Nếu suy nghĩ là thật ḿnh th́ ḿnh là trăm thứ ngàn thứ sao? Tâm niệm suy nghĩ thay đổi như chong chóng, chợt có chợt mất. Có những người trước kia ḿnh không ưa, nhưng sau này họ thay đổi, ḿnh thấy dễ thương. Hoặc những người hồi xưa ḿnh quư, nhưng bây giờ họ thay đổi, ḿnh thấy dễ ghét. Như vậy thương, ghét có thật là chưa? Nếu thật th́ trước sau như một. Đằng này nó đổi thay luôn th́ làm sao thật ḿnh được? Quư vị thấy, có khi trong một ngày, lát th́ ḿnh giận, lát th́ ḿnh thương, đổi thay bất thường. Trong những cái đổi thay đó, cái nào là ḿnh? Thương là ḿnh hay ghét là ḿnh? Giận là ḿnh hay vui là ḿnh? Không có cái thật ḿnh, bởi v́ tất cả đều là bóng dáng đổi thay tùy duyên, tùy cảnh. Cho nên lâu nay chúng ta sống trong sự lầm lẫn hết sức lớn lao. Sự lầm lẫn lớn lao đó chính là vô minh. Từ vô minh sanh ra tham, sân, si đủ thứ hết. Đó là do chấp tâm phân biệt suy nghĩ là ḿnh nên thành bệnh. Muốn trị bệnh này phải dùng thuốc nào? Thay v́ nói thuốc, ở đây tôi dẫn câu chuyện ngài Thần Quang đến học với Tổ Đạt Ma. Khi Tổ đă nhận ngài Thần Quang làm đồ đệ, cho theo học đạo, một hôm ngài Thần Quang bạch Tổ: "Bạch Ḥa thượng, tâm con không an, xin Ḥa thượng dạy cho pháp an tâm". Tâm không an là tâm nào? Là tâm nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ phải, nghĩ quấy… tất cả các thứ lăng xăng tạp loạn. Bởi nhớ nghĩ lăng xăng nên khi ngồi lại thấy không an. V́ nó dẫn ḿnh chạy đủ nơi đủ chốn. Chạy như vậy gọi là bất an. Nên ngài Thần Quang nghĩ phải có một pháp ǵ chận đứng cho nó an lại. Tổ Đạt Ma bảo: "Đem tâm ra ta an cho! " Tâm ở đâu mà đem? Khi nghe hỏi câu nói đó, ngài Thần Quang soi lại, t́m xem tâm ḿnh ở đâu. T́m một hồi thấy mất tăm mất dạng. Ngài thưa: "Con t́m tâm không được". Tổ Đạt Ma bảo: "Ta đă an tâm cho ngươi rồi". Ngay đó ngài Thần Quang đại ngộ, biết được pháp tu. Pháp đó là pháp ǵ? Điểm kỳ đặc chính là không có một pháp. Thí dụ tôi nói bệnh tham dùng pháp bố thí để trị. bệnh sân dùng pháp nhẫn nhục để trị v. v… C̣n tâm bất an này, dùng pháp ǵ? Chỉ quay lại t́m xem cái bất an đó ra sao, nó ở đâu? T́m lại th́ nó mất. Rơ ràng nó hư dối. Ḿnh tưởng tâm ḿnh thật, nhưng khi quay lại t́m th́ nó mất tiêu. Nếu thật th́ t́m lại phải thấy. Nhưng khi t́m lại mất tăm mất dạng, th́ làm sao nói nó thật được. Nên biết chấp tâm là hư dối, là vọng tưởng. Đă là vọng tưởng th́ không phải thật. Lâu nay chúng ta ngỡ nó thật. Từ ngỡ nó thật nên chấp thành ra có tham, sân, si. Bây giờ biết nó không thật, th́ nó tự tan biến. Ngày xưa nó không thật ḿnh ngỡ nó thật, đó là si mê. Bây giờ nó không thật biết nó không thật th́ đâu c̣n si mê nữa. Phản quan nh́n lại tâm không thật đó, thấy rơ nó hư dối, đó là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Tỉnh giác mà không cần dùng một pháp nào cả, nên nói không có pháp đối trị. Chỉ cần nh́n lại tâm lăng xăng đó, biết nó là vọng tưởng không thật, không theo nó, th́ nó đâu có dẫn ḿnh tạo nghiệp tham, sân, si được. Tất cả bệnh đều do tâm không thật đó mà ra. Cho nên khi tu cần phải biết rơ gốc của sự tu. Nếu không, chúng ta sẽ thắc mắc tại sao thầy dạy cái ǵ cũng bỏ, đừng vọng tưởng. Chỉ vậy thôi, đơn giản quá th́ làm sao trị hết bệnh. Không ngờ, chính cái nhận biết tâm dấy động lăng xăng là hư dối, là vọng tưởng lại là gốc của sự tu. Bởi v́ cái nhận biết đó là trí tuệ. Các pháp giả dối, chúng ta lầm theo nó là si mê. C̣n giả dối mà biết giả dối là trí tuệ. Như quư vị ra tiệm bán đồ nữ trang, thấy người ta bày hàng trong tủ kiếng. Hàng nào giả, hàng nào thật, quư vị không phân biệt được th́ đó là quê dốt. Ngược lại, hàng giả hàng thật quư vị đều nhận biết được hết, th́ đó là khôn ngoan. Cũng vậy, tâm vọng tưởng hư dối mà lâu nay ḿnh cho nó thật, đó là si mê. Bây giờ biết vọng tưởng hư dối, không thật, đó là trí tuệ. Nh́n lại từng tâm niệm dấy khởi, chúng ta biết nó là vọng tưởng hư dối, đó là dùng trí tuệ để dẹp si mê. Khi biết nó là vọng tưởng, ḿnh không theo th́ nó c̣n hay lặng mất? Nó lặng mất. Tuy lặng mất nhưng gặp duyên nó sẽ nổi lên nữa. Hoặc lặng mất cái này, cái khác nổi lên. Chúng ta cứ tiếp tục tỉnh giác, không theo nó, dần dần sẽ điều phục hết vọng tưởng. Nhiều Phật tử ngồi thiền thấy vọng tưởng hoài, không yên nên cho rằng ngồi thiền có kết quả ǵ đâu. Không phải vậy. Lục Tổ bảo nếu vọng tưởng dấy khởi, ḿnh biết nó. Biết tức là giác, theo nó tức là mê. Mê theo vọng tưởng là chúng sanh. Giác được vọng tưởng là Phật. Cho nên một trăm chú chúng sinh th́ có một trăm ông Phật chận đón, thua thiệt ǵ đâu. Quư vị thấy ở Thiền viện, Tăng Ni ngồi thiền hơi gục gục là bị ăn gậy liền. Sao tàn nhẫn vậy, người ta ngồi tu mà đánh người ta? Bởi v́ thà ngồi thiền vọng tưởng mà thấy được, ḿnh tranh đấu để đánh thắng nó. C̣n ngủ gục th́ đâu c̣n thấy ǵ nữa mà xung trận. Lúc đó hoàn toàn mù mịt tối tăm. Cho nên nhà thiền gọi ngủ gục là đi vào hang quỷ, tối ṃ không thấy ǵ hết. Tâm dấy niệm ḿnh biết không theo, th́ thấy có sự tranh đấu hơi nhọc nhằn, nhưng có Phật có chúng sanh. Chứ c̣n gục xuống rồi th́ thôi, thua luôn. V́ vậy thiện tri thức phải đánh cho ḿnh tỉnh, đừng để ma ngủ dẫn đi trong hang quỷ. Đó là ư nghĩa của người giám thiền, giúp cho hành giả ngồi thiền được tỉnh. Dù có vọng tưởng cũng đừng sợ, chỉ sợ ḿnh chạy theo nó thôi. Nếu ḿnh biết rơ nó là vọng tưởng, th́ nó tự lặng. Cái khác nhú lên, chúng ta cũng nhận ra vọng tưởng, nó lại lặng. Cứ như vậy th́ có thiệt tḥi ǵ đâu. Cho nên Lục Tổ nói: "Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm". Nghĩa là vọng tưởng khởi lên, dẫn ḿnh đi lâu lơ lâu lắc, ḿnh mới biết "đó là vọng". Như vậy là giác chậm. Nếu vọng tưởng vừa dấy lên, chúng ta chận ngay lúc ấy th́ nó không có tác dụng ǵ hết, ḿnh làm chủ được nó. Tu thiền theo lối dạy của Tổ Đạt Ma y cứ vào pháp nào? Hỏi "Tâm con không an, xin Ḥa thượng dạy pháp an tâm". Nếu Tổ bảo: - Tâm ngươi không an nên dùng quán nhân duyên v. v… Đó là có pháp. Có pháp tức là có giáo lư, có giáo lư tức là có văn tự. Nhưng khi nghe nói "Tâm con không an", Tổ bảo: "Đem tâm ra ta an cho. " Lời này không có trong kinh nào cả. V́ vậy gọi là giáo ngoại biệt truyền tức truyền ngoài giáo lư. Ngoài giáo lư nghĩa là không có trong văn tự kinh điển. Nên nói bất lập văn tự là vậy. Thiền tông là cốt tủy của đạo Phật, nhưng lại không có trong từ ngữ của kinh điển. Bởi v́ Thiền tông chỉ thẳng, nh́n thẳng. Nh́n lại ḿnh, biết rơ vọng tưởng hư dối th́ ngay đó an tâm. Như vậy phương pháp của Tổ dạy là chỉ tận gốc của tâm. Biết được tâm vọng tưởng hư dối rồi, th́ dụng công phu không c̣n sai lầm nữa. Một hôm, ngài Huệ Khả bạch với Tổ Đạt Ma: - Bạch Ḥa thượng, con dứt hết các duyên. Tổ xoay lại bảo: - Coi chừng rơi vào không. Ngài liền nói: - Rơ ràng thường biết, làm sao không được. Ngay đó, Tổ bảo: - Ông như thế. Ta như thế. Chư Phật cũng như thế. Đó là ấn chứng. Ấn chứng tức truyền tâm pháp ấn. Ông như thế, ta như thế, chư Phật cũng như thế, nghĩa là con dấu của ông, của ta, của chư Phật cũng vậy thôi. In xuống giấy trắng th́ dấu nào cũng như nhau, không sai biệt. Đó gọi là truyền tâm pháp ấn. Khi tâm suy nghĩ lăng xăng hết, lúc đó các duyên bặt dứt, không c̣n dính với các cảnh bên ngoài nữa. Tổ Đạt Ma e rằng đến chỗ dứt hết các duyên, ngài Huệ Khả sẽ rơi vào cái rỗng không, nên Tổ gạn lại: "Coi chừng rơi vào