[Trang chu] [Kinh sach]

HOA VÔ ƯU

(Tập II)

[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


  NÓI CHUYỆN VỀ THIỀN TÔNG TẠI

   ĐẠI HỌC KHOA HỌC XĂ HỘI VÀ NHÂNVĂN

Tp. HỒ CHÍ MINH

 

Hôm nay chúng tôi đủ duyên được vị Khoa trưởng khoa Ngữ văn tại đây, mời nói chuyện với quư vị về đề tài Phật giáo Thiền tông ở Việt Nam. Đề tài này thật ra rất rộng. Nhưng v́ th́ giờ có hạn, chúng ta không thể đi sâu vào chi tiết hết được, nên chúng tôi chỉ nói những nét đại cương của Phật giáo Việt Nam thôi.

Trong đề tài này chúng tôi chia làm năm phần:

1- Nói về Phật giáo.

2- Nói về Thiền tông.

3- Nói về Thiền tông truyền vào Việt Nam.

4- Nói về tông chỉ tu hành của Thiền tông.

5- Nói về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Chúng tôi sẽ đi theo thứ tự từng phần như đă nêu.

1- Nói về Phật giáo

Bởi v́ nói tới Thiền tông là nói tới Phật giáo, cho nên đầu tiên chúng ta phải hiểu Phật giáo là ǵ. Như chúng ta đă biết Phật giáo là giáo pháp do đức Phật Thích Ca sau khi giác ngộ rồi, Ngài giảng dạy lại và được ghi chép thành ba tạng Kinh, Luật, Luận. Gọi chung ba tạng ấy là Phật giáo.

Ở đây chúng ta không đi chi tiết từng phần trong ba tạng đó, mà chỉ nhắm thẳng cốt tủy của Phật giáo thôi. Chúng tôi có thể tạm định nghĩa, cốt tủy của Phật giáo là chỉ dạy cho tất cả mọi chúng sanh đều được giác ngộ và giải thoát. Hoặc chúng ta có thể dùng lối nói khác, Phật giáo là một lối chỉ dạy cho mọi người có đầy đủ trí tuệ và từ bi. Đó là cốt tủy của Phật giáo. Tại sao chúng tôi nói như vậy?

Bởi v́ như trong sử ghi lại, Phật nguyên là một Thái tử rời cung điện đi tu. Khi đi tu trải qua những giai đoạn khổ cầu tầm đạo, cuối cùng Ngài ngồi thiền định dưới cội Bồ-đề, được giác ngộ thành Phật. Như vậy việc thành Phật của Ngài là từ sự giác ngộ, chớ không phải do một công hạnh nào khác. Giác ngộ thành Phật rồi th́ gọi là giải thoát. Nói như vậy sẽ có nhiều vị nghi ngờ, giác ngộ cái ǵ và giải thoát thế nào?

Trước hết nói về giác ngộ. Ở đây chúng tôi tạm giải thích, giác ngộ là nhận thấy lẽ thực của con người và vũ trụ. Hay là thấu triệt được lư nhân duyên sinh của vạn vật trên thế gian này. Tất cả đều không có chủ thể và cố định. Điều này lấy ǵ để minh chứng rơ ràng? Chúng tôi sẽ thứ tự giải thích.

Đọc sử Phật quư vị thấy động cơ thúc đẩy Ngài đi tu không ǵ hơn là nh́n thấy cảnh già, bệnh, chết của con người mà không ai thoát khỏi. Cho nên Ngài nhất định đi tu để t́m ra một lối thoát. Muốn t́m được lối thoát ấy, Ngài đă quyết tâm tu, nhất là Thiền định dưới cội Bồ-đề. Khi công phu Thiền định đă thành tựu, Ngài liền được giác ngộ. Giác ngộ rồi Ngài mới thấy được lẽ thực của con người và thấy được lẽ thực của vũ trụ.

Như vậy giác ngộ thế nào mà thấy được lẽ thực của con người và vũ trụ? Về con người, trong kinh điển Phật nói đến Tam minh, tức Thiên nhăn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh. Từ ba minh này mà Ngài thấy rơ và chỉ rơ cho chúng ta biết được lẽ thực của con người.

Thiên nhăn minh là Ngài thấy một cách tường tận những vật ở trong vũ trụ thật xa và thật nhỏ. Đồng thời Ngài thấy được sự luân chuyển và vậïn hành của chúng sanh ở trong lục đạo luân hồi. Thấy thật xa và thật nhỏ là thấy như thế nào? Như Tăng Ni mỗi khi uống nước, đều có đọc mấy câu kệ: " Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng", tức là Phật nh́n trong một bát nước thấy có tám muôn bốn ngàn vi trùng. Điều đó cho thấy cách đây hai mươi mấy thế kỷ mà Phật đă thấy được vi trùng rồi! Nếu không phải Thiên nhăn minh th́ làm sao thấy được. Bởi v́ lúc đó khoa học chưa phát triển, không có các loại kính hiển vi như bây giờ. Do thấy rơ vi trùng, Ngài mới dạy chư Tăng Ni muốn uống nước, phải lọc cho thật kỹ để không phạm tội sát sanh.

Trong kinh A Hàm kểâ lại, một vị Tỳ-kheo chứng quả A La Hán được Thiên nhăn thông. Khi nh́n thấy vô số vi trùng trong hồ nước, Ngài không uống được nên tới bạch Phật:

- Bạch Thế tôn, con thấy vi trùng nhiều quá, làm sao uống được?

Phật bảo:

- Sao ông không dùng nhục nhăn mà nh́n.

Như vậy do Thiên nhăn mà Phật thấy được vi trùng. Thấy được vi trùng tức là thấy vật hết sức nhỏ. Kế đến, Ngài thấy vô số thế giới giống như thế giới của chúng ta hoặc nhỏ, hoặc bằng, hoặc lớn hơn v. v… Nên chúng ta thường nghe từ "hằng hà sa số thế giới". Phật nói thế giới nhiều như cát sông Hằng ở Ấn Độ. Bây giờ tôi nói gần như sông Đồng Nai thôi, quư vị nghĩ sông Đồng Nai chừng bao nhiêu cát, sông Hằng dài gấp mấy sông Đồng Nai? Vậy mà Phật thấy thế giới trong vũ trụ này nhiều như số cát sông Hằng. Điều đó cách đây hơn hai mươi mấy thế kỷ, ai tin được? Đó là Phật thấy rơ ràng những vật thật xa.

Những điều Ngài thấy đó không ở trong giới hạn nào mà nó vô giới hạn. Khi Ngài đem ra dạy chư Tỳ-kheo cũng như tất cả Phật tử thời đó, Ngài không thể nào nói hết được, mà chỉ nói một phần nhỏ thôi. Nên một hôm nhân đi vào trong rừng, Ngài hốt một nắm lá cây rồi hỏi các thầy Tỳ-kheo:

- Nắm lá cây trong tay ta nhiều hay lá cây trong rừng nhiều?

Các thầy Tỳ-kheo trả lời:

- Nắm lá cây trong tay Thế Tôn rất ít, c̣n lá cây trong rừng nhiều vô số, không thể kể được.

Phật nói:

- Cũng vậy. Cái ta thấy, ta biết đem ra dạy cho các ông giống như lá cây trong bàn tay ta. C̣n cái ta thấy, ta biết mà chưa dạy cho các ông nhiều như lá cây trong rừng.

V́ sao như vậy? V́ chủ trương của Phật nhằm giải quyết vấn đề Ngài thắc mắc ngay ban đầu là vấn đề con người. Tại sao con người sanh ra phải già, phải bệnh rồi chết? Đó là điều Ngài thắc mắc hơn hết, Ngài phải giải quyết cho được. Nên tuy thấy được rất nhiều, nhưng Ngài chỉ xoay quanh trọng tâm con người. Lấy con người làm mục đích giảng dạy.

Khi thấu triệt được lẽ thật rồi, Ngài mới thấy rơ thân phận con người. Tại sao chúng ta có mặt ở đây, nguyên nhân nào lôi cuốn chúng ta trở đi trở lại và làm sao để thoát được nó.

Trong bài kinh Tứ thánh đế, Phật nói rất rơ ràng, luôn luôn có hai mặt nhân và quả của thân này. Trong đó có nhân và quả dẫn đi trong luân hồi lục đạo, nhân và quả do tu tập mà giải thoát được sanh tử. Nếu quư vị chịu khó đọc sẽ thấy rất rơ. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu thôi, chứ không có th́ giờ đi vào chi tiết.

Như vậy do đức Phật xoay lại, chỉ nhắm vào con người, nên bao nhiêu kinh điển của Phật đều nhắc nhở chúng ta tu. Nếu chưa giải thoát sanh tử chúng ta tu nhân ǵ sẽ bớt đau khổ trong đời này và những đời kế tiếp. Tu nhân ǵ để giải thoát sanh, già, bệnh, chết như Ngài đă thấy. Ngài dạy bao nhiêu kinh điển đều nhắm vào việc đó, c̣n những phần chi tiết khác ít được kể đến.

Có nhiều người thắc mắc tại sao đạo Phật nặng về con người, mà không nói rơ những thứ bên ngoài. Phật là bậc Nhất thiết chủng trí, tức trí biết tất cả, mà sao không dạy chúng ta những ǵ hay như khoa học bây giờ phát minh. Ngài lại chỉ xoay quanh vấn đề con người, dạy chúng ta tu, dạy chúng ta làm sao giải thoát sanh tử, mà không dạy những phương tiện sung túc để chúng ta sống ấm no hạnh phúc hơn.

Điều này tôi xin tạm mượn một ví dụ để chỉ cho quư vị thấy. Như có người ở trong gia đ́nh, gạo c̣n hay hết không biết, con cái đi học hay bỏ học không biết… những chuyện trong nhà đều không biết. Nhưng chuyện năm châu bốn bể, ở đâu cũng rành, hỏi chỗ nào nói cũng hay. Rốt cuộc chuyện trong nhà, hũ gạo c̣n hết không biết, cho đến những việc nên hư được mất cũng không biết. Chúng ta nghĩ người đó sống có thực tế không? Biết tất cả việc bên ngoài tưởng như thực tế mà sự thực chuyện trong gia đ́nh không biết, th́ đó là thiếu thực tế. Muốn thực tế th́ trước phải biết chuyện trong nhà, rồi sau mới biết ra ngoài. Người như vậy mới gọi là hiểu biết thực tế chứ.

Trở lại vấn đề con người của đạo Phật. Nếu chúng ta biết tại sao ḿnh có mặt nơi đây, khi chết rồi sẽ ra sao? Nói là ḿnh, là ta; vậy cái ǵ là ḿnh, là ta? Vấn đề đó chắc chúng ta cũng c̣n mơ màng lắm. Bản thân ḿnh, con người ḿnh, chúng ta chưa biết rơ th́ cái biết bên ngoài chưa đúng với giá trị chân thật của nó. V́ giá trị đó là giá trị của con người, nên đức Phật chú trọng về con người. Bởi chú trọng về con người nên khi thấy được lẽ thật của con người, Ngài cứ xoay quanh vấn đề này.

