[Trang chu] [Kinh sach]

THÂM Ư QUA H̀NH TƯỢNG PHẬT, BỒ TÁT

[mục lục][tựa][dẫn khởi]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]


BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

(Bodhisattva Avalokitesvara)

DANH HIỆU. - Quán Thế Âm, nghĩa là quán sát tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.

TIỀN THÂN. - Thuở đức Phật Bảo Tạng, Ngài là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Ngài theo vua cha đến nghe Phật thuyết pháp và thỉnh Phật cùng Tăng chúng về cung cúng dường. Do công đức ấy, được Phật thọ kư sau này làm Bồ-tát hiệu là Quán Thế Âm, phụ tá đức Phật A Di Đà giáo hóa chúng sanh và sau nữa sẽ thành Phật hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương, (kinh Bi Hoa quyển ba, phẩm Chư Bồ-tát bổn thọ kư).

HẠNH NGUYỆN. - Bồ-tát Quán Thế Âm không có trong lịch sử thế giới này. Ngài là vị Bồ-tát hầu cạnh đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực-lạc phương tây. Có chỗ nói Ngài không cố định ở thế giới nào, tùy chúng sanh ở đâu đau khổ th́ Ngài thị hiện đến cứu độ. Quán Thế Âm là xem xét tiếng kêu đau khổ của chúng sanh ở đời. V́ thế, Ngài là hiện thân của từ bi. Chỗ nào có chúng sanh khổ đau là có Ngài hiện thân đến đấy. Ngài hằng tùy loại chúng sanh hóa thân độ họ. Có nhiều lần Ngài hóa thân người nữ độ đời, nên người ta thường gọi Ngài là Phật Bà.

BIỂU TƯỚNG. - Nghiên cứu về h́nh tượng Ngài, chúng ta thấy có lắm tượng. Những tượng y cứ theo giả sử, như: Quán Âm Hài Nhi (thể theo cốt truyện Quán Âm Thị Kính), Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc... Những tượng y cứ theo các kinh phái Mật tông, như: Quán Âm Mă Đầu, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhăn, Quán Âm Cữu Diện... Có một pho tượng phổ thông nhất là Quán Âm thanh tịnh b́nh thùy dương liễu. Tượng này Ngài Trí Khải hằng tán dương, chúng ta cố gắng t́m hiểu.

Tượng Ngài h́nh người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương, tay trái cầm b́nh thanh tịnh, trong b́nh đựng nước cam lồ. Chúng ta hằng lạy mười hai câu nguyện sau khi tụng phẩm Phổ Môn, có câu “Nam mô thanh tịnh b́nh thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện”. Câu nguyện này đă diễn tả đúng h́nh tượng Ngài. Giờ đây, chúng ta t́m hiểu chi tiết qua h́nh tượng đó.

THÂM Ư. - Tại sao Bồ-tát Quán Thế Âm lại là người nữ ? Theo kinh Di Đà nói: người sanh về cơi Cực-lạc tuy chưa chứng quả Thánh vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A-hàm nói: người nữ có năm chướng không thể thành Phật... Thế mà, Bồ-tát Quán Thế Âm lại hiện thân người nữ ?

- Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân của đức từ bi. Muốn nói lên t́nh thương chân thành tha thiết nhất trong con người, không t́nh thương nào qua t́nh mẹ thương con. Mẹ đối với con là t́nh thương chân thành thâm thúy bao la, khó lấy cái ǵ có thể h́nh dung được. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sanh. Người mẹ dầu bận công ăn việc làm ǵ, một khi nghe tiếng con kêu khóc, mẹ buông bỏ tất cả vội vàng chạy lại vỗ về con. Đức Quán Thế Âm cũng thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng kêu thương của chúng sanh, Ngài liền hiện thân đến an ủi. V́ thế, gọi Ngài là Bồ-tát Quán Thế Âm. Người mẹ hiền của tất cả chúng sanh, người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nấc nở từ cơi ḷng của đàn con dại đang đắm ch́m trong bể khổ mênh mông, để đến xoa diệu, cứu thoát khiến mọi khổ năo đều được tiêu tan.

Tay mặt Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Tay trái cầm b́nh thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lồ rưới mát chúng sanh.

Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh th́ uốn ḿnh theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gơ th́ gió không thể lay, một khi bị gió lay là phải găy. Nếu yếu như cành liễu th́ chỉ buông rũ theo chiều gió. Cứng quá, mếm quá đều không có sức chịu đựng lâu dài. Cành dương nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí. Tức là tuy ch́u theo cảnh mà không bị cảnh chi phối. V́ thế, cành dương được tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Nhẫn nhục không có nghĩa ai làm sao cũng được, ai bảo ǵ cũng nghe. Chính bản chất của nó là khéo tùy thuận người, để hướng dẫn họ, theo đường lối hay lập trường của ḿnh. Tùy thuận mà không bị họ chi phối, ngược lại chi phối được họ. Người nhẫn nhục mới trông qua như rất yếu hèn, kỳ thật họ có sức mạnh phi thường, đă tự chiến thắng được t́nh cảm, được phản ứng của bản năng. Họ đă vượt ra ngoài phạm trù con người phàm tục, nếu lấy con mắt phàm tục nh́n họ th́ không thể nào hiểu nổi. Người chửi ta giận, người đánh ta đở, đó là bản năng tự vệ của tất cả mọi người. Bị chửi mà không giận, bị đánh mà không đở, ấy mới là việc khó làm, phi bậc thánh giả khó thể làm được. Hằng ngày chúng ta sống theo t́nh cảm, theo bản năng, thấy những phản ứng như vậy cho là phải lẽ, hợp lư. Nếu thấy người bị chửi mà không giận..., chúng ta liền đâm ra bực tức, khi dể họ, cho là kẻ hèn yếu nhát nhúa. Đâu ngờ, những kẻ ấy đă đứng trên đỉnh chúng ta, mà ở dưới này chúng ta vẫn tự cao tự đại.

Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. Chữ cam là ngọt. Chữ lồ đọc trại chữ lộ, tức là sương hay móc. Khi người ta bị nóng bức khô khan, nếu được một giọt nước cam lồ thấm vào cổ sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho ḷng từ bi của Bồ-tát. Khi chúng sanh bị lửa phiền năo thiêu đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ-tát, Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành. Chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới, ngọn lửa phiền năo của chúng ta nổi cháy rần rần, nếu không có giọt nước từ bi của Bồ-tát, chắc hẳn tất cả chúng ta đều phải chết thiêu trong ḷ phiền năo.

Từ bi là ḷng thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ, không thấy có quư tiện, ḷng thương chân thật b́nh đẳng. Sự quư báu cao cả của nó, chỉ có nước cam lồ mới đủ tính cách tượng trưng. Nước cam lồ chẳng những cứu người qua cơn khát cháy cổ, mà c̣n đem lại cho người mùi thơm ngon ngọt dịu. Từ bi chẳng những cứu người trong cơn nguy khốn, mà c̣n đem lại cho người nguồn an lạc vô biên. Bởi tính chất quư báu vô thượng của nước cam lồ như vậy, nên phải đựng nó trong một cái b́nh thanh tịnh. V́ của quư bao giờ cũng đựng trong món đồ quư.

B́nh thanh tịnh là tượng trưng ba nghiệp trong sạch. Chúng ta ôm ấp ḷng từ bi muốn ra cứu độ chúng sanh, nếu thân, miệng, ư chưa trong sạch th́ khó mong thực hiện ḷng từ bi. Nếu cố gắng thực hiện, một thời gian cũng lạc về danh hay v́ lợi. Ví như người có khoa y dược, sẵn sàng chữa trị bệnh khổ cho người, khi những con bệnh được lành, đương nhiên phải có sự đền đáp hay khen ngợi trên báo chí, nếu người ấy ư chưa trong sạch dễ nóng ḷng danh lợi. Do đó, dần dần làm hoen ố ḷng từ bi. Cho nên, muốn thực hiện ḷng từ bi, điều kiện tiên quyết là ba nghiệp phải thanh tịnh.

Muốn mang nước cam lồ ra rưới mát chúng sanh, phải dùng cành dương làm phương tiện. Bởi v́ chúng sanh trong đời này nghiệp chướng quá sâu dày, ít khi thấy lẽ phải. Họ chỉ sống theo bản ngă, sống v́ dục vọng của họ, khó ai làm cho họ hài ḷng. Dù người ấy sẵn sàng tiếp giúp họ trong khi khốn đốn, mà họ vẫn không biết ơn, đôi khi c̣n phản bội. Người sẵn ḷng từ bi ra tế độ chúng sanh, nếu thiếu đức tánh nhẫn nhục th́ sự tế độ khó được viên măn. Không phải ai ai cũng sẵn sàng đưa tay cho ta d́u ra khỏi con đường nguy hiểm hết đâu, dù họ là những kẻ mù. Có kẻ tin đưa tay cho ta d́u đi, song giữa đường vấp phải những ḥn đá nhỏ, hay chạm những gốc cây, là họ sừng sộ với ta. Có kẻ d́u đi được một đoạn, họ cho là nhọc nhằn khổ sở, không muốn đi nữa, rồi kiếm chuyện làm khó dễ ta. Có kẻ không ưng đưa tay cho ta  d́u, lại c̣n mắng nhiếc ta thậm tệ. Ở những trường hợp đó, dù ta có thiện chí muốn cứu giúp họ thế mấy, nếu thiếu đức nhẫn nhục, thử hỏi ta có thể làm được việc ǵ ? Bởi thế, người học đạo từ bi trước phải tập đức nhẫn nhục khi nhẫn nhục được thuần rồi mới ra thực hiện từ bi. Chưa tập được đức nhẫn nhục đă vội ra thực hành từ bi, chẳng những không làm được hạnh từ bi, mà lại phát sanh sân hận là khác. Cho nên, phải có cành dương rồi, sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sanh.