không". Ngài Huệ Khả liền nói: "Rơ ràng thường biết, làm sao không được". Tuy chẳng duyên theo bóng dáng các trần, nhưng con rơ ràng thường biết. Biết tức là tâm, tâm đó rơ ràng như vậy làm sao rơi vào không được. Chúng ta nghiệm từ thực tế sẽ thấy, có những lúc ḿnh ngồi chơi, không nghĩ suy ǵ hết, nhưng có tiếng động ḿnh vẫn nghe, có người đi ḿnh vẫn thấy, gió thổi ḿnh biết mát… tức hiện tại ḿnh thấy biết rơ ràng. Biết rơ ràng mà không có nghĩ suy. Cái biết rơ ràng này quư vị có đuổi nó được không? Nó có sanh, có diệt không? Rơ ràng nó không sanh không diệt, mà không mất mát bao giờ. Từ muôn đời chúng ta chấp cái nghĩ suy chợt có chợt không cho là thật. Từ chấp giả cho là thật nên tạo nghiệp luân hồi vô số kiếp. Bây giờ chúng ta biết nó giả, không theo, th́ tâm chân thật hiện tiền. Tâm chân thật này ai cũng có sẵn. Nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Chỉ v́ chúng ta quên, chạy theo vọng tưởng hư giả thành ra đánh mất ông Phật của ḿnh. Bây giờ biết rồi, không chạy theo vọng tưởng nữa, th́ cái tâm chân thật hiện tiền. Tâm chân thật tức là tâm Phật. Như vậy tu cốt đừng lầm giả cho là thật, mà phải nhận chân cái thật sẵn nơi ḿnh từ thuở nào, đó là giác ngộ. Vọng tưởng hư giả lẽ ra dễ bỏ, c̣n tâm chân thật sẵn có xưa nay không thể bỏ được. Vậy mà ta nói bỏ vọng tưởng khó là sao? Tại v́ gốc mê sâu dày quá. Khi chúng ta ngồi thiền được năm mười phút, tâm không dấy động, không có niệm chạy theo cảnh, lúc đó có ḿnh không? Nếu không có ḿnh th́ ai biết không có niệm. Không có niệm, yên tịnh, ḿnh biết rơ ràng th́ cái biết hiện tiền. Cái biết đó không có tướng mạo nên không có sanh diệt. Những ǵ có tướng mạo th́ sanh diệt. Lâu nay, chúng ta bám vào cái sanh diệt cho là tâm ḿnh. Nên Phật dạy phải định là vậy. Định th́ dừng tâm sanh diệt, để cái chân thật hiện tiền. Cái chân thật hiện tiền rồi th́ chúng ta lo ǵ chết bị nghiệp dẫn đi chỗ này chỗ nọ. Bởi v́ thương, ghét, giận, hờn… là nghiệp, mà chúng không c̣n nữa th́ cái ǵ dẫn ḿnh đi trong sanh tử nữa? Như vậy mới thấy gốc của sự tu hết sức rơ ràng. Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Trực chỉ nhân tâm tức là chỉ thẳng tâm chân thật của ḿnh. Tâm là cái biết. Nếu chúng ta duyên theo bóng dáng trần cảnh, đó là tâm hư dối. C̣n cái biết không chạy theo trần cảnh, hằng hữu ở ḿnh, đó là tâm chân thật. Tổ chỉ thẳng nơi tâm ḿnh, biết cái ǵ giả, cái ǵ thật. Biết được cái thật, gọi là kiến tánh. Cái chân thật ấy là nhân thành Phật, nên nói kiến tánh thành Phật. Hiểu được bốn câu châm ngôn tối quan trọng ấy rồi, chúng ta mới nắm được yếu chỉ Thiền tông, không có một pháp. Nếu không chúng ta sẽ nói Thiền tông khó quá. V́ tu theo lối trị từng thứ bệnh th́ dễ đối chiếu, dễ thấy kết quả. C̣n nh́n thẳng từ nhân dấy động ban đầu, dừng nó không cho dấy khởi, th́ lúc đó chưa thành bệnh. Nên chỉ một "cái biết" mà trị tất cả bệnh. Song v́ nhân ban đầu này sâu thẳm bên trong, t́m hơi khó một chút, chúng ta phải khéo mới được. Đó là phăng tận gốc rễ để trị tận căn nguyên. Tổ Huệ Năng khi được pháp ở Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rồi, Ngài mang y bát về phương Nam. Khi đó đám người kỳ thị đuổi theo giật y bát lại. Trong nhóm đó có Thượng tọa Minh, trước khi tu làm tướng nên cỡi ngựa rất giỏi, rượt kịp. Tổ biết người ta đuổi theo giành y bát, nên Ngài để y bát trên bàn thạch, chui vô lùm cây trốn. Thượng tọa Minh nhảy xuống ngựa, ôm y bát lên nhưng ôm không nổi. Chừng đó mới giật ḿnh, th́ ra đây là vật huyền bí, không phải vật thường. Bấy giờ, ông vừa sợ vừa hối lỗi. Tất cả niệm tranh giành ngang đó chấm dứt. Ông liền gọi: "Hành giả, hành giả! Tôi