Thí dụ như nói, Ngài giác ngộ là thấu triệt được lư nhân duyên sinh. Từ lư nhân duyên sinh mà có vạn vật trong thế gian. Nhưng Ngài không lấy lư nhân duyên đó để bàn luận rộng cuộc sống vật chất bên ngoài, Ngài lại xoay quanh ở con người. V́ vậy khi thấy được lư nhân duyên rồi, Phật nói rằng tất cả con người hay tất cả các pháp đều vô ngă. Tại sao? V́ sự thật tất cả các pháp không có chủ thể. Không có chủ thể tức là vô ngă. Các pháp cũng không có ǵ cố định hết. Không chủ thể, không cố định nên gọi là vô thường. Vô ngă, vô thường; cái nh́n đó có thích hợp với cái nh́n của khoa học hiện nay không?

Chúng ta không chối căi được muôn sự muôn vật ở thế gian này, không có vật ǵ do một người làm ra, cũng không có vật ǵ nguyên từ một vật thể thành h́nh, hoặc do một đấng thiêng liêng tạo nên. Tất cả đều do các duyên tụ hợp lại mà có. Đă từ các duyên tụ hợp th́ lấy ǵ làm chủ? Ví dụ như pḥng học chúng ta đang ngồi đây, hỏi cái ǵ tạo nên pḥng học, tức trong pḥng học này cái ǵ là chủ thể? Không có cái ǵ là chủ thể cả. Chẳng qua gạch, xi măng, cát, đá, vôi… đủ thứ tụ hợp lại thành pḥng học. Như vậy pḥng học không tự nó thành mà do nhiều điều kiện góp lại. V́ từ nhiều điều kiện góp lại nên nói không có chủ.

Không có chủ tức là vô ngă. Đó là điểm chủ yếu của đạo Phật về thuyết vô ngă.

Nh́n lại con người ḿnh, thử hỏi cái ǵ là chủ thể? Nếu phân tích theo đạo Phật th́, thân này gồm các chất cứng là đất, chất ướt là nước, chất động là gió, ấm là lửa; bốn thứ đó tụ hợp lại thành. Nếu nói theo khoa học do các tế bào tụ thành. Như vậy, trong đó cái ǵ là chủ? Vậy mà chúng ta luôn luôn thấy ḿnh là chủ. Ta là chủ. Nhưng thật buồn cười cho ḿnh. Nói ḿnh là chủ mà tất cả sự sắp xếp trong con người ḿnh, chúng ta có sắp xếp được đâu. Nó làm sao trong đó ḿnh cũng không biết.

Ví dụ khi ăn một món ăn, chúng ta có chỉ định món này chế ra cái ǵ không? Hay là đem vào bao tử th́ cứ đem, rồi tùy ư nó muốn làm sao th́ làm? Có những chất dư thừa mà ḿnh cứ đem vô hoài nên thành bệnh. Có những chất thiếu mà ḿnh không biết để bồi vào, nên cũng thành bệnh. Như vậy chúng ta có biết ǵ về ḿnh đâu? Các tế bào trong đó chống đối với vi trùng bên ngoài, ḿnh có thấy, có chỉ huy được không? Vi trùng tới th́ tự nó kéo nhau tới, trong đó làm ǵ được th́ làm. Chừng nào thua th́ ḿnh đau ốm, run rẩy lên vậy thôi, chứ có biết ǵ đâu.

Vậy mà lúc nào ḿnh cũng vỗ ngực xưng Ta. Ta đây là chủ. Nhưng hỏi chủ cái ǵ? Ta lại hoàn toàn bất lực. Cho nên đạo Phật nói không có chủ thể. Đây là tướng duyên hợp, không có chủ thể và không cố định. Nó nằm trong ṿng biến chuyển không lúc nào dừng. Quư vị thấy hơn hai ngàn năm về trước mà đức Phật đă nhận ra như vậy, so với nền khoa học hiện tại không có ǵ sai chạy cả.

Đó, tôi nói đại cương cho quư vị thấy, chủ yếu của đạo Phật là biết rơ từ sự vật cho đến con người đều do duyên sinh, không có chủ thể nên đức Phật nói vô ngă. Các pháp lại luôn luôn đổi dời, không cố định. Đó là một ḍng biến chuyển nên nói vô thường.

Đó là phần giác ngộ của đức Phật. Bây giờ nói tới phần giải thoát.

Giải thoát thế nào? Nói giải thoát của đạo Phật là nói giải thoát sinh tử luân hồi. Có lắm vị sẽ thắc mắc, đức Phật tám mươi tuổi cũng chết. Vậy nói Phật giải thoát sinh tử th́ không đúng rồi. Nhưng sự thật giải thoát của đạo Phật có chia làm hai phần.

Một, là giải thoát những trói buộc của sáu trần. Ngay nơi chúng ta có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư luôn bị sáu thứ bên ngoài như sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp (pháp trần) chi phối. Tai chúng ta chỉ nghe khi nào có tiếng, mắt chúng ta chỉ thấy khi nào có sắc. C̣n nếu không tiếng, không sắc th́ ḿnh nói không nghe, không thấy. Chính chỗ này tôi xin nói rằng đa số chúng ta quên mất ḿnh một cách đáng thương.

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đưa tay lên và hỏi ngài A Nan: "Ông có thấy không? ". A Nan đáp: "Thưa thấy". Khi đức Phật rút tay lại, hỏi: "Ông có thấy không? " Ngài A Nan thật thà nói "không thấy" nên bị đức Phật quở.

Phật nói:

- Ông đă quên ḿnh theo vật. Ta đưa tay lên là lúc đó thấy có tay. Khi ta rút tay lại là lúc đó thấy không có tay, chớ đâu phải không thấy.

Chúng ta cứ quen thấy tay gọi là thấy, rút tay lại nói không thấy. Như vậy ḿnh đă lầm tay là cái thấy. Cái thấy dù có tay hay không tay ǵ vẫn thấy. Cũng như thế đối với cái nghe. Khi Phật bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông: "Boong". Rồi hỏi: "Ông có nghe không? " A Nan đáp: "Dạ nghe". Khi tiếng chuông dừng lại, Phật hỏi: "Ông có nghe không? ". A Nan đáp: "Dạ không". Phật quở:

- Tiếng chuông có th́ nghe có tiếng chuông. Tiếng chuông lặng th́ nghe không có tiếng chuông, đâu phải không nghe?

Chúng ta cứ nói không có tiếng chuông th́ không nghe. Tất cả quư vị kiểm lại có phải như vậy không?

Đó là chúng ta đă lệ thuộc vào sắc trần, thinh trần. Có sắc trần gọi là có thấy, có thinh trần gọi là có nghe. Như vậy chúng ta không tự chủ chút nào hết. Cả ngày bị trói buộc bởi sáu trần, mà đă bị trói buộc th́ Phật gọi đó là trầm luân. Nó lôi cuốn, nó dẫn dắt, nó làm chủ ḿnh rồi.

Cho nên giải thoát là giải thoát cái ǵ? Là giải thoát sáu trần, nghĩa là sống với sáu trần mà không bị lệ thuộc nó. Làm sao để không lệ thuộc nó? Tôi nói gần nhất như lỗ mũi của chúng ta, nghe mùi thơm th́ thích, c̣n nghe mùi hôi th́ ghét. Tai chúng ta nghe tiếng hay th́ chịu, nghe tiếng dở th́ tránh. Lưỡi cũng vậy, cái ǵ ngon chúng ta thích, cái ǵ dở không ưa. Như vậy cả ngày chúng ta thế nào? Cứ t́m những ǵ vừa ư với cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm v.v... T́m được những thứ đó th́ gọi là thỏa măn, hạnh phúc.

Nhưng nếu chúng ta xét kỹ lại xem cái thỏa măn đó có lâu dài, bền chắc không? Chắc chắn là không. Vậy mà cả đời chúng ta cứ quanh quẩn với nó. Cứ sáng đi làm th́ nghĩ trưa có món ǵ ăn cho ngon miệng, như vậy công làm buổi sáng đó gần hết rồi. Đồng lương t́m được trong ngày chỉ đủ cho một buổi với món ăn ngon miệng. Đến tai, lâu lâu muốn nghe những bản nhạc mà ḿnh ưa thích th́ phải tới pḥng âm nhạc. Như vậy để vừa tai cũng phải tốn hết bao nhiêu tiền. Chúng ta cứ quay cuồng trong mắt, tai, mũi, lưỡi… mà có bao giờ thấy đủ đâu. Như thế hết ngày này, ngày nọ chúng ta già, già rồi chết. Có ǵ là bền lâu, hạnh phúc, tự do đâu?

Chúng ta cứ tưởng thụ hưởng ngũ dục cho thỏa thích là được tự do, nhưng sự thực như thế chính là mất tự do. Có nhiều người trẻ tuổi hay than phiền rằng: Người tu, nhất là tu sĩ trẻ tại sao dại khờ không hưởng dục lạc thế gian rồi đi tu, c̣n trẻ đi tu làm chi? Vào chùa phải ăn chay, ăn lạt, khổ gần chết. C̣n ở ngoài đời người ta ăn thịt ăn cá ngon lành. Điểm này trong kinh nói chẳng qua là sự huân tập thôi.

Nếu quư vị ăn mặn quen mà phải ăn một ngày chay th́ thấy khổ ghê lắm. Ngược lại chúng tôi ăn chay quen từ nhỏ đến lớn, bây giờ bắt ăn mặn th́ chúng tôi cũng khổ như vậy. Ăn chay quen th́ thấy ăn chay là thanh đạm, ăn mặn quen th́ thấy ăn mặn là ngon, vừa miệng. Chẳng qua do sự huân tập của ḿnh thôi. Nếu quen tập những thứ cầu kỳ, tự nhiên nó lôi cuốn ḿnh đi. Cho nên trong nhà Phật nói bị sáu trần trói buộc, làm cho ḿnh không được tự do. Giải thoát ở đây là giải thoát sáu trần.

Có người tới hỏi một Thiền sư ở Trung Hoa:

- Thế nào là giải thoát?

Ngài chỉ trả lời:

- Căn, trần không dính nhau là giải thoát.

Nghĩa là sáu căn không dính với sáu trần là giải thoát. Như vậy giải thoát là thực tế, chớ không phải chuyện xa vời. Ngay trong cuộc sống này mà chúng ta không bị trói buộc bởi sáu trần là chúng ta giải thoát. Đó là cái giải thoát thứ nhất.

Thứ hai là giải thoát luân hồi sinh tử. Luân hồi sinh tử là sao? Nhiều người cứ nghĩ rằng, luân hồi sinh tử là tưởng tượng, chớ không có thực tế. Nhưng thực ra đây là một lẽ thực, chớ không phải tưởng tượng. Bởi v́ với cái nh́n của đức Phật, cuộc sống chúng ta luôn luân lưu chuyển biến, không dừng ở một chặng nào.

Ví dụ như thân này do tứ đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành. Tứ đại này khi hoại th́ nó c̣n hay hết? Khi bị hoại th́ người ta nói là hết. Nhưng lấy một ví dụ khác, như có người đem cái thau múc nước để ngoài nắng hoặc bắc lên bếp đun sôi. Đun sôi từ sáng đến trưa th́ thau nước đó khô. Thấy khô ai cũng nói nước hết rồi, nhưng sự thật nước có hết không? Đâu có hết, chẳng qua từ thể lỏng nó biến thành thể hơi. Thể hơi bay lên gặp lạnh th́ rơi xuống thành thể lỏng trở lại. Cứ như vậy mà lưu chuyển, đảo lên lộn xuống. Nếu để ở nhiệt độ trung b́nh th́ nước giữ nguyên thể lỏng, không bay lên cũng không đông lại. Đó là phần thuộc về tứ đại tức vật chất, luôn luân chuyển. C̣n tinh thần th́ sao, nó cũng luôn luân chuyển.

