THÂM Ư QUA H̀NH TƯỢNG PHẬT, BỒ TÁT
[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]
TƯỢNG PHẬT THÍCH CA MÂU NI (Buddha Sàkyamni) DANH HIỆU. - Thích Ca, Trung Hoa dịch là Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi ḷng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên tĩnh. LƯỢC SỬ. - Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn Độ có vị Thánh xuất thế, đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi ấy, xă hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp: Bà-la-môn (Brahmanes), Sát-đế-lỵ (Kastryas), Phệ-xá (Vaisyas) và Thủ-đà (Soudas) đức Phật Thích Ca sanh trong ḍng quư tộc thuộc đẳng cấp thứ hai. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn (Suddodhana) và thân mẫu là hoàng hậu Ma-gia (Maya), ở thành Ca-tỳ-la (Kapilavatsu). Ngài giáng sanh vào ngày trăng tṛn, tháng hai Ấn Độ, nhằm ngày rằm tháng tư âm lịch Trung Hoa. Tên Ngài là Sĩ-đạt-ta (Sidhartha). Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đă mồ côi mẹ, nhờ Di mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Năm 19 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đă dạo chơi bốn cửa thành thấy cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm ḷng thương cảm vô hạn, quyết t́m con đường giải thoát cho ḿnh và tất cả chúng sanh. V́ thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can. Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi t́m thầy học đạo. Ngài đă từng tham học với hai vị sư trứ danh đương thời là A-la-lă-ca-lan (Aralah-Kalama) và Uất-đà-già-la-ma (Udraka-Kamapu-tar). Nhưng xét đến kết quả đạo lư của họ đều không làm cho Ngài thỏa măn. Sau đó, Ngài từ giă họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy tŕ mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả ǵ. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chánh, Ngài liền từ bỏ nó, trở lại lối sống b́nh thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm ngày thứ 49 ở dưới cội Bồ-đề, Ngài bừng ngộ thấy rơ chân lư của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi ṿng sanh tử luân hồi. Sau khi đă chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng ḿnh, liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 49 năm, chu du đến một phần ba xứ Ấn Độ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương Xá (Rajagrha) nước Ma-kiệt-đà (Magadha), thành Phệ-xá-ly (Vésali), thành Xá-vệ (Shavasti) nước Câu-tát-la (Kosala). Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta-la song thọ (Sala) ngoài thành Câu-thi (Kusin-agara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết-bàn (Nibbna). BIỂU TƯỚNG. - Vào trong các chùa Phật giáo Bắc tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật Thích Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, đức Thích Ca ngự giữa, bên phải đức Phật Thích Ca là Phật A Di Đà, bên trái là Phật Di Lặc (Phật tương lai). Lối thờ này tượng trưng tam thế Phật, Phật Thích Ca là Phật hiện tại, Phật Di Đà là Phật quá khứ, Phật Di Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, đức Thích Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là đức Trung Tôn. Tượng Phật Thích Ca không giống người Ấn Độ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư. THÂM Ư. - Nh́n sơ qua h́nh tượng đức Phật Thích Ca, chúng ta đă thấy những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn Độ, ngồi trên toà cỏ dưới cội cây Bồ-đề ? Bởi v́ Bắc tông Phật giáo quan niệm đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là Pháp thân thường trụ. Hiện thân Thái tử Sĩ-đạt-ta tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi. Đă là hóa thân tùy cơ cảm th́ ở đâu có cảm đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ. V́ thế, ở Việt Nam cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện người Việt Nam, ở Trung Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung Hoa để hóa độ... Đó là tư tưởng siêu thực, không c̣n thấy Phật ở trong một h́nh thức cố định nào. Đức Phật đă đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng này, Bắc tông Phật giáo đối với đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gủi thân mật và phát sanh tín ngưỡng “Phật tùy tâm hiện”. Ta hăy nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Thái Tông, khi ông này lên núi cầu đạo: “Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là chân Phật. Nay bệ hạ muốn giác ngộ tâm ấy th́ đứng ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài”. (Khóa Hư Lục) Đă tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm ḿnh tưởng Phật tức là có Phật hiện đến. Do đó phát sanh tín ngưỡng “Phật hiện cứu khổ mọi người”. Cho nên, những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa. Phật ngự trên đài sen cũng là một ư nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi v́ hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Đó là đặc tính không thể t́m