đến đây v́ pháp, chứ không phải v́ y bát". Khi ấy, Lục Tổ ở trong lùm cây chui ra nói: "Nếu ông v́ pháp, th́ ta sẽ nói cho ông. " Rồi bảo: "Ông yên lặng giây lâu, ta sẽ dạy cho" Thượng tọa Minh đứng yên lặng giây lâu. Tổ nói: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh? " Ngay câu đó Thượng tọa Minh liền thấy đạo. Quư vị thấy Lục Tổ hết sức thật thà. Ngài thấy chỗ cứu kính thế nào th́ Ngài nói thế ấy. Thiện, ác tức là hai bên. Thiện ác, thương ghét, phải quấy v. v… đều là hai bên. Niệm đầu vừa dấy lên th́ niệm sau nối tiếp theo nhau. Buông hết hai bên th́ không c̣n niệm, lúc ấy bản lai diện mục hiện tiền. Bản là xưa, lai là nay, diện mục là mặt mắt thật của ḿnh. Hết sức đơn giản. Nói vậy quư vị sẽ có thắc mắc. Người tu cấm không được nghĩ ác, làm ác, chứ tại sao bảo không nghĩ thiện, làm thiện? Không nghĩ thiện, không nghĩ ác tức là không làm lành cũng không làm ác. Như vậy làm sao tu? Quư vị nhớ trong nhà Phật dạy tu có nhiều cấp bậc. Người tu ít, người tu nhiều, người tu b́nh b́nh khác nhau. Tùy theo công phu tu mà sanh trong lục đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a tu la, trời. Trong lục đạo luân hồi có chia ba đường thiện, ba đường ác. Cho nên nghĩ thiện, nghĩ ác đều đi trong luân hồi. Lâu nay người ta quen cho rằng tu là làm việc thiện thôi. Nhưng sự thật tu thiện th́ được sanh cơi lành. Làm người, a tu la hoặc trời là sanh trong ba cơi lành nhưng vẫn c̣n đi trong sanh tử. Nhà Phật gọi đó là tu pháp Nhân thừa, Thiên thừa thôi, chứ không phải pháp giải thoát. Muốn giải thoát sanh tử th́ phải ra khỏi cả thiện lẫn ác. Nhà Phật cũng nói về hai thứ: hữu duyên từ và vô duyên từ. Hữu duyên từ là c̣n có sự phân biệt theo duyên thích hợp mà khởi ḷng từ bi. C̣n vô duyên từ th́ thấy người ta khổ là ḿnh cứu ngay, không phân biệt có duyên hay không có duyên. Thí dụ người không nghĩ thiện không nghĩ ác ǵ cả, thấy đứa bé té liền bế nó dậy, đó thuộc về vô duyên từ. Chúng ta đa số làm việc thiện mà nghĩ suy nhiều quá. "Việc thiện này làm kết quả không? " "Được khen hay bị chê? " v. v… nghĩ đủ thứ. Đức Phật hay các vị Bồ tát luôn luôn làm lành với tâm vô duyên từ, tức là ḷng từ vô duyên. Gặp cảnh th́ làm chứ không có nghĩ suy, không xét duyên cớ. Chúng ta bây giờ thấy người đó nghèo đói, mà họ làm thinh, ḿnh cũng bỏ lơ. Ngược lại, nếu họ năn nỉ "Tôi nghèo đói quá, cô bác giúp đỡ giùm" th́ mới chịu giúp. Giúp như vậy là có duyên, có sự cầu khẩn, c̣n b́nh thường th́ không giúp. Với Phật, với Bồ tát th́ không như vậy. Thấy người ta khổ là giúp, khỏi xin xỏ, khỏi cầu khẩn. Cho nên các Ngài làm lành rồi là thôi. C̣n chúng ta do đợi xin xỏ, nên giúp người rồi mà họ ngó lơ không thèm cám ơn là bực bội liền. Cho nên có duyên từ th́ kèm theo có danh, đ̣i hỏi này nọ. C̣n vô duyên từ không đ̣i hỏi điều kiện ǵ hết. Đó mới cao siêu, quư báu. Đừng cho rằng không nghĩ thiện, không nghĩ ác là xấu. Hiểu vậy như vậy mới thấy gốc của sự tu. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng có đệ tử là Mă Tổ Đạo Nhất rất nổi danh ở Trung Quốc. Một hôm Mă Tổ cùng thị giả là Bá Trượng Hoài Hải ra vườn chơi. Trên đường đi, thấy bầy vịt trời bay trên hư không, Mă Tổ hỏi: - Cái ǵ đó? Hoài Hải thưa: - Bầy vịt trời. Hồi sau Mă Tổ hỏi: - Bay đâu rồi. Ngài Hoài Hải ngó lên thấy bầy vịt trời bay mất, liền trả lời: - Bay mất rồi. Liền bị Mă Tổ nắm lỗ mũi véo một cái thật mạnh, Ngài la thất thanh. Mă Tổ bảo: - Sao không nói bay mất đi? Ngay đó Bá Trượng liền đại ngộ. Mă Tổ dạy cái ǵ mà ngài Bá Trượng ngộ đạo? Đó là những h́nh ảnh kỳ đặc của các Tổ sau này. Véo lỗ mũi người ta đau điếng đến nổi phải la thất thanh, rồi