Phật nói chúng ta có thể tiến lên, có thể lùi xuống và có thể y nguyên, không tiến không lùi, tùy theo sự huân tập của mỗi người. Đức Phật giải thích cho chúng ta biết nguyên nhân nào đưa chúng ta tiến lên, nguyên nhân nào đẩy chúng ta lùi xuống, nguyên nhân nào khiến cho chúng ta vẫn giữ nguyên con người, không tiến không lùi. Đó là do sự luân chuyển về mặt tinh thần, hay nói khác đi là sự chuyển đổi nghiệp lực của ḿnh tùy theo công phu tu tập hay tạo nghiệp của mỗi người.

Tóm lại, giác ngộ trong nhà Phật là thấy rơ lẽ thực của con người và muôn pháp. Tất cả đều vô ngă, vô thường, không có chủ thể và không cố định. Hiểu điều này rồi chúng ta có thể hiểu qua cương yếu của Phật giáo.

Trong phạm vi bài này tôi chỉ đưa ra những nét cơ bản như vậy thôi, phần chi tiết sẽ hẹn ở một dịp khác.

2- Nói về Thiền tông

Có một ít người nghiên cứu đạo Phật cho rằng Thiền tông là quái thai của Phật giáo. Đó là v́ họ không hiểu đến nơi đến chốn về Thiền tông. Sự thực Thiền tông chính là cốt tủy của đạo Phật, chớ không phải tầm thường. Ở đây chúng tôi sẽ giải thích cho quư vị hiểu rơ.

Trước hết tôi nói về danh tự, tức tên của Thiền tông. Thiền tông, có chỗ gọi là Tổ sư Thiền. Tại sao gọi là Tổ sư Thiền? Bởi v́ trong đạo Phật có hai lối Thiền.

Khi đức Phật c̣n tại thế, Ngài dạy phương pháp tu Thiền có tính cách phổ thông, dùng chung cho người xuất lẫn tại gia, gọi là Như Lai Thiền. C̣n lối tu Thiền chỉ dành cho một số người tu như Tổ Ca Diếp chẳng hạn, đó là Tổ sư Thiền. Người đạt được yếu chỉ ấy gọi là Tổ. Như vậy nói Tổ sư Thiền là để giản biệt với Như Lai Thiền. Thiền tông cũng gọi là Như Lai tự tánh thanh tịnh Thiền. Tại sao gọi là Như Lai tự tánh thanh tịnh Thiền? Bởi v́ Như Lai tức là Phật; tự tánh tự là ḿnh, tánh là bản tánh bản tánh của ḿnh hằng giác, hằng sáng, gọi đó là Như Lai. Trở về sống với bản tánh hằng giác, hằng thanh tịnh của ḿnh th́ gọi là Như Lai tự tánh thanh tịnh Thiền. Đó là phần tên của Thiền tông.

Tổ sư Thiền này phát nguồn từ đâu. Điểm

này, tôi chỉ nêu đại cương. Trong nhà thiền nói Tổ đầu tiên là Tổ Ca Diếp, người Ấn Độ, sinh đồng thời với đức Phật. Tổ thứ hai là ngài A Nan… cho tới Tổ thứ hai mươi tám là ngài Bồ-đề Đạt Ma. Tổ Bồ-đề Đạt Ma truyền Thiền sang Trung Hoa và trở thành Sơ Tổ xứ này. Tới Tổ thứ ba mươi ba là Ngài Huệ Năng tức Lục Tổ của Trung Hoa. Sau này, chính hệ Thiền của ngài Huệ Năng truyền lần sang Việt Nam. Đó là chúng tôi lược nêu đại cương.

Có một vài học giả nghi hệ thống ba mươi ba vị Tổ ở Ấn Độ và Trung Hoa là một lối khéo sắp xếp của ngài Thần Hội, tức đệ tử ưu tú của Tổ Huệ Năng. Điều đó mới nghe tưởng như đúng nhưng sự thực không phải vậy. Khi đọc quyển Ma ha Chỉ Quán của Đại sư Trí Khải, chúng tôi thấy ngài Trí Khải đă kể về hai mươi tám vị tổ Ấn Độ rồi. Mà ngài Trí Khải sinh năm 538, tịch năm 597 Tây lịch, trước ngài Thần Hội trên trăm năm. Như vậy để quư vị thấy rằng, hệ thống chư Tổ trong nhà Thiền không phải do ngài Thần Hội tự dựng lên mà nó đă có từ trước rồi.

Về tông chỉ của Thiền tông th́ trong nhà Thiền thường dùng bốn câu của Tổ Bồ-đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa, làm châm ngôn của người tu Thiền:

Bất lập văn tự

Giáo ngoại biệt truyền

Trực chỉ nhân tâm

Kiến tánh thành Phật.

Nghe như vậy quư vị lấy làm lạ, Thiền tông không lập văn tự, truyền ngoài giáo lư của Phật, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Đă không lập văn tự, truyền ngoài giáo lư mà Tổ Đạt Ma lại bảo ngài Huệ Khả:

- Ngươi nên lấy bốn quyển kinh Lăng Già làm chỗ ấn tâm.

Đến Tổ thứ sáu là ngài Huệ Năng, lại được Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang mà ngộ. Như vậy rơ ràng có văn tự mà nói bất lập văn tự. Lại nữa, trong Đại tạng kinh Trung Hoa, sách Thiền chiếm nhiều hơn tất cả sách của các Tông khác. Nói không lập mà sao nhiều sách quá? Như vậy có mâu thuẫn không? Tôi sẽ giải thích điểm này.

Chủ trương nhà Thiền là chủ trương phá chấp, không cho ḿnh kẹt vào một cái ǵ. Nhưng chúng ta thường nghe học giả thời xưa từng nói "Văn dĩ tải Đạo". Văn dùng để chở Đạo. Như vậy văn để chở đạo chớ không phải văn là đạo. Ví như chúng ta có chiếc xe chở gạo th́ gạo đó không phải là chiếc xe, chiếc xe cũng không phải là gạo. Nhưng nhờ chiếc xe mới chở được gạo. Văn cũng vậy, văn không phải là đạo nhưng nhờ văn mà chở được đạo. Do đó nếu chúng ta cứ phân tích văn để thấy đạo th́ thấy được không? Chắc chắn là không, mà phải nương theo văn để đạt đạo, thấy được đạo. Lại, chúng ta cũng thường nghe "Ư tại ngôn ngoại". Nghĩa là ư luôn luôn ở ngoài lời nói, chớ không phải trong lời nói. Nhiều khi lời nói ở đây mà ư ở chỗ khác. Cho nên nói ư tại ngôn ngoại. Hoặc nói "đắc ư vong ngôn", nghĩa là được ư quên lời. Phải nắm được ư, chớ đừng chấp lời nói mà hiểu sai ư.

Kinh Lăng Nghiêm hay kinh Viên Giác đều nói câu " Tu-đa-la như tiêu nguyệt chỉ", tức là kinh Phật như ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu chúng ta biết ngón tay là phương tiện th́ nương ngón tay để thấy mặt trăng. Mặt trăng ở ngoài ngón tay chớ không phải mặt trăng là ngón tay. Người nào cứ nh́n ngón tay cho là mặt trăng th́ lầm. Cũng vậy, chúng ta cứ ôm ấp chữ nghĩa trong kinh, cho đó là đạo, cho đó là Phật th́ lầm. Phải nương theo kinh để thấy cái xa hơn nữa. Đó mới là mục đích chính đức Phật muốn nhắm đến.

Lục Tổ Huệ Năng nghe Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn giảng kinh Kim Cang, trong đó chủ yếu là hai câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề. Câu hỏi thứ nhất "Làm sao hàng phục được tâm? ". Câu thứ hai "Làm sao an trụ được tâm? ". Khi đức Phật giải thích về an trụ tâm, Ngài nói "bất ưng trụ sắc sinh tâm, bất ưng trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Nghĩa là không nên trụ (trụ là dính mắc) nơi sắc mà sanh tâm Bồ-đề; không nên trụ, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm Bồ-đề; nên không có chỗ trụ mà sanh tâm Bồ-đề. Đến đây, Lục Tổ bất giác thốt lên: "Đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tánh ḿnh vốn không sanh diệt, đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự đầy đủ, đâu ngờ tánh ḿnh vốn không dao động, đâu ngờ tánh ḿnh hay sanh muôn pháp". Như vậy là Ngài không dừng ở chỗ không dính với sáu trần, mà Ngài c̣n thấy xa hơn nữa.

Thế nên biết văn tự chỉ là phương tiện chớ không phải cứu kính, nhưng chúng ta thường hay mắc kẹt ở văn tự. Tổ Đạt Ma v́ không muốn chúng ta mắc kẹt như thế, nên Ngài nói bất lập văn tự. Tuy bất lập văn tự nhưng sao trong nhà Thiền có rất nhiều ngữ lục. Sở dĩ nói bất lập là để phá chấp, nhiều người không hiểu rồi cứ chấp vào cái bất lập đó, gặp nhau cứ im re không nói ǵ hết, mà chấp th́ vẫn cứ chấp. Đó là sai lầm lớn.

Thứ nữa là giáo ngoại biệt truyền, tức là truyền ngoài giáo lư. Như trên tôi đă nói, giáo lư của Phật là ngón tay chỉ mặt trăng. Muốn thấy mặt trăng là phải thấu ngoài giáo lư, c̣n chấp ngón tay là mặt trăng th́ sẽ thấy sai lầm. Trong nhà Phật có lắm người cứ tụng hết bài kinh này đến bài kinh nọ, cho đó là tu, là giác ngộ giải thoát. Đó là chấp cái ǵ? Chấp ngón tay cho là mặt trăng. Giáo ngoại biệt truyền là vậy, không phải nói giáo ngoại biệt truyền là không dính dáng ǵ đến giáo lư của Phật hết. Đó là chấp sai lầm.

Cuối cùng lập trường của Thiền tông là trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Tức chỉ thẳng tâm người, thấy được tánh ḿnh th́ thành Phật. Nhận ra bản tánh rồi th́ thành Phật, tức tự tánh thanh tịnh Thiền như đă nói ở trên. Như vậy chữ thành Phật ở đây không có ǵ lạ hơn là được giác ngộ. Giác ngộ cái ǵ? Giác ngộ được cái chân thật sẵn có ở con người ḿnh. Nhận ra được cái thực đó th́ không c̣n lệ thuộc vào hai tướng vô ngă và vô thường. Tức là vượt thoáùt ra ngoài vô ngă và vô thường. V́ vậy mà gọi là Phật, là giải thoát.

Cho nên chủ yếu tu tập của Thiền tông là kiến tánh, nghĩa là biết rơ cái giả và nhận chân được cái thật ngay nơi con người chúng ta. Ngay nơi con người chúng ta cái nào giả ḿnh biết giả, cái nào thực ḿnh biết thực. Nhận được như vậy gọi là giác ngộ.