Để thấy rơ công hạnh từ bi, chúng ta hăy nghe đoạn văn tán dương năng lực nhành dương của ngài Thiên Thai:

“Thùy dương liễu biến sái cam lồ, trừ nhiệt năo dĩ giai đắc thanh lương, tầm thinh cứu khổ ư tứ sanh, thuyết pháp độ thoát ư lục đạo, bẩm từ bi kiên cố chi tâm, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng, hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất tùng, cố ngă tri lưu, đoan thừa tịnh quán, thành tụng mật ngôn, gia tŕ pháp thủy. Thị thủy giả, phương viên tùy khí, dinh hư nhậm thời, xuân dương đông ngưng, khẩm lưu lương chỉ, hạo hạo hồ, diệu nguyên mạc trắc, thao thao hồ, linh phái nan cùng, bích giáng tàng long, hàn đàm tẩm nguyệt, hoặc tại quân vương long bút hạ, tán tác ân ba, hoặc cư Bồ-tát liễu chi đầu sái vi cam lồ, nhất đích tài triêm, thập phương câu tịnh”.

Dịch:

“Cầm nhành dương (Ngài) rưới nước cam lồ lên khắp cả, trừ nhiệt năo (Ngài) làm cho mọi người đều được tắm trong ḍng suối thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài thuyết pháp để độ thoát cho lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm, không ai cầu mà chẳng ứng, không nguyện nào mà chẳng thành. Cho nên, chúng con là kẻ xuất gia, an trụ trong tịnh quán, chí thành đọc lại mật ngôn và gia tŕ pháp thủy. Tịnh thủy này vuông tṛn tùy theo b́nh chứa đựng, có hay không cũng tùy tiết tùy thời. Mùa xuân là loăng, mùa đông th́ đặc, khi chảy khi đọng thật là mênh mông; nguồn sâu khó lường, chảy măi thao thao, thật là ḍng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá, nước ngâm bóng loài rồng, ở dưới ao thu, nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh thủy này hoặc đọng dưới ng̣i bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng ân, hoặc nằm trên đầu nhành dương liễu của vị giác hữu t́nh để rưới thành cam lồ linh diệu. Chỉ cần một giọt nước rưới lên là mười phương đều được sạch trong”.

                                                            N. H.

Muốn diễn tả ḷng từ bi cao cả của Bồ-tát Quán Thế Âm, tác giả dùng giọt nước nhành dương, thật là linh động biến ảo. Nước không cố định ở một h́nh thức nào, tùy duyên biến chuyển, có khi là thể lỏng, có khi là thể cứng, có lúc lại biến thành hơi. Nếu chúng ta chấp nước chỉ có ở thể lỏng, tức không hiểu được nước. Không phải chỉ ở một h́nh thức cố định, mà linh động tùy duyên. Đủ duyên cơ cảm th́ Bồ-tát ứng hiện.

Nước khi đọng dưới hồ thu trong xanh in hiện bóng trăng, khi lóng trong khe đá làm nhà cửa loài rồng, lúc chảy ầm ầm thành suối gào thác đổ, thật không thể lường được diệu dụng của nước. Ḷng từ bi của Bồ-tát cũng thế, mênh mông như bể cả bao hàm tất cả chúng sanh, tràn trề như ngọn triều lên mang hạnh phúc cho mọi loài thọ hưởng. Bất cứ nơi nào, chốn nào có cảm th́ Bồ-tát đều ứng hiện. Sự ứng hiện tùy theo căn tánh chúng sanh, kẻ thấy Bồ-tát ở h́nh thức này, người cảm Bồ-tát nơi tướng trạng khác. Tựu trong có cảm thông nhất định có linh ứng.

Chỉ một giọt nước (nhỏ mực) đọng dưới ng̣i bút của hàng vua chúa cũng đủ làm cho muôn dân thấm nhuần ơn vũ lộ. Hoặc một giọt nước (giọt cam lồ) nằm trên đầu nhành dương liễu của bậc Bồ-tát cũng đủ giải thoát mọi loài chúng sanh. Ḷng từ bi không phải chỉ có ở trong tâm Bồ-tát, trong tâm những kẻ tu hành, mà c̣n có ở trong ḷng bậc đế vương, trong ḷng kẻ có quyền thế. Cho nên, ai cũng có thể là bậc cứu khổ chúng sanh, miễn họ phát tâm từ bi. Từ bi không phải là gia bảo dành riêng cho các bậc tu hành, mà nó là của chung tất cả nhân loại. Dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào, cũng có thể thực hiện từ bi được, nếu trong ḷng chứa sẵn từ bi.

Qua những lời tán dương trên, chúng ta thấy ḷng từ bi cao cả khôn lường. Chúng ta lễ tượng đức Quán Thế Âm luôn luôn phải ghi nhớ hai đức tánh căn bản của Ngài: nhẫn nhục và từ bi, để đem áp dụng vào bản thân chúng ta. Có thế, sự lễ bái mới thật là hữu ích và cần thiết vô cùng.

]


[mục lục][tựa][dẫn khởi]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8]

[Trang chu] [Kinh sach]