hỏi: "Sao không nói bay mất đi? ". Vậy mà đệ tử liền ngộ. Để thấy rằng ông thầy muốn chỉ cái thật cho học tṛ mà không dùng những ngôn từ b́nh thường, chỉ dùng những thủ thuật đặc biệt. Lâu nay chúng ta có bệnh mắt th́ chạy theo sắc, tai th́ chạy theo tiếng… tất cả sáu căn luôn luôn đuổi theo sáu trần. Nhớ sáu trần mà quên cái gốc nơi sáu căn. Sáu căn có cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm… Có thấy, có nghe, có ngửi, có nếm… là có biết. Cái biết đó không đuổi theo sáu trần, mà luôn hiện hữu nơi ḿnh, có vắng lúc nào đâu. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên, hỏi ngài A Nan: - Thấy không? - Thấy. - Thấy cái ǵ? - Thấy tay Phật đưa lên. Phật để tay xuống rồi hỏi tiếp: - Thấy không? - Không thấy. Phật quở: - Tay đưa lên th́ thấy có tay, tay để xuống th́ thấy không tay, chứ cái thấy đâu có vắng. Sao lại nói lộn xộn vậy. Phật quở v́ ngài A nan lầm cho cái tay là cái thấy, đó là quên ḿnh theo vật. Chúng ta cũng như vậy. V́ quên ḿnh theo vật nên cho vật là ḿnh. Thêm một ví dụ nữa, Phật bảo ngài La Hầu La đánh một tiếng chuông nghe "boong", hỏi A Nan: - Ông nghe không? - Dạ nghe. Tiếng chuông bặt, Phật hỏi: - Ông nghe không? - Dạ không. Phật quở một phen nữa: - Tiếng chuông có th́ nghe có tiếng chuông. Tiếng chuông lặng th́ nghe không có tiếng chuông. Tại sao nói không nghe? Chúng ta có lầm như vậy không? Tất cả chúng ta đều lầm như vậy cả. Nên rồi ḿnh sống trong mê lầm mà không hay. Chính ḿnh đang nghe có tiếng hoặc không tiếng, chứ đâu phải không có cái nghe. Thấy không có cảnh, không có vật, chứ đâu phải không có cái thấy. Rơ ràng chúng ta quên ḿnh theo vật, cứ chạy theo sáu trần. V́ vậy bên ngoài sáu căn đuổi theo sáu trần, rồi đem bóng dáng đó vào chấp chứa, phân biệt trong tâm. Đó là sống với cái giả mà quên cái thật. Cho nên Mă Tổ nắm lỗ mũi Bá Trượng véo một cái đau điếng, hỏi: "Sao không nói bay mất đi" Bay qua th́ chim bay qua, chứ cái thấy chim bay qua có mất lúc nào đâu. Ngài Bá Trượng nhờ thế sực tỉnh, nhớ cái lỗ mũi đau đời đời không quên. Đó là một thủ thuật. Tổ Bá Trượng sau nổi tiếng là nhờ thủ thuật của ông thầy. Chúng ta thấy hai vị trước là Tổ Đạt Ma và Tổ Huệ Năng nói rất hiền lành. Qua tới Mă Tổ th́ bắt đầu kỳ đặc. Dưới Tổ Bá Trượng có ngài Hoàng Bá Hy Vận cũng có thủ thuật rất kỳ đặc. Ngài Lâm Tế trước khi gặp Tổ Hoàng Bá, là một con người rất thâm trầm, cho nên Thủ tọa Minh thấy có tương lai, nên xúi ngài Lâm Tế hỏi Tổ Hoàng Bá: "Thế nào là đại ư Phật pháp? ". Hoàng Bá nghe xong, không trả lời lấy một câu, liền lấy gậy đập cho một gậy. Ngài Lâm Tế bị đập rồi ngẩn ngơ, không biết làm sao hết. Đó là lần thứ nhất. Ít hôm sau Thủ tọa lại bảo: "Thôi lên hỏi nữa đi". Ngài cũng hiền, nghe xúi th́ làm theo, cũng lên hỏi câu đó: "Bạch Ḥa thượng! Thế nào là đại ư Phật pháp? ", liền bị đập một gậy nữa. Đau quá, Ngài không biết nói ǵ nữa, ôm ḷng buồn tủi đi xuống. Ít hôm sau, Thủ tọa lại xúi lên hỏi nữa. Lần thứ ba cũng bị ăn gậy, đau khổ cùng cực Ngài chỉ c̣n có nước khóc thôi. Xuống gặp Thủ tọa hỏi: "Bữa nay thế nào? " Ngài trả lời: "Ba lần hỏi, ba lần đều bị ăn đ̣n, chắc tôi không có duyên ở đây. Thôi tôi xin đi. " Thế là Ngài cuốn gói sửa soạn đi. Ông Thủ tọa nói nhỏ: "Trước khi đi nên đến bạch với Ḥa thượng cầu chỉ dạy. " Nghe lời, Ngài lên thưa: "Bạch Ḥa thượng, con không có duyên ở đây, con xin đi. " Tổ Hoàng Bá bảo: "Ông nên tới chỗ Cao An, hỏi Đại Ngu. Kia sẽ v́ ông mà chỉ cho". Đại Ngu tức là núi Đại Ngu, c̣n tên của Ngài tôi quên mất rồi, chỉ nghe người ta kêu theo tên núi là Đại Ngu. Lâm Tế qua đó gặp ngài Đại Ngu. Đại Ngu hỏi: - Ông từ đâu đến? - Con từ Hoàng