Trong nhà Phật nói những ǵ không có chủ thể, không cố định đều là giả. Chữ giả đây đừng hiểu là không có, không ngơ. Nó có tạm thời, rồi mất. Cái ǵ có tạm thời rồi mất th́ gọi là giả. Như xét về thân này, chúng ta đều biết thân là tướng duyên hợp, tướng duyên hợp th́ không có ǵ bảo đảm bền chắc. Nên chúng ta sống ngày nay th́ biết ngày nay, không ai bảo đảm ḿnh sống đến ngày nào, tháng nào hết. Bởi v́ cái chết nó đến bất kỳ lúc nào. Mạng sống chúng ta không bảo đảm th́ đâu có thật. Không thật nên nhà Phật gọi là giả. Giả là tạm, nó tuy hiện hữu nhưng không bền không lâu, chứ không phải không ngơ.

Thân đă giả, đến tâm th́ sao? Đa số quư vị cho rằng tâm ḿnh là sự hiểu biết, phân biệt. Thật ra trong đạo Phật định nghĩa chữ tâm đơn giản lắm, tâm là cái biết. Nhưng cái biết đó có nhiều loại, nhiều thứ. Như quư vị cho rằng kiến thức hay những suy tư của ḿnh là tâm. Nhưng Phật không chấp nhận như thế. Tại sao?

Bởi v́ kiến thức của ḿnh là do sự huân tập mà được. Hồi nhỏ năm mười tuổi chúng ta đâu có kiến thức, phải không? Lớn lên chúng ta do học và huân tập nên có hiểu biết. Ai huân tập ngành nào th́ giỏi ngành đó, c̣n người không có phương tiện huân tập th́ gọi là dốt. Như vậy kiến thức là sự vay mượn từ bên ngoài, do người khác trao cho. Ḿnh mượn, ḿnh nhặt của người khác th́ nói của ḿnh sao được. Nếu nói kiến thức đó của ḿnh th́ người máy có bộ nhớ do người ta cài vào là của ai? Chẳng qua do bên ngoài nhồi vào th́ nó nhớ, nhớ rồi thành thói quen. Cái ǵ thực của ḿnh th́ không phải do bên ngoài đem đến. Nếu bên ngoài đem đến th́ không phải của ḿnh. Cho nên trong nhà Thiền có câu nói: "Nếu từ ngoài vào th́ không phải của báu trong nhà".

Nếu chúng ta cho rằng cái suy nghĩ là tâm của ḿnh, th́ lúc ngưng suy nghĩ, ḿnh có tâm không? Chẳng lẽ khi đó ḿnh như cây như gỗ. Khi suy nghĩ th́ có ḿnh, khi không suy nghĩ cũng vẫn có ḿnh. Như vậy ḿnh không phải là cái suy nghĩ. Nếu nói suy nghĩ là ḿnh th́ khi t́m lại nó, nó có không? Nó mất. Như vậy nó chỉ là bóng, có đó rồi mất đó, không thật.

Lại nữa, cái suy nghĩ của ḿnh là đối tượng bị ḿnh biết chớ không phải thật ḿnh. Bây giờ tôi xin hỏi, khi quư vị suy nghĩ, quư vị có biết ḿnh đang suy nghĩ không? Nếu có người hỏi: "Anh đang làm ǵ? " Đáp: "Tôi đang suy nghĩ vấn đề này". Rồi lúc không suy nghĩ ǵ hết, quư vị có biết ḿnh không suy nghĩ không? Vẫn biết. Vậy th́ biết ḿnh có suy nghĩ, biết ḿnh không suy nghĩ, cái biết đó lúc nào cũng có. Nhưng nó không phải là cái suy nghĩ.

Lâu nay chúng ta lầm nhận cái suy nghĩ là ḿnh. Cái suy nghĩ đó trong nhà Phật thường gọi là tâm vọng tưởng, nó luôn luôn chuyển biến, không dừng. C̣n tâm chân thật chúng ta lại không biết. V́ không biết, không nhận ra tâm chân thật nên chúng ta quên lăng nó, thành ra có cũng như không. Do đó nhà Thiền cốt làm sao chỉ cho chúng ta biết ngay nơi thân giả dối này có cái chân thật. Cái chân thật đó, nhà Thiền gọi là bản lai diện mục, trong kinh th́ gọi là Phật tánh, là chân tâm. Bản lai diện mục là ǵ? Bản là xưa, lai là nay, tức là mặt mắt sẵn có của ḿnh từ xưa đến nay. Bộ mặt ấy đă có từ thuở nào, nên gọi là bản lai diện mục.

Như vậy trong nhà Phật chia ra hai loại tâm, chơn tâm và vọng tâm. Chơn tâm là tâm hằng biết, hằng sáng, không có sanh diệt. Vọng tâm là tâm phân biệt sinh diệt. Lâu nay chúng ta chỉ nhận tâm sinh diệt cho đó là tâm ḿnh, c̣n tâm hằng biết kia chúng ta lại quên mất. Quư vị sẽ thắc mắc tâm hằng biết đó như thế nào, ở đâu, hiện giờ ḿnh có hay không? Tôi xin đơn cử một ít câu chuyện nho nhỏ để chỉ cho quư vị thấy.

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật có nói với ngài A Nan tánh thấy lúc nào cũng có. Khi ngủ cũng có thấy, cho tới con mắt mù cũng thấy nữa. Ngài A Nan ngạc nhiên quá! Con mắt mù làm ǵ thấy?

Khi ngủ quư vị có thấy không? Chúng ta cứ cho rằng khi ngủ không thấy, nhưng thật ra nếu chúng ta đang ngủ, có ai mở đèn th́ ḿnh thấy sáng liền, nên mới giật ḿnh thức dậy. Như vậy cái thấy luôn hiện hữu, nhưng v́ đóng kín cửa mắt cho nên thấy mờ. Cũng vậy, khi ngủ tai chúng ta có nghe không? Nếu không nghe th́ những tiếng động, tiếng đồng hồ reo chúng ta đâu có nghe. Do nghe nên mới thức dậy. Như vậy kể cả khi ngủ, khi thức cũng vẫn có tánh thấy, tánh nghe.

Nhưng nói người mù mà thấy th́ lạ quá. Trong kinh Phật nói người mù cũng thấy, ngài A Nan không chấp nhận. Phật bảo:

- Ông ra đường hỏi mấy người mù, xem trước mắt họ thấy cái ǵ?

Ngài A Nan nói:

- Nếu con hỏi th́ họ nói, trước mắt thấy tối đen.

Phật nói:

- Người mù trước mắt thấy tối đen. Với người sáng mắt, ban đêm vào pḥng tối cũng thấy trước mắt tối đen. Hai cái thấy đó có khác nhau không?

Người mù thấy tối đen và người sáng mắt khi không có ánh sáng hay ánh đèn, họ cũng thấy tối đen. Người mù thấy tối đen th́ nói không thấy, c̣n người sáng mắt thấy tối đen th́ nói thấy tối đen. Sao lạ vậy? Cả hai đều thấy tối đen, mà một bên nói thấy, một bên nói không thấy. Thấy tối đen là thấy rồi, đâu phải không thấy.

Nơi chúng ta đă có thấy tức là có biết, có nghe tức là có biết. Cái hằng biết đó không bị biến động mà chúng ta quên, chúng ta chỉ biết được cái luôn luôn biến động. Khi quư vị suy nghĩ, đó là một ḍng biến động. Nếu chúng ta hằng thấy, hằng biết mà không nghĩ ǵ hết, đó mới là không biến động. Có thấy, có biết tức là có tâm. Tâm đó không động.

Cho nên trong nhà Thiền có những câu chuyện mới nghe qua, quư vị cảm thấy như ngớ ngẩn, vô lư. Như có người đệ tử của ngài Nam Tuyền - Phổ Nguyện ở Trung Hoa, tức là Lục Hoàn Đại Phu. Ông đặt câu hỏi:

- Có người nuôi con ngỗng trong một cái b́nh, ở dưới rộng, ở trên hẹp. Khi nó lớn lên đầy kín cái b́nh. Bây giờ làm sao đem con ngỗng ra mà đừng đập bể cái b́nh?

Quư vị có cách nào đem ra được không? Khi đó ngài Nam Tuyền trả lời một cách lạ lùng, Ngài kêu:

- Hoàn đại công!

- Dạ.

- Ra rồi!

Quư vị thấy ra chưa? Đó là thủ thuật tiếp người của nhà Thiền.

Một chuyện nữa. Tướng quốc Bùi Hưu t́m đến ngài Hoàng Bá, tức thầy Tổ Lâm Tế. Ông đi quanh chùa thấy tượng các vị Thánh tăng, liền hỏi thầy Trụ tŕ:

- Tượng ở đây mà Thánh tăng ở đâu?

Thầy Trụ tŕ trả lời không được. Ông hỏi ở đây có Thiền sư không, xin mời trả lời dùm. Thầy Trụ tŕ mời ngài Hoàng Bá lên, Bùi Hưu hỏi lại:

- Vừa rồi tôi có hỏi thầy Trụ tŕ một câu mà Ngài tiếc lời không nói. Hỏi rằng, tượng Thánh tăng ở đây mà Thánh tăng ở đâu?

Ngài Hoàng Bá liền kêu:

- Bùi Hưu!

- Dạ!

Ngài nói:

- Ở đâu?

Nghe xong Bùi Hưu đại ngộ, thấy được Thánh tăng.

Những thủ thuật trong nhà Thiền như vậy đó. Mới nghe qua dường như không ǵ dính dáng hết, nhưng kỳ thực là chỉ chỗ tột cùng. Ai nhận được th́ nhận, không nhận được th́ thôi, không cho sanh hiểu.

Một trường hợp khác. Ngài Bá Trượng - Hoài Hải, là vị Tổ nổi tiếng với câu "Nhất nhật bất tác nhất nhật bất thực", nghĩa là một ngày không làm một ngày không ăn. Lúc Ngài c̣n nhỏ là đệ tử của Mă Tổ Đạo Nhất. Một hôm hai thầy tṛ đi dạo vườn, thấy có một bầy chim bay ngang hư không, Mă Tổ hỏi:

- Cái ǵ đó?

- Bầy vịt trời.

Một hồi Tổ hỏi lại:

- Bay đi đâu?

Ngài Bá Trượng trả lời:

- Bay qua.

Nghe vậy, Mă Tổ nắm lỗ mũi ngài Bá Trượng kéo mạnh một cái, Ngài la lên một tiếng thất thanh. Mă Tổ bảo:

- Sao không nói bay qua mất đi.

Ngay đó Ngài liền ngộ. Quư vị thấy lối dạy đạo của thầy tṛ trong nhà Thiền lạ lùng không? Ông thầy nhéo mũi học tṛ, vậy mà học tṛ ngộ. Ngộ cái ǵ? Đó là những điều tôi muốn chỉ cho quư vị thấy. Bởi v́ trọng tâm của Thiền tông cốt vạch bày cho chúng ta thấy cái chân thật hằng hữu nơi ḿnh. Nhưng cái đó không thể giải thích được. Giải thích là trật. Tức là mỗi người phải ṃ mẫm rồi phát minh thôi. Ở đây, tôi nói chuyện với quư vị lần đầu, buộc ḷng phải giải thích chút ít cho quư vị quen với lối dạy đạo của nhà Thiền. Sau th́ không cần phải giải thích nữa, để quư vị tự hiểu sẽ tốt hơn.

Chuyện con ngỗng nuôi trong cái b́nh, làm sao đem ngỗng ra mà không làm tổn hư cái b́nh? Thiền sư kêu, cư sĩ dạ một tiếng là con ngỗng ra rồi. Con ngỗng và cái b́nh dụ cho cái ǵ? Con ngỗng là dụ cho tâm thấy biết của ḿnh, cái b́nh dụ cho thân này. Tâm và thân không rời nhau, như con ngỗng đầy chật cái b́nh.