được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại c̣n đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. V́ cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chân thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa băi cát trắng phau, hay trên g̣ đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quư trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ. Đức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đ́nh, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đ́nh trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đ́nh mà chí Ngài đă vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng. Bắc tông Phật giáo đặt trọng ư nghĩa “thanh tịnh trong ô nhiễm” nên chủ trương “phiền năo tức Bồ-đề”, “sanh tử tức Niết-bàn”. Không thể t́m Bồ-đề ngoài phiền năo, không thể có Niết-bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền năo chúng ta khéo chuyển sẽ thành Bồ-đề, trong sanh tử khéo chuyển sẽ thành Niết-bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. V́ thế, đi đến chủ trương “tích cực nhập thế”. Bởi v́ không thể có đức Phật ngoài chúng sanh, không thể có cơi Cực-lạc thanh tịnh ngoài cơi Ta-bà uế trược. Đôi mắt đức Phât đâm chiêu nh́n xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lư Phật dạy là giáo lư nội quan luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự giác tự ngộ. Tâm ḿnh là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhân sanh. V́ thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của ḿnh. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm mà hành động nơi tự thân ḿnh. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuốc lấy kết quả khổ đau về nơi ḿnh. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của ḿnh. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua Trần Nhân Tông hỏi về bổn phận, tông chỉ Thiền, Tuệ Trung Thượng Sĩ đáp: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. (Tam Tổ Thực Lục) (soi lại nơi ḿnh là việc bổn phận, không từ nơi người mà được). Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đâm chiêu nh́n xuống như khi chúng ta muốn kiểm soát lại tâm tư hay hành động của ḿnh, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nh́n xuống. Khi chúng ta muốn van xin điều ǵ với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. V́ thế, khi nh́n lên đôi mắt đức Phật, đôi mắt các vị Thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan. Trên đảnh đức Thích Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế (cục thịt đỏ), để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... Trên đảnh đức Phật có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ-tát từ sơ địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho Pháp thân v́ chúng sanh không thể thấy nên gọi là “vô kiến đảnh tướng”. Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong kinh nói chung quanh đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm. Bởi v́ con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác th́ hiện lên vầng hắc ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện th́ hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến. V́ mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rơ ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể nhận biết phần nào. Như người hiền lành đến trước chúng ta nh́n thoáng gương mặt là ta có cảm t́nh ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nh́n sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào h́nh thức, mà nó siêu h́nh thức. Thiết thực nhất là các anh đồ tể khi vào xóm làng bị chó theo đuổi sủa không thôi, dù họ chỉ đi tay không cũng thế. Cho nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nh́n qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo hóa. Đức Phật là con người thuần thiện tâm thanh tịnh, trí sáng suốt th́ ánh hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên. Phật giáo Bắc tông thường thờ tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Tượng này h́nh một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống. Đó là biểu thị một bậc Thánh nhân xuất thế, vừa lọt ḷng mẹ đă có những hành động siêu phàm. Và câu Ngài thốt ra lúc ấy là: Trên trời dưới trời, Chỉ ta hơn hết, Tất cả thế gian Sanh, già, bệnh, chết. Nghĩa là từ nhân gian đến các cơi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh, chết chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc tông Phật giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ “ta” ám chỉ Pháp thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không ǵ b́ kịp. Đây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong h́nh tượng đức Phật Thích Ca. Mong rằng những khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ư thức được ḿnh phải làm ǵ đối với h́nh ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ư rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài. ] |