Bá đến. - Hoàng Bá đă chỉ dạy ǵ cho ông? - Con ba lần hỏi đại ư Phật pháp, ba lần đều bị ăn đ̣n, không biết con có lỗi hay không lỗi? Ngài Đại Ngu liền chụp lấy vai Lâm Tế nói: - Hoàng Bá đă v́ ông chỉ tột, mà c̣n hỏi có lỗi hay không lỗi? Ngay đó ngài Lâm Tế liền đại ngộ, nói: - Phật pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngài Đại Ngu liền xô ra hỏi: - Mới hồi năy nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít. Ông thấy đạo lư ǵ, nói mau. " Lâm Tế liền thôi cho Đại Ngu một thôi vô hông. Ngài Đại Ngu xô ra bảo: - Thầy ngươi là Hoàng Bá, không phải ta. Quư vị thấy thế nào? Ngài Hoàng Bá, mới nh́n thấy quá tàn nhẫn phải không. Nhưng dưới con mắt của Đại Ngu th́ Ngài quá từ bi. V́ quá từ bi nên mới dồn đệ tử tới chỗ bí hiểm đó. Dồn rồi đưa qua cho Đại Ngu v́ biết ngài Đại Ngu sẽ tháo gỡ được. Cho nên khi nghe ngài Đại Ngu nói: "Hoàng Bá đă v́ ông chỉ tột, mà ông c̣n hỏi có lỗi không lỗi? " th́ Lâm Tế liền đại ngộ. Ngộ như thế tới chết cũng không quên! Bởi v́ ba lần bị đánh đ̣n đau quá, quên sao nổi. Một bên bị véo lỗ mũi, một bên bị đánh đ̣n. Đau quá nên cả hai đều đại ngộ! Chỗ Lục Tổ nói không nghĩ thiện, không nghĩ ác th́ ngài Lâm Tế nói có lỗi không lỗi. Hai lối nói đó có khác nhau không? Khi nào không c̣n chỗ thấy hai bên mới là chỗ chân thật. Ngài Lâm Tế ngộ được chỗ đó rồi, sau này Ngài thường nói với Tăng Ni: "Ta sau khi ăn đ̣n, biết được chỗ chân thật rồi, tới nay không bao giờ quên. " Ngày nay, Phật tử nghe quư thầy nói cũng hiểu vậy, nhưng vài bữa là quên. Tại v́ chưa ăn đ̣n, chưa bị véo lỗ mũi, phải không? Quư thầy ngày nay dễ nên Phật tử cũng dễ quên. C̣n người xưa khó như vậy nên không bao giờ quên. Đó là những thủ thuật đặc biệt của các Thiền sư Trung Hoa. Những phương tiện ấy đều là giáo ngoại biệt truyền. Trong kinh không dạy đánh, không dạy véo lỗ mũi, nhưng quư Ngài làm những việc đó. Như vậy có trái với đạo lư không? Chẳng những không trái mà những thủ thuật ấy c̣n đưa hành giả tới chỗ lư đạo sâu xa hơn, không bao giờ quên. Bởi v́ lâu nay chúng ta quen nghĩ suy rồi. Bây giờ muốn chặn đứng nó lại phải có phương pháp mạnh mới chặn nổi. Nếu không th́ cũng ngồi thiền, cũng ngó xuống, mà cái đầu lăng xăng không chịu yên. Cho nên thói quen đă thành đường ṃn rồi, sửa khó. Muốn cho đường ṃn đó được bít lại, th́ phải có cách khôn ngoan, khéo léo để chặn đứng nó. C̣n nghĩ thiện, c̣n nghĩ ác là c̣n sanh tử. Nghĩ thiện th́ đi đường lành, nghĩ ác th́ đi đường dữ. Người tu chuyển nghiệp là đừng đi đường dữ, mà đi đường lành, đó là tu Nhân thừa và Thiên thừa. Nếu muốn dứt hết không c̣n sanh tử nữa th́ phải làm sao? Tâm không c̣n dính, không c̣n kẹt bên nào th́ mới thoát ly sanh tử. Tại sao? Bởi v́ dấy niệm thiện, ác th́ tạo nghiệp thiện, ác. Trong ba nghiệp, ư là chủ. Ư nghĩ thiện nghĩ ác th́ thân làm thiện làm ác, miệng nói thiện nói ác. Bây giờ ư không nghĩ thiện nghĩ ác, gặp cảnh th́ làm tùy duyên, tâm không khởi niệm. Việc làm đó không có gốc của thiện, ác. Nếu tâm của chúng ta thản nhiên, tự tại, không bị một niệm nào sai khiến th́ nó bao la, trùm khắp. Nên nói tâm bao la trùm khắp khó hiểu, bởi v́ người ta cứ nghĩ tâm ở trong tấm thân nhỏ bé này. Nhưng sự thật, nếu chúng ta nghĩ về người, th́ cái nghĩ đó duyên theo h́nh bóng người, nghĩ về cái chuông th́ duyên theo bóng của cái chuông, nghĩ về đồng hồ th́ duyên theo bóng của đồng hồ… nó có giới hạn. Nếu không nghĩ ǵ hết th́ nó duyên theo bóng nào? Không có bóng. Không có bóng, không có h́nh tướng th́ nó trùm khắp rồi. Vậy mà chúng ta lại bỏ cái rộng lớn bao la ấy, đi bắt lấy những cái nhỏ nhoi, tạm bợ. Cho nên Phật thương chúng