Nhưng làm sao biết trong thân này có tâm hằng hữu? Khi nghe hỏi Thiền sư biết liền, nên không trả lời mà Ngài chỉ kêu: "Hoàn đại công! ". Cư sĩ ứng thinh: "Dạ". Ngài nói: "Ra rồi". Vừa phát tiếng kêu liền có tiếng ứng thinh đáp lại, vậy cái này không hằng hữu là ǵ? Nhận được cái hằng hữu này th́ con ngỗng ra rồi. Tức là ngay nơi thân xác thịt này luôn có cái hằng hữu hiện tiền.

Chuyện của ngài Hoàng Bá cũng tương tự như vậy. Chuyện ngài Bá Trượng lại khác. Bầy chim bay qua mất, nhưng cái thấy bầy chim bay qua đâu có mất! Trong nhà Thiền hay dùng lỗ mũi để biểu trưng cho cái chân thật. Bởi v́ lỗ mũi tượng trưng cho mạch sống của chúng ta, nhưng chúng ta không thấy được. Nó ở trước mắt mà chúng ta không thấy, chỉ thấy người, thấy cảnh, chớ không thấy lỗ mũi ḿnh. Tánh thấy của ḿnh cũng hiện hữu như vậy, nhưng ta chỉ nhớ bầy chim mà quên đi tánh thấy. Mă Tổ vặn lỗ mũi bảo "sao không nói bay qua mất đi? " để nhắc cái hiện hữu đó. Ngài Bá Trượng liền thấy. Như vậy th́ chim bay mất chứ ḿnh đâu có mất. Nhận ra được cái ấy là ngộ.

Nhà Thiền sử dụng phương tiện đó để chúng ta thấy được cái chân thật của ḿnh ở ngay chính nơi ḿnh, chớ không bao giờ vắng. Bởi v́ chúng ta thấy sắc cứ lo chạy theo sắc, nghe tiếng chạy theo tiếng mà quên cái hay thấy, hay nghe. Trong khi chúng ta từng sống, từng dùng nó bên ḿnh, mà lại không nhận ra nó. Thật đáng tiếc!

V́ vậy Thiền tông sử dụng những phương tiện có tính cách lạ lùng để chúng ta không bị mắc kẹt trong phương tiện. Chủ yếu là làm sao cho hành giả thấy rơ, biết rơ được cái chân thật ngay trong cái hư giả này. Nhận ra được cái chân thật đó gọi là kiến tánh hay là giác ngộ. Đó là mục đích chính của các Thiền sư khi dạy đạo vậy.

3- Thiền tông truyền vào Việt Nam

Chúng ta thường nói Thiền tông và Phật giáo Việt Nam, nhưng theo cái nh́n của chúng tôi th́ nói Thiền tông là nói tới Phật giáo Việt Nam. Hay ngược lại nói Phật giáo Việt Nam là nói tới Thiền tông. Tại sao chúng tôi khẳng định như vậy?

Bởi v́ đầu tiên Thiền tông do Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền vào Việt Nam năm 580 TL. Như vậy cuối thế kỷ thứ sáu Thiền tông đă có mặt ở Việt Nam. Kế đó là Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền vào năm 820 TL. Sau đó Thiền sư Thảo Đường truyền vào năm 1069 TL. Cuối cùng Tông Tào Động, Tông Lâm Tế truyền vào đàng trong, đàng ngoài vào thế kỷ thứ 17. Như vậy chúng ta có thể nói rằng Thiền tông đă có mặt trên đất nước Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ sáu.

Nếu chúng ta nghiên cứu lịch sử kỹ sẽ thấy, trước khi Thiền tông từ các Sư Trung Hoa truyền vào Việt Nam th́ đoàn chư Tăng Ấn Độ sang truyền giáo ở đất nước ta, cũng truyền Thiền nhưng không phải là Thiền tông. Điều đó chắc quư vị cũng thấy rơ. Như vậy tại sao tôi cho rằng nói Thiền tông là nói đến Phật giáo Việt Nam hay ngược lại. Rơ ràng sử liệu c̣n ghi lại, những nhà sư nổi tiếng truyền bá đạo lư hoặc làm toàn là Thiền sư. Trước đời Lư ích nước lợi dân v.v.. Trần và từ đời Lư Trần về sau cũng như thế. Đó là nói thời trước.

Hiện giờ có nhiều người tưởng chừng như Thiền tông không có mặt trên đất nước Việt Nam, nhưng chúng tôi thấy khác. Nếu chúng ta chịu khó đến những ngôi chùa cổ, t́m các bài vị thờ Tổ, th́ không bài vị nào mà chẳng nói kế thừa Tông Lâm Tế hoặc Tông Tào Động. Trong Tông Lâm Tế có hai nhóm là Lâm Tế gia phổ và Lâm Tế chánh tông. Nếu Lâm Tế th́ là Thiền tông rồi, Tào Động cũng là Thiền tông. Những vị Ḥa thượng nổi tiếng hiện nay cũng thuộc các Tông đó.

Như vậy có thể nói rằng quư Ngài đều ở trong hệ Thiền tông. Nhưng phương pháp tu hành có thể uyển chuyển khác đi một chút. Song sự thực đều nằm trong hệ Thiền tông cả. Nếu tất cả chư vị cao Tăng đều xuất thân từ Thiền tông th́ Phật giáo Việt Nam đâu không phải là Thiền tông? Như vậy nói Thiền tông là nói tới Phật giáo Việt Nam rồi. Đó là tôi nói trên phương diện truyền bá từ trước đến nay theo chiều dài của lịch sử.

Nếu chúng ta nghĩ cho thật kỹ mới thấy tầm vóc quan trọng của Phật giáo, có một sự gắn bó giữa Phật giáo với dân tộc Việt Nam. Sự gắn bó đó như thế nào? Như các Thiền sư trước thời Đinh, Lê tức trước thời những vị đứng ra giành độc lập cho xứ sở, các Ngài đều có sự ủng hộ hay chuẩn bị cho nền độc lập của đất nước. Chẳng hạn như ngài La Quư An, rồi sau này có ngài Đỗ Pháp Thuận, Ngài Khuông Việt. Tới đời Lư, có ngài Vạn Hạnh v.v... Toàn là các Thiền sư đứng ra gánh vác một phần trong việc giành độc lập cho xứ sở. Điều đó, nếu quư vị có nghiên cứu chắc cũng thấy rơ.

Có nhiều người đặt câu hỏi: Thời đó không có các nhà Nho tài ba để biên chép hoặc trao đổi thư từ qua lại với triều đ́nh Trung Hoa hay sao, mà phải nhờ chư sư đảm đang việc này? Chúng ta nhớ lại, lúc Sĩ Nhiếp cai trị Việt Nam, ông đă đào tạo một số người có khả năng về văn học để giúp cho việc cai trị của ông. Đồng thời ông cũng cho người sang Trung Hoa học tập và thi cử đỗ đạt đàng hoàng. Như vậy có rất nhiều người giỏi chữ Hán, nhưng sao khi nước nhà độc lập th́ không thấy nhà Nho nào đứng ra lănh đạo hoặc giúp việc cho triều đ́nh?

Bởi v́ Sĩ Nhiếp cố t́nh dạy người ta thông thạo văn tự chữ nghĩa để giúp cho sự cai trị của ông. Tức là tuyển người cai trị chứ không phải dạy văn hóa cho người bị trị. Nên những người dưới sự giáo dục của ông hay của nhà Nho ở Trung Hoa đều không thể đứng về phía nhân dân Việt Nam. Cho nên khi nước nhà giành được độc lập, th́ các Vua đầu như Ngô Quyền hay Đinh Bộ Lĩnh… đều không thể nào dùng những nhà Nho này cả.

Chỉ có chư Sư ở chùa mới chính thống là người Việt Nam, lo cho dân tộc Việt Nam. Chư Sư Phật giáo cũng học chữ Hán, nhưng không phải với mục đích cai trị mà chỉ để hiểu kinh điển thôi. Nên các Ngài có nền văn hóa độc lập, không bị nhồi sọ bởi người cai trị. V́ vậy các triều đại Vua ta rất trọng dụng quư Ngài, nhất là trên mặt văn hóa. V́ thế Phật giáo ngay từ đầu, đă ít nhiều gắn liền với dân tộc rồi. Như vậy sự c̣n mất của đất nước tức là sự c̣n mất của Phật giáo. Đó là lư do tại sao các Thiền sư thời đó được dắc dụng trong triều đ́nh.

4- Tông chỉ tu hành của Thiền tông

Tông chỉ và sự tu hành của các Thiền sư truyền vào Việt Nam có lệch, có khác với Tông chỉ của các Thiền sư ở Trung Hoa, Ấn Độ không? Nói cách khác, nó có khác với kinh điển của nhà Phật không?

Đầu tiên chúng tôi nói về ngài Khuông Việt. Thiền sư Khuông Việt sinh năm 933, tịch năm 1011. Ngài là người được các vua Lê rất kính trọng và xem như Thái sư, giúp việc văn hóa. Về phần tu hành, chúng ta c̣n giữ được một bài kệ chữ Hán, Ngài để lại khi sắp tịch. Bài kệ đó như sau:

Mộc trung nguyên hữu hỏa

Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh

Nhược vị mộc vô hỏa

Toản toại hà do manh?

Mộc trung nguyên hữu hỏa nghĩa là trong cây vốn có lửa. Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh, bởi có lửa cho nên lửa phát sanh. Nhược vị mộc vô hỏa, nếu bảo rằng cây không lửa. Toản toại hà do manh, th́ dùi cọ làm sao lửa phát sanh được.

Như vậy qua bài kệ đó, Ngài muốn nói ǵ? Đoạn trước tôi đă nói về Thiền tông. Thiền tông cốt chỉ cho chúng ta thấy được nơi con người của ḿnh có sẵn tâm chân thật. Nó có sẵn nhưng bị những thứ hư dối phủ che làm mờ đi, nên ḿnh không thấy. V́ vậy Phật nói: "của báu trong nhà mà không biết", phải chịu làm kẻ ăn mày lang thang.

Chúng ta đọc sử đức Phật Thích Ca đều biết trước khi thành đạo, Ngài đi tham vấn một số thầy dạy các phương pháp thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền, từ Không vô biên xứ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Song Ngài thấy những pháp đó chưa thỏa măn được mong mỏi của Ngài. Nên cuối cùng Ngài đến cội cây Bồ-đề tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm. Đến đêm thứ bốn mươi chín tâm Ngài hoàn toàn thanh tịnh, từ đó phát ra được Tam minh, Lục thông. Thế là Ngài giác ngộ thành Phật. Khi giác ngộ rồi Ngài tuyên bố: "Ta học đạo không thầy". Đă không thầy th́ làm sao giác ngộ? Trong nhà Phật thường nói Giới, Định, Tuệ. Định rồi trí tuệ sáng, chớ không phải ai làm cho ḿnh sáng. Trí tuệ do tâm định mà sáng, th́ trí tuệ đó ở đâu ra? Hẳn là từ nơi ḿnh rồi. Nếu tâm định th́ trí sáng, chớ không từ đâu đến cả.

Khi nào chúng ta có vấn đề phiền toái, lo lắng, tự nhiên ḿnh cảm thấy đầu óc không được sáng suốt. Lúc ngồi yên tĩnh lại, những việc cần nhớ, cần biết từ từ hiện ra rơ ràng. Như vậy cái nhớ biết ấy từ đâu ra? Từ yên tĩnh mà ra. Cho nên trong nhà Thiền hay ví dụ: Như nước lấy từ hồ ao đổ vào khạp rất đục. Sự vật bên ngoài hoặc bóng chúng ta không hiện trong khạp nước đó. Nhưng nếu để nước đục lắng lại, các chất cặn bă lóng xuống th́ nước trong trở lại. Lúc đó đứng nh́n vào, chúng ta thấy cả mặt mày của ḿnh trong ấy, sự vật bên ngoài ở gần đó cũng đều phản ảnh trong mặt nước.

Như vậy bản chất của nước là trong hay đục? Chúng ta thấy đục liền nói nước đục, chứ thật ra bản chất của nước không có đục. Nước từ những hạt mưa trong hư không rơi xuống, cuộn theo bụi đất đọng lại thành hồ ao nên đục. Những thứ đất bụi đó lắng xuống th́ nước trở thành trong. Nước trở thành trong là mới có hay trong bản chất của nó đă trong? Do bản chất nó trong, nên lắng xuống mới trong trở lại được. Nếu bản chất nó không trong th́ dù có lóng bao nhiêu nó vẫn đục như thường. Cũng như nói trong cây có lửa. Có lửa mà không phát động th́ lửa không bao giờ phát. Do chúng ta dùng phương tiện cọ, dùi… nó mới phát lửa. Như vậy khi cây phát lửa không phải là ngẫu nhiên, mà nó đă có sẵn. Nếu lửa không có sẵn bên trong th́ chúng ta cọ, dùi ngàn năm cũng không bao giờ có lửa.

Cũng vậy, nếu đức Phật Thích Ca không có tánh giác sẵn th́ Ngài nhập định trong bao nhiêu năm cũng không sáng được. Do trước Ngài có tánh giác, nên khi định tâm th́ tánh giác phát sáng. Nên nhà Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh là vậy. Phật tánh tuy có sẵn nơi mọi người, nhưng có người làm Phật, có người không làm Phật. Tại sao? Tại ḿnh không dùng phương tiện để lọc, để nắm cho nên nó không phát ra. Như cây nào cũng có lửa, cây khô cũng có lửa, nhưng nếu không có phương tiện dùi, cọ th́ không bao giờ nó phát lửa.

Chúng ta thấy đức Phật Thích Ca thị hiện trong cơi đời này rất là con người. Ngài sinh ra, lớn lên, có gia đ́nh, có vợ có con. Như vậy Ngài có khác ǵ ḿnh đâu? Sống trong cảnh giàu sang, vua chúa, Ngài cũng thụ hưởng như bao nhiêu ông hoàng. Nhưng khi thức tỉnh đi tu, Ngài buông bỏ tất cả và nỗ lực tu tập, chuyên tâm thiền định cho đến khi trí tuệ phát sinh, Ngài liền giác ngộ giải thoát, thành Phật.

Tất cả chúng ta khi ở trong cảnh dục lạc th́ chúng ta cũng nhiễm. Nhưng khi thức tỉnh chúng ta đi tu, tu được tâm định th́ chúng ta cũng sáng như Ngài. Ngài là một con người có sẵn tánh giác, cho nên khi loạn tưởng, phiền năo lắng xuống th́ tánh giác hiện. Chúng ta là con người, phiền năo vọng tưởng lắng xuống th́ tánh giác cũng hiện sáng như Ngài, không nghi ngờ.

V́ vậy Phật nói rằng Ngài có Phật tánh, chúng ta cũng có Phật tánh. Chỉ khác nhau ở chỗ biết dùng phương tiện khai thác, hay không biết dùng phương tiện khai thác thôi. Chúng ta thấy Phật rất là con người, Ngài cũng như chúng ta nhưng Ngài khéo khai thác nên được giác ngộ. C̣n chúng ta không khéo khai thác nên chưa được giác ngộ. Đạo Phật cốt chỉ cho chúng sanh giác ngộ nơi ḿnh có tánh Phật. Nhận ra được điều đó gọi là ngộ đạo, là kiến tánh v.v... Đây chính là những yếu chỉ trong nhà Phật hay nhà Thiền nhắm đến.

Như vậy, cái nh́n cái tu của Ngài Khuông Việt là, biết ḿnh có tánh Phật cho nên khai thác đúng chỗ ấy, tự nhiên thành tựu được mục đích chính của ḿnh, là giác ngộ giải thoát Qua bài kệ của Ngài, chúng ta thấy rất là rơ điều này.

Tới Thiền sư Vạn Hạnh. Không biết Ngài sanh năm nào, chỉ biết Ngài tịch năm 1018. Như vậy ngài Khuông Việt nằm trong hệ của ngài Vô Ngôn Thông. C̣n Thiền sư Vạn Hạnh nằm trong hệ của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngang đây, tôi nói sơ lược về ngài Tỳ Ni Đa lưu Chi một chút, để quư vị làm công tác nghiên cứu có thêm tư liệu tham khảo.

Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi người Ấn, sang Trung Hoa học đạo. Ngài gặp Thiền sư Tăng Xán. Theo truyền thừa của nhà Thiền, ngài Tăng Xán là Tổ thứ ba Trung Hoa. Ngộ đạo ở Ngài Tăng Xán rồi, ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi mới sang Việt Nam. Như vậy Ngài là nhánh từ Tổ Tăng Xán mà ra, ngang với Tổ thứ tư ở Trung Hoa là ngài Đạo Tín. Nên có thể nói Ngài tương đương với Tổ Đạo Tín vậy.

C̣n ḍng Vô Ngôn Thông th́ hơi xa hơn. Từ Tổ thứ tư là Tổ Đạo Tín đến Tổ thứ năm là Tổ Hoằng Nhẫn, Tổ thứ sáu là Tổ Huệ Năng. Đến đây ngưng truyền y bát, không gọi là Tổ nữa, các vị về sau gọi là Thiền sư. Dưới Lục Tổ có những vị đệ tử nổi tiếng, phân làm hai hệ quan trọng ở Trung Hoa là, hệ của ngài Thanh Nguyên Hành Tư và hệ của ngài Hoài Nhượng ở Nam Nhạc. Dưới ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng, có một đệ tử cự phách là Mă Tổ Đạo Nhất. Dưới Mă Tổ có Bá Trượng Hoài Hải. Ngài Bá Trượng mới sinh ra ngài Vô Ngôn Thông. Như vậy ngài Vô Ngôn Thông nằm dưới hệ Tổ Huệ Năng, nhằm đời thứ tư sau Lục Tổ. Ngài Vô Ngôn Thông ngộ nơi câu "Tâm địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu" của Tổ Bá Trượng. Nghĩa là đất tâm nếu trống không th́ mặt trời trí tuệ tự sáng. Ngộ rồi, sau Ngài mới sang Việt Nam truyền đạo.

Quư vị thấy như đức Phật do tâm an định, không có những niệm phiền năo dấy khởi, gọi là tâm không. Từ tâm không này mà trí tuệ chiếu sáng, nên nói mặt trời trí tuệ tự sáng soi. Như vậy các Tổ sư cũng đều thể hội giống như đức Phật cả, đâu có ǵ khác nhau.

Trở lại bài kệ của Thiền sư Vạn Hạnh. Bài kệ ấy như thế này:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Đọc bốn câu kệ đó chúng ta thấy thật giản đơn, nhưng có nhiều người hiểu lầm bài kệ này hơi bi quan.

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, nghĩa là thân người như lằn điện chớp, như chiếc bóng, có đó rồi trở về không. Vạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô, tức là muôn cây cỏ mùa Xuân th́ tươi tốt, mùa Thu th́ khô héo. Hai câu này nghe đều bi quan hết, phải không? Con người rất tạm bợ, rất mỏng manh, sự vật bên ngoài cũng vô thường, không thiệt. Nh́n đời bằng cách đó tự nhiên thấy bi quan.

Tới hai câu sau "Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, nghĩa là mặc t́nh sự thịnh suy, không có sợ hăi. Thịnh suy như lộ thảo đầu phô, sự thịnh suy chẳng khác nào như hạt sương trên đầu ngọn cỏ có ǵ bền chắc. Nhiều người nghe Phật giáo nói cuộc đời là khổ, là hư giả nên cho rằng Phật giáo bi quan. Nói như vậy cũng có lư, ví dụ Phật nói nước mắt chúng sanh nhiều như bể cả, nghe buồn chết! Một giọt nước mắt là một nỗi khổ đau, mà nước mắt đầy như bể cả th́ khổ đau nhiều biết chừng nào mà kể.

Sự thực không phải vậy, nên quư vị thấy đạo Phật nói khổ mà nh́n quư thầy lúc nào cũng cười. C̣n thế gian cho rằng cuộc đời là hạnh phúc mà sao nhiều người ưu tư quá? Chỗ nói hạnh phúc mà người ta lại không vui, c̣n Phật nói khổ mà người tu lại cười? Điều ấy xuất phát từ chỗ sai biệt nào?

Bởi v́ trong nhà Phật nói khổ để chúng ta t́m cách diệt khổ, chớ không phải nói khổ để chịu khổ. Cho nên nói khổ mà biết diệt khổ th́ hết khổ, hết khổ là vui chứ ǵ? C̣n người đời vui trong cái khổ, nên dễ buồn chán, thành ra nhiều ưu tư. Buồn chút chút th́ c̣n ưu tư, nếu buồn chán quá th́ muốn tự tử… đủ thứ hết. Đó là tại v́ lầm, lầm tưởng khổù là vui, nên hết vui đâm ra khổ. Phật nói bản chất cuộc đời thực sự là khổ. Biết như thế rồi, chúng ta phải phăng t́m lư do ǵ mà khổ. Từ đó t́m cách diệt nguyên nhân tạo khổ, th́ sẽ dứt nhân khổ, dứt hết nhân khổ là vui. Như vậy nhà Phật nói khổ để được vui, chớ không phải nói khổ để rồi chán, rồi khổ.

Nói cuộc đời giả dối, thân này tạm bợ cũng vậy. Nói giả dối, tạm bợ th́ người ta dễ chán đời lắm, nhưng trong đạo Phật không phải thế. Nói thân cảnh tạm bợ, giả dối là nói lẽ thật cho ḿnh biết. Nhưng khi nhận được lẽ thật đó rồi chúng ta phải làm sao? Biết được lẽ thật rồi, chúng ta mới nhận hai trách nhiệm.

Trách nhiệm thứ nhất là ngày nào chúng ta c̣n có mặt, c̣n khỏe mạnh th́ phải làm sao lợi ḿnh lợi người, chớ không để mất th́ giờ. V́ nó tạm, nó ngắn, nên ngày nào phải sống cho trọn vẹn ngày đó, đừng chần chờ để mất đi rất uổng. Nói giả dối để ḿnh thúc tiến, vươn lên. Chớ không phải nói giả dối để ḿnh chán, ḿnh than thở hay buông xuôi. Nên nói giả dối để ḿnh phấn đấu, vượt lên. Ngày nào ḿnh có mặt là phải xứng đáng ngày đó, giờ nào ḿnh có mặt là phải làm tṛn bổn phận giờ đó. Đó là tinh thần trách nhiệm của đạo Phật.