sanh là thương ở chỗ mê lầm đó. Chúng sanh bám vào những giả dối, tạm bợ mà hài ḷng, c̣n cái chân thật lại bỏ quên. Trong khi cái chân thật đó không bao giờ mất, nó luôn ở bên ḿnh. Nên nói rằng chúng ta xuống địa ngục th́ Phật tánh cũng xuống địa ngục; nhưng Phật tánh không bị hành, không bị khổ. Rơ ràng Phật tánh không tách rời chúng ta, chỉ tại chúng ta quên thôi. Quư vị nh́n lại chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa xem có giống ḿnh không? Cha là trưởng giả giàu có, của cải vô số mà chàng cùng tử không chịu ở, bỏ đi lang thang. Tới chừng khổ quá, mới thức tỉnh trở về. Thức tỉnh trở về mà cũng không dám nhận cha của ḿnh, của cải sự nghiệp của ḿnh. Dần dần do người cha khéo dùng phương tiện d́u dẫn, chàng cùng tử mới quen và từ từ nhận ra được gia tài và cha ḿnh. Chúng ta cũng vậy, có cái chân thật, thênh thang mà không dám nhận. Chỉ nhận bóng dáng tạm bợ mấy chục năm, tâm lăng xăng lộn xộn luôn luôn thay đổi là ḿnh, bỏ quên cái chân thật. Như vậy có đáng thương không? Chư Phật và Bồ tát, thương là thương cái mê lầm đó của chúng sanh. Cho nên toàn bộ kinh Phật đều nhằm đánh thức cho ḿnh tỉnh, đừng mê lầm nữa. Hết mê lầm là giải thoát sanh tử. Cho nên có trí tuệ giác ngộ rồi mới đi tới giải thoát. Nếu không có trí tuệ, không có giác ngộ th́ không có giải thoát. Đó là lẽ thường. Như vậy chúng ta tu cốt để được giải thoát sanh tử th́ phải đi con đường đó. Nếu chúng ta tu để đời sau sướng hơn đời này, th́ đi con đường Nhân thừa hoặc Thiên thừa như đă nói ở trên. Nhưng đức Phật không thích chúng ta lên cơi trời. Tại sao? Bởi v́ lên cơi trời hưởng sung sướng nhiều quá, tu không được. Đến khi hưởng hết phước rồi th́ rơi xuống trở lại. Thế là uổng công bao nhiêu năm! Chúng ta thường lầm cho nghĩ rằng ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà lầu, đi xe hơi… là hạnh phúc. Nhưng nếu xét kỹ thân này ăn để chi? Cả ngày cứ mượn trả, mượn trả… ít chục năm nó cũng hư hoại. Mượn trả tốt, mượn trả xấu cũng là mượn trả thôi, chứ có ǵ hơn. Đó là nói ở cơi ta bà này chỉ có mấy chục năm thôi. Nếu ở cơi trời th́ tuổi thọ gấp năm mười lần, hai ba mươi lần cơi này. Nhưng lên đó mượn trả đă rồi cũng phải trở xuống. Như vậy có nghĩa lư ǵ. Tốt hơn ở đây có khổ có vui, mau tỉnh. Mau tỉnh th́ dễ tu. Dễ tu mới có thể ra khỏi sanh tử luân hồi sớm. Chúng ta thấy rằng đức Phật nh́n thật tường tận. C̣n chúng ta th́ không như thế. Như vậy ở thế gian, người giàu quá hoặc nghèo quá, dễ tu hay khó tu? Cả hai đều khó cả. Chỉ có hạng người vừa đủ ăn, khổ vui lẫn lộn là dễ tu hơn hết. Khổ quá th́ tối ngày bận bịu với cuộc sống, đâu có rảnh mà nhớ tu. C̣n dư giả quá, giàu có quá th́ tiệc tùng liên miên cũng không rảnh mà tu. Nên nó cả hai trường hợp này đều khó tu. Phật bảo sanh trong tam ác đạo không tu được nên phải tránh. Nhưng cơi trời cũng khó tu, chỉ cơi người là dễ tu. Từ nay, quư vị có than phiền sanh cơi người khổ nữa không? Sanh cơi người là cơ hội tốt để cho ḿnh dễ thức tỉnh. Nếu được lên cơi trời ḿnh cứ hưởng không nghĩ tới tu. Sanh cơi người, chúng ta có đủ cơm ăn là tốt rồi, để thời giờ nghiên cứu, học hỏi, tu hành. Người biết đạo là người không tham cầu sung sướng, chỉ vui trong hoàn cảnh vừa đủ của ḿnh, rồi để dành thời giờ lo tu. Những vui buồn là cơ hội tốt để ḿnh tỉnh, chứ nếu vui hoài th́ không tỉnh. Nên buồn không hẳn là tai họa, nó cũng là duyên để chúng ta thức tỉnh. Nhớ như vậy th́ sự sống của ḿnh an lành. C̣n nếu chúng ta cứ đ̣i hỏi bằng người này, bằng người kia là không biết sống. V́ sống mà cứ mơ ước, trông đợi trong ảo tưởng, không thực tế cho nên khổ. Tất cả các bệnh của chúng ta đều từ tâm niệm so sánh, đối chiếu mà có. Tham, sân, si cũng từ đó. Nếu chúng ta buông liền từ gốc dấy niệm th́ đâu c̣n ǵ để tham, sân, si. Như vậy uống có một thang thuốc mà lành hết tất cả bệnh. Đó là do trị tận gốc vậy. Phương thuốc thật đơn giản, nói đơn giản nhưng lại khó làm. Nếu làm được th́ kết quả rất to, chứ không phải thường. Cho nên đường lối tu thiền này các Tổ sư gọi là Tối Thượng thừa, không theo thứ bậc nào cả. Trị từng bệnh là Nhị thừa. Đến như Bồ tát cũng c̣n trị từng bệnh. Ở đây không trị từng bệnh, mà trị tận gốc. Gốc hết rồi th́ tất cả bệnh theo đó hết. Đây gọi là đi đường thẳng. Cho nên nó đốn giáo, tức thẳng tắt chứ không có quanh co. V́ vậy Tối Thượng thừa cũng gọi là Phật thừa. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật; chứ nó không có quanh co thứ bậc. Các thừa kia theo thứ lớp, dẹp được phiền năo nào th́ chứng được tầng bậc nào tương ứng. Ở đây không dẹp phiền năo, mà dẹp gốc sanh phiền năo. Gốc sanh phiền năo nếu dẹp được th́ thẳng đó thành Phật. Ngay ông Phật sẵn của ḿnh hiện ra. Học Thiền Đốn Ngộ là chỉ thẳng gốc ấy. Nếu gốc đốn được rồi th́ ngọn dễ lắm. Nếu gốc chưa đốn được th́ chặt ngọn này, nó nhảy ra ngọn khác, khó lâu mới hết sạch. Người tu không hiểu, không nắm được pháp tu là tu mù. Nếu biết rơ th́ kết quả tu sẽ đúng như ḿnh mong muốn. Đó là tu trong sáng suốt. Nên quư vị đừng mong rằng ḿnh ngồi thiền, ngày nào đó có hào quang sáng ngời lên chẳng hạn. Những việc ấy không thể cứu được ḿnh. Cứu ḿnh là thấy đúng như thật. Vọng tưởng biết vọng tưởng. Đó là trí tuệ rồi. Trí tuệ này hết sức đơn giản. Chúng ta thường không chịu cái đơn giản, mà đ̣i có hào quang, đ̣i đủ thứ hết. Bởi vậy người tu thiền lạc vào tà đạo cũng tại mong muốn những thứ không thực tế. Cho nên trong kinh, Phật nói rằng: "Ngoại đạo tu có thể chứng được ngũ thông; c̣n ta tu chỉ lấy đạo thông làm gốc. " Đạo thông tức là suốt được lối đi, thấu được đạo lư chân thật. Bởi v́ thần thông không cứu được ḿnh. Hiểu như vậy trên đường tu mới khỏi lầm lẫn. Chư sư Nguyên thủy tu theo Tứ Niệm Xứ v. v… các ngài đi biết dở chân, đứng biết dừng chân, duyên theo từng hành động. Bởi tu duyên theo từng hành động nên lối đi đứng rất nghiêm trang. C̣n lối tu biết vọng, trong các oai nghi thảnh thơi, biết vọng không theo. Chỉ "chăn" cái nghĩ, mà không "chăn" hành động. V́ vậy lối tu này, hành giả sinh hoạt một cách tự nhiên, không kềm gượng. Nhiều Phật tử thuật lại cho tôi nghe, họ ứng dụng lối tu biết vọng, lúc lái xe th́ cứ lái xe, vừa nghĩ bậy liền buông. Do đó khi lái xe cũng vẫn tu được. Làm việc ǵ chuyên tâm vào việc đó, không cho nghĩ cái ǵ khác. Nhờ chuyên tâm nên việc làm rất tốt. Như vậy trường hợp nào cũng tu được hết. Sống trong thời khoa học máy móc này, nếu chúng ta lơ lỏng, ngồi đây mà lo ra, nghĩ chuyện khác th́ sẽ rất nguy hiểm. Như vậy lối tu này, tu mà không thấy ḿnh tu ǵ hết. Ở ngoại quốc ứng dụng lối tu này rất hay, v́ nếu tụng kinh, lễ bái nhiều hàng xóm nghe chuông, nghe mơ người ta phản đối lắm. Chúng ta ngồi thiền im ĺm không có ǵ phiền đến người khác cả, như vậy vừa hay cho ḿnh, vừa hay cho người. Tu ở đâu cũng được, dễ dàng không có ǵ trở ngại. Tóm lại, trên đường tu chúng ta tu thế nào để cho bản thân ḿnh, cuộc sống của ḿnh và cuộc sống xă hội không bị trở ngại, đó là điều cần thiết. Được vậy sự truyền bá của Phật pháp mới đúng với nhịp tiến của thời đại. Nếu chúng ta tu mà không thích hợp với cuộc sống của thời đại, của xă hội mới th́ không được. Quư Phật tử cần phải hiểu cho thấu đáo để ứng dụng tu có kết quả thiết thực. Hôm nay tôi đưa ra thang thuốc này, chúc quư vị được lành tất cả bệnh. ]
|