Trách nhiệm thứ hai là khi biết cuộc đời này giả dối, tạm bợ th́ ḿnh nhận chịu các nghiệp ḿnh đă tạo một cách can đảm trước khi ra đi. Khi ḿnh biết nó giả dối th́ chuyện c̣n, mất có đáng sợ nữa không? Không đáng sợ! Cho nên quư vị đọc sử thấy Thiền sư lúc gần chết các Ngài cười, c̣n chúng ta gần chết th́ khóc. Vậy th́ tại sao cũng mất thân mà một bên khóc, một bên cười?

Chẳng qua người thấy thân là thật, là lâu dài nên cứ đinh ninh như vậy, bất thần phải tới chỗ kết thúc th́ sinh hoảng hốt, sợ sệt. Do thương tiếc nó quá cho nên phải khóc. C̣n người biết rơ thân giả dối tạm bợ, nó đến rồi nó sẽ đi, nó có rồi nó sẽ mất. Như vậy chuyện c̣n mất là chuyện đương nhiên, có ǵ đâu mà sợ, có ǵ đâu mà lo cho nên vui cười. Đó là ư nghĩa về lẽ thật trong đạo Phật.

Cho nên bài thơ của ngài Vạn Hạnh nói thân như lằn chớp, như chiếc bóng. Tất cả sự vật đều biến chuyển vô thường, có ǵ đâu mà quan trọng. Dù cái tốt, cái xấu, cái dở, cái hay đến với ḿnh rồi nó cũng không c̣n, th́ cứ mặc t́nh nó, không ǵ quan trọng hết. Do không quan trọng nó, nên không sợ hăi, không khủng khiếp.

Nên ngài Vạn Hạnh nói như sương trên đầu ngọn cỏ, thấy đó rồi mất đó, có ǵ đâu phải sợ. Như vậy nhờ thấy được lư tạm bợ, giả dối của kiếp người, của sự vật nên ta có một sức mạnh, không biết sợ hăi. Người không thấy được lẽ thật nên cứ tưởng tượng. Do tưởng tượng nên hay sanh hoảng hốt.

Tôi dẫn hai bài kệ này để quư vị thấy người tu Thiền phải biết: Một là nhận thấy ngay nơi ḿnh cái ǵ giả, biết là giả. Hai là phải nhận ra được cái thật trong cái giả đó. Do thấy giả cho nên chúng ta sẵn sàng đứng trước những cái giả dối mà không ngại, không sợ. Các chùa xưa hay đọc bài kệ:

Thị nhựt dĩ quá

Mạng diệc tùy giảm

Như thiểu thủy ngư

Tư hữu hà lạc.

Đại chúng đương cần tinh tấn

Như cứu đầu nhiên.

Nghĩa là ngày nay đă qua, mạng ḿnh cũng theo đó mà suy giảm. Như cá ở trong ao nước cạn, mỗi ngày nước khô đi một phần, có ǵ để vui. Thế nên chúng ta phải cố gắng nỗ lực, siêng năng tinh tấn như cứu lửa cháy đầu. Lửa táp trên đầu th́ phải phủi liền, chứ đâu thể chần chờ. Thấy vô thường để cố gắng, làm lợi ḿnh lợi người, chớ không phải thấy vô thường để bó tay chờ chết.

Đến bài kệ thứ ba của Thiền sư Măn Giác. Thiền sư Măn Giác thuộc hệ Vô Ngôn Thông, Ngài sinh năm 1052 và tịch năm 1096. Bài kệ của Ngài là:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhăn tiền quá,

Lăo tùng đầu thượng lai.

Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận,

Đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai.

Bài kệ này có thể nói tổng hợp cả hai bài kệ trên.

Xuân khứ bách hoa lạc, tức mùa Xuân đi th́ trăm hoa rụng. Xuân đáo bách hoa khai, mùa xuân trở về th́ trăm hoa nở. Như vậy hoa rụng, hoa nở chỉ là hiện tượng sinh diệt ở bên ngoài. Sự trục nhăn tiền quá, tức là mọi việc trôi qua trước mắt ḿnh. Lăo tùng đầu thượng lai, cái già đă đáp trên đầu mất rồi.

Quư vị thấy bốn câu này mang h́nh dáng ǵ? Hai câu đầu nói muôn vật theo thời gian mà sinh mà diệt. Mùa Xuân đến th́ nó nở, mùa Xuân đi th́ nó tàn. Nói hoa cũng chính là nói tất cả sự vật trên thế gian này, tất cả đều theo thời gian mà sinh mà diệt. Ḍng thời gian cuốn trôi muôn vật. Chúng ta nh́n sự vật trôi đi theo thời gian và bỗng sực nhớ lại ḿnh, th́ cái già nó đă đáp trên đầu rồi. Như vậy chúng ta cũng bị cuốn theo thời gian. Con người và muôn vật đều bị thời gian chi phối. Nhưng ngang đó hết hay chúng ta c̣n lại ǵ nữa?

Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận, đ́nh tiền tạc dạ nhất chi mai, nghĩa là chớ bảo mùa Xuân qua rồi hoa rụng hết, mà đêm qua trước sân vẫn c̣n một cành mai nở rộ. Người đời thường cho rằng Xuân tàn th́ hoa hết, mùa Đông sẽ trơ trụi. Nhưng không ngờ mùa Đông lại có hoa của mùa Đông. Như vậy Thiền sư mượn cành mai để nói tuy sự tướng của muôn vật là một ḍng chuyển biến không dừng, nhưng trong đó ngầm chứa một cái mà thời gian không chi phối nổi, không hoại diệt nổi.

H́nh ảnh cành mai để nói lên trong cái sinh diệt, ngầm có cái không sinh diệt. Chỗ này, ngài Khuông Việt gọi là lửa ở trong cây. Chỗ khác gọi là Phật tánh hay bản lai diện mục. Nó nằm sẵn trong thân hoại diệt này, chứ không phải ngang đó là hết, ngang đó là cùng. Như vậy bài thơ của Thiền sư Măn Giác chứa đủ hai mặt. Một mặt là nhận chân cái giả, một mặt là thấy được cái thật nằm trong cái giả.

Như vậy qua một ít bài thơ của các Thiền sư cũng tạm đủ để nêu lên tông chỉ của Thiền tông.

5- Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Đây là một phái Thiền hoàn toàn của người Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời năm 1299 và bị mai một vào năm 1334. Sơ Tổ là vua Trần Nhân Tông. Khi Ngài làm vua đă từng chiến đấu chống quân Nguyên và sau khi thành công, nước nhà thanh b́nh, Ngài nhường ngôi lại cho con rồi đi xuất gia.

Xuất gia, Ngài lên núi Yên Tử tu thiền và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nhưng người đă nuôi dưỡng, dạy dỗ chân tinh thần Thiền cho Ngài chính là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Bởi trước đó, Vua cha là Trần Thánh Tông đă gửi gắm Ngài cho Tuệ Trung Thượng Sĩ. Như vậy ngài Tuệ Trung được xem như là thầy của ngài Trần Nhân Tông.

Ngài tu và lấy hai hiệu, đầu tiên là Hương Vân Đầu Đà, sau này là Trúc Lâm Đầu Đà. Chữ Đầu Đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đẩu tẩu; nghĩa là phủi rũ sạch hết. Có chỗ c̣n nói Đầu Đà là khổ hạnh.

Ngài Trần Nhân Tông là người rất đặc biệt. Khi ở ngôi Vua, Ngài làm hết bổn phận của một ông Vua, lo cho dân cho nước. Khi đi tu th́ dứt khoát hẳn là một người tu. Nên khi đă xuất gia rồi, Ngài không c̣n đi kiệu như xưa nữa. Dù đường từ

Trúc Lâm Yên Tử về kinh đô rất xa, nhưng Ngài chỉ đi bộ chứ không dùng kiệu, cũng không dùng thuyền rồng. Đó là nói lên tinh thần Đầu Đà của Ngài.

Do trước khi tu, Ngài đă học đạo hiểu được lư Thiền từ Tuệ Trung Thượng sĩ, nên lúc tu Ngài có sẵn căn bản. V́ vậy chỉ sau một thời gian ngắn tu tập, Ngài sáng được việc lớn. Từ đó Ngài thành lập một phái Thiền riêng. Phái Thiền này dung hợp cả các phái Thiền trên, tức là phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái Thiền Vô Ngôn Thông, phái Thiền Thảo Đường, trong đó cũng có ảnh hưởng một phần của phái Thiền Lâm Tế. Ngài thành lập phái Thiền Trúc Lâm theo tinh thần của Phật giáo Việt Nam, chớ không lệ thuộc vào lối tu của các Sư ở Trung Hoa.

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chủ trương Tam giáo đồng nguyên. Tam giáo đồng nguyên tức là Phật, Khổng, Lăo đồng nguồn. Chủ trương này rất hay, giúp cho đời Trần đoàn kết. Nhờ vậy toàn dân đánh thắng được giặc Nguyên. Nếu không có chủ trương đó th́ trong nước chia rẽ từng nhóm, đạo Khổng th́ bênh đạo Khổng, đạo Phật bênh đạo Phật, đạo Lăo bênh đạo Lăo. Như vậy thế nước sẽ yếu đi.

Chúng ta đọc sử thấy ở Trung Hoa ngoài Phật giáo, c̣n có hai tôn giáo lớn là Khổng và Lăo. Nhưng hai tôn giáo này đứng riêng biệt nhau. Về sau Phật giáo Thiền tông ở Trung Hoa tới thời cực thịnh là đời Đường sang đời Tống, với tinh thần cởi mở Thiền tông đă dung hợp được cả ba Phật, Lăo, Khổng.

Như tôi đă nói, với con mắt của nhà Thiền, hay của nhà Phật, th́ dù người tu theo đạo nào cũng đều có tánh Phật như nhau. Chẳng qua phương tiện tu có khác thôi. Như vậy chủ trương đó dung hợp được tất cả, nên nói đồng nguồn. Bởi v́ dù phương tiện có khác nhưng chỗ cứu kính không hai. Bởi đứng trên lập trường đó mà nhà Trần dung hợp cả Tam giáo. Nhờ vậy nên thời Trần đă lập được những chiến công oanh liệt nhất trong lịch sử chống giặc của Việt Nam, mà cũng có thể nói oanh liệt nhất trong thời đó đối với cả thế giới.

Thiền sư Việt Nam không chỉ là người xuất gia cạo đầu ở chùa, mà có thể là cư sĩ như mọi người, nhưng tu hành vẫn có thể đạt đạo. Như vua Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, vua Trần Thánh Tông… các Ngài đều là hàng tại gia mà vẫn thấy được đạo. Ngài Điều Ngự Giác Hoàng xuất gia nhưng Ngài không khuyến khích tất cả chúng ta phải rời bỏ trần tục để vào đạo mới gọi là tu. Mà Ngài dạy ngay trong cảnh trần tục khéo tu th́ cũng vẫn có kết quả tốt như thường.

Như vậy chủ trương đó chỉ có ở Việt Nam chớ không có ở Trung Hoa. Quư vị đọc sử Trung Hoa thấy có một Thiền sư cư sĩ nổi tiếng là ông Bàng Long Uẩn, nhưng ông chỉ giáo hóa trong gia đ́nh thôi, chứ không giáo hóa người khác. Ở Việt Nam, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ mà dạy luôn cả Tăng, Ni nữa. Ai đến Ngài cũng đều dạy được hết. Đó là những nét khác biệt giữa Thiền tông Việt Nam và Thiền tông Trung Hoa hay Thiền tông Ấn Độ.

Để thấy rơ hơn về tinh thần này, chúng tôi xin dẫn bài kệ kết thúc trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo của ngài Trúc Lâm Đầu Đà. Cư trần lạc đạo nghĩa là ở giữa trần thế bụi bặm này mà vẫn vui với đạo. Đó là điểm đặc biệt của Ngài. Bài phú này rất dài, chúng ta không có th́ giờ đọc hết, tôi chỉ lược trích đoạn kết:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Tạm dịch:

Ở đời vui đạo hăy tùy duyên

Đói đến th́ ăn mệt ngủ liền

Trong nhà có báu thôi t́m kiếm

Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền.

Ở đời vui đạo hăy tùy duyên, nghĩa là ở ngay trong ḷng đời mà muốn vui với đạo th́ phải khéo tùy duyên. Chúng ta có bệnh không biết tùy duyên. Tùy duyên không có nghĩa là cơ hội. Tùy duyên là giả dụ ḿnh đi làm, đồng lương thấp th́ ḿnh sống theo nếp của đồng lương thấp. Người khác đồng lương cao, họ sống theo nếp đồng lương cao. Nếu đồng lương thấp mà đ̣i sống như đồng lương cao th́ khổ, làm sao vui được. Cho nên người biết tùy duyên, ở trong hoàn cảnh nào cũng khéo lượng định để sống cho phù hợp với hoàn cảnh đó, đừng đ̣i hỏi quá khả năng của ḿnh, quá sức lực của ḿnh. Được vậy th́ vui, ngược lại chúng ta cứ đ̣i hỏi theo nếp của người khác th́ chúng ta không bao giờ vui được.

Bây giờ đa số quư Phật tử cứ than tu khó là tại sao? Tại không biết tùy duyên. Ḿnh nghèo mà đ̣i sống như mấy người trưởng giả th́ làm sao được. Thấy người ta cái ǵ cũng tốt rồi đâm ra phiền năo, phiền năo nên tu không được. C̣n nghèo mà sống đúng với nếp nghèo của ḿnh th́ tuy thiếu thốn một chút mà tinh thần an vui. Chúng ta phải biết ứng dụng đúng với khả năng, hoàn cảnh của ḿnh. Ứng dụng đúng th́ an tâm, mà an tâm th́ tu được chứ ǵ. Đó là khéo tùy duyên.

Đói đến th́ ăn mệt ngủ liền, câu này đa số đều nghi. Ai đói không ăn, mệt không ngủ? Trước khi giải thích câu này chúng tôi xin dẫn câu chuyện của một Thiền sư. Quốc sư Huệ Trung ở Trung Hoa đời Đường, sau khi hiểu đạo Ngài lên núi tu tới bốn mươi năm. Khi được vua Đường Túc Tông mời về triều, có một vị quan tới hỏi Ngài:

- Thưa Ḥa thượng, Ḥa thượng ở trên núi Bạch Nhai bốn mươi năm thường làm ǵ?

Ngài đáp:

- Đói ăn, mệt ngủ.

Vị quan ấy nói:

- Đói ăn, mệt ngủ. Việc đó quá tầm thường. Người đời cũng đói ăn, mệt ngủ. Như vậy Ngài có khác ǵ người đời đâu?

Ngài nói:

- Ta đói ăn mệt ngủ, nhưng không giống người thường.

- Tại sao không giống?

- Người thường đói đến mà không chịu ăn, đ̣i trăm thứ. Mệt đến mà không chịu ngủ, nghĩ trăm việc.

Đói không chịu ăn, đ̣i trăm thứ. Mệt không chịu ngủ, nghĩ trăm việc. Người này có sống đúng với tinh thần đói ăn mệt ngủ của nhà Thiền không? Tôi ví dụ, mỗi sáng ḿnh ăn một tô hủ tiếu rồi mới đi làm. Mọi hôm tô hủ tiếu có tiêu, có ớt; hôm nay thiếu tiêu, thiếu ớt th́ ḿnh không chịu ăn. Phải đ̣i cho đủ mấy thứ gia vị đó mới chịu ăn. Như vậy đâu phải đói th́ ăn. Đó là tôi nói trường hợp nhỏ. C̣n nếu sáng nào cũng có tô hủ tiếu mà hôm nay không có tô hủ tiếu, chỉ có tô cơm nguội th́ chẳng những không chịu ăn, mà c̣n có sự rầy la nữa là khác. Như vậy rơ ràng người đời đói mà đâu chịu ăn.

Rồi đến ngủ. Nhiều khi quư vị làm việc đến chiều tối về mệt, muốn ngủ một chút. Nhưng quư vị có ngủ được không hay nghĩ việc này, việc nọ. Có khi mất nửa tiếng hay một tiếng đồng hồ mới ngủ. Chưa kể có lúc thức trắng v́ mải suy nghĩ nên bị mất ngủ luôn. Như vậy th́ mệt đâu có ngủ.

C̣n Thiền sư khi đói có ǵ ăn nấy, khi mệt nằm xuống ngủ kḥ, không nghĩ suy chuyện ǵ hết. Như vậy th́ cũng đói ăn, mệt ngủ mà hai bên khác nhau. Cho nên nghe đói ăn mệt ngủ thấy tầm thường, mà thật ra không phải tầm thường. Đó chính là tinh thần, là sức mạnh của người làm chủ được ḿnh. Khi cần làm ǵ th́ làm, không phải so đo suy tính lung tung. Làm chủ ḿnh nên đầu óc không bị vọng tưởng kéo lôi, làm cho luẩn quẩn, rối rắm. Phải có sức làm chủ được như vậy mới gọi là đói ăn, mệt ngủ.

C̣n chúng ta không làm chủ ǵ hết. Nhiều khi nói tôi ngồi chơi, mà đầu cứ nghĩ lăng văng chuyện này, chuyện kia. Như vậy để thấy chúng ta không có sức làm chủ, bởi không có sức làm chủ nên chúng ta không như các Thiền sư. Các Ngài đói ăn, mệt ngủ. Chúng ta đói không chịu ăn, mệt không chịu ngủ. Hai bên khác nhau.

Trong nhà có báu thôi t́m kiếm, đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền. Trong nhà ḿnh có báu sẵn, không phải t́m kiếm ở đâu. Cho nên phải ngay nơi ḿnh mà nhận lấy của báu. Tại sao nhà Thiền gọi đó là của báu? Bởi v́ của báu là của quư, nó làm cho chúng ta được mọi sự như ư. Cũng vậy, người tu thấy được tánh giác của ḿnh rồi, th́ mọi việc đều được măn nguyện. Cho nên gọi đó là của báu.

Đối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền. Đây là câu tuyệt vời nhất. Người ta hỏi Thiền là ǵ, Ngài không cần giải nghĩa, chỉ nói khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không có niệm dấy khởi, không dính mắc, đó là Thiền rồi. Đối cảnh vô tâm.

Qua bài kệ bốn câu ngắn gọn, đă nói được hết tinh thần Thiền từ các Tổ trước cho đến sau này. Đó là tôi dẫn Thiền sư đầu của hệ Trúc Lâm. Kế tôi sẽ dẫn Thiền sư cuối của hệ Trúc Lâm là Ngài Huyền Quang.

Ngài Huyền Quang cũng có một bài phú vịnh chùa Trúc Lâm Yên Tử. Đây là bài văn Nôm nên phần kết thúc cũng bằng văn Nôm. V́ bài phú dài nên chúng tôi chỉ lược đọc phần kết thúc:

Rũ không thay thảy ánh phồn hoa,

Lấy chốn Thiền lâm làm cửa nhà.

Khuya sớm sáng choang đèn Bát-nhă,

Hôm mai rửa sạch nước Ma-ha.

Ḷng Thiền vằng vặc trăng soi giại,

Thế sự hiu hiu gió thổi qua.

Cốc được tính ta nên Bụt thực,

Ngại chi non nước cảnh đường xa.

Rũ không thay thảy ánh phồn hoa, bởi Ngài là Trạng nguyên đi tu th́ tất cả phồn hoa của thế gian phủi sạch hết, không c̣n dính ǵ nữa. Lấy chốn Thiền lâm làm cửa nhà, tức là lấy cửa Thiền làm nhà của ḿnh. Hai câu này nói lên tinh thần tu của Ngài. Tu bằng cách nào?

Khuya sớm sáng choang đèn Bát-nhă. Hôm mai rửa sạch nước Ma-ha. Chữ Bát-nhă, Ma-ha đều dịch âm chữ Phạn. Bát-nhă dịch nghĩa là trí tuệ, nhưng nói trí tuệ không hết nghĩa, nên nhà Phật thường hay dùng từ trí tuệ Bát nhă. Bởi v́ người thế gian thông minh, học giỏi, hiểu nhanh th́ nói người đó có trí tuệ, nhưng đó là trí tuệ thế gian. C̣n trí tuệ này siêu xuất thế gian, nên gọi là trí tuệ Bát nhă.

Chữ Ma-ha Trung Hoa dịch là đại, là lớn. Thường thường trong chùa hay đọc Ma-ha Bát-nhă ba-la-mật-đa, nghĩa là trí tuệ Bát-nhă rộng lớn đến bờ kia. Câu trên dùng chữ Bát-nhă, câu dưới dùng chữ Ma-ha, nhưng đều muốn nói đến tinh thần Bát nhă.

Như vậy vào chùa tu là khuya sớm luôn luôn thắp sáng ngọn đèn trí tuệ Bát-nhă, để làm ǵ? Để rửa sạch hết bụi trần tục hay tâm phiền năo của ḿnh. Người nương trí tuệ Bát nhă th́ thấy tất cả pháp không thật, như huyễn như hoá nên không c̣n đắm luyến vào đó nữa.

Ḷng Thiền vằng vặc trăng soi giại. Thế sự hiu hiu gió thổi qua. Ḷng Thiền tức là tâm đạt được lư Thiền, lắng sạch, trong veo giống như ánh sáng mặt trăng soi bên chái nhà. Được chỗ trong sáng đó rồi, nh́n lại việc đời như gió thổi hiu hiu vậy thôi, không có ǵ quan trọng nữa hết. Cốc được tính ta nên Bụt thực. Chữ Cốc là biết, biết được chính ta thật là Bụt đó. Bụt là Phật. Chúng ta thấy tánh ḿnh là Phật thật, th́ c̣n ǵ ngại cho non nước cảnh đường xa. Dù xa bao nhiêu cũng ráng tu để sống lại được với ông Phật của ḿnh. Biết Phật của ḿnh th́ c̣n ǵ ngại, c̣n ǵ sợ khó khăn? Chỉ sợ ḿnh không biết thôi, đi t́m mới phiền mới cực.

Những câu thơ này đă nói lên tinh thần tu Thiền ở Việt Nam. Trước hết dùng trí tuệ Bát-nhă để dẹp sạch các phiền năo, sau ngộ được lư Thiền th́ tâm tự trong sáng. Như vậy là nhận nơi ḿnh có tánh Phật sẵn, không phải t́m kiếm ở đâu nữa cả. Đó là chân tinh thần tu tập của Thiền tông Việt Nam.

Kết lại, Thiền tông Việt Nam không khác ǵ Thiền tông Trung Hoa hay Thiền tông Ấn Độ, bởi v́ Thiền tông chính là cốt tủy của Phật giáo vậy.  

]

 


[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]