[Trang chu] [Kinh sach]

THÁNH ĐĂNG LỤC

[mucluc][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9]


VUA TRẦN THÁNH TÔNG

(1240-1290)
(Được ư chỉ nơi Quốc Sư TrúcLâm Đại Đăng)

            Thánh Tông là vua thứ ba đời Trần, con của Thái Tông. Lên ngôi ngày 15 tháng 02 năm Mậu Ngọ (1258), đổi niên hiệu Thiệu Long. Bản chất hiền tài, vẻ toát ra ngoài sáng ngời, mang sẵn những điều khác thừơng, xử sự dứt khoát, vừa xem rộng mọi sách vở, lại rất tinh thông nội điển. Vua ở ngôi hai mươi năm, rồi nhường ngôi cho Nhân Tông. Sau đó xuất gia ở chùa Tư Phúc, thờ Quốc sư Đại Đăng làm thầy. Hằng ngày vua thường bàn luận với các Thiền khách, được truyền sâu ư nghĩa thiền, tự là Vô Nhị Thượng Nhân. Vua từng mở Phật Sự Đại Minh Lục, có cảm một bài thi:

            Hơn bốn mươi năm một mảnh thành

            Vượt khỏi lao quan muôn lớp ngăn

            Động như hang trống vang tiếng gió

            Tĩnh tợ đầm yên rọi ánh trăng

            Trong câu năm huyền ḿnh thông được

            Chữ thập đầu đường mặc dọc ngang

            Có người hỏi ta tin tức ấy?

            Mây ở trời xanh nước trong b́nh.

            (Tứ thập dư niên nhất phiến thành

            Lao quan đào xuất vạn trùng quynh

            Động như không cốc phong xao hưởng

            Tĩnh nhược hàn đàm nguyệt măn minh

            Cú lư ngũ huyền thân thấu đắc

            Lộ đầu thập tự nhậm tung hoành

            Ngũ nhân vấn ngă hà tiêu tức?

            Vân tại thanh thiên thủy tại b́nh.)

            Một hôm, vua xem Đại Huệ Ngữ Lục, có cảm xúc làm bài kệ:

            Đập ngói xoi rùa ba chục niên

            Mấy phen xuất hạn bởi tham thiền

            Một mai thấu vỡ gương mặt thật

            Lỗ mũi xưa nay mất một bên.

            Nơi tai không tiếng, mắt không h́nh,

            Một mảnh tâm này sẵn tự thành

            Chẳng can thinh sắc ngoài môi lưỡi,

            Mặc người “bác báo” với “đô đinh”

            (Đả ngoă toản qui tam thập niên

            Cơ hồi hạn xuất vị tham thiền

            Nhứt triêu thức phá nương sanh diện,

            Tỹ khổng nguyên lai một bán biên.

            Nhăn tiền vô sắc nhĩ vô thinh

            Nhất phiến tâm đầu tự đả thành

            Thanh sắc bất can thần thiệt ngoại,

            Nhậm tha bác báo dữ đô đinh.)

            Vua lại tự thuật năm bài kệ:

            Từ khi bé bỏng đă vào thiền

            Đập ngói xoi rùa ngoại cầu quên

            Nhận được xưa nay mày mặt thật

            Cuối cùng đâu chẳng chỗ an nhiên.

            Chiếc đàn không điệu khảy suốt ngày

            Cửa vắng việc không chẳng bận rày

            Bản nhạc trong kia không kẻ biết

            Riêng có gió tùng họa âm này.

            Dọc ngang chẳng kẹt có không ky (cơ)

            Muôn pháp lăng xăng thảy chẳng hay

            Ngủ nghỉ, uống ăn tuỳ chỗ dụng.

            Lại không việc khác đáng làm chi.

            Khảy tay vỡ nát vạn trùng non,

            Thế ấy công phu cũng là nhàn.

            Lạnh nóng đến đây không chỗ biết

            Chưa từng can dự đến lăo nhân!

            Trong kia dư thiếu thảy đều không

            Phật cũng không chừ người cũng không

            Cảnh thu xa đến trời xa tít

            Mây khoá non xanh một sắc đồng.

            (Tự tùng quán giác nhập thiền lưu

            Đả ngoă toản qui một ngoại cầu

            Nhận đắc bổn lai chân diện mục

            Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu.

            Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm

            Nhàn môn vô sự khả quan tâm.

            Cá trung khúc phá vô nhân hội

            Duy hữu tùng phong họa thử âm.

            Tung hoành bất đọa hữu vô ky,

            Vạn pháp phân phân tổng bất tri.

            Khiết phạn đả miên tuỳ xứ dụng,

            Cánh vô tha sự khả ưng vi.

            Nhứt đàn chỉ phá vạn trùng san

            Giá cá công phu dă thị nhàn

            Hàn thử đáo lai vô sở thức

            Vị tằng phần thượng lăo nhân can.

            Cá trung vô khiếm diệc vô dư,

            Phật dă vô hề nhân dă vô

            Thu cảnh viễn lai thiên ngoại viễn,

            Thanh sơn vân toả tủy đô lô.)

            Vua lại nói kệ:

            Dụng của chân tâm,

            Tỉnh tỉnh lặng lặng.

            Không đi không đến,

            Không thêm không bớt.

            Vào lớn vào nhỏ,

            Mặc thuận mặc nghịch.

            Động như mây hạc,

            Tĩnh như tường vách.

            Nhẹ như sợi lông,

            Nặng tợ tảng đá.

            Hết sạch trọi trơn,

            Hiện bày lồ lộ.

            Chẳng thể so lường,

            Hoàn toàn không dấu.

            Nay v́ anh biện,

            Rành rẽ rơ ràng.

            Vua dạy chúng nói rộng: Xưa nay nói một câu rốt sau mới đến lao quan. Ba đời chư Phật bốn mắt nh́n nhau, sáu đời Tổ Sư có phần thối thân. Những người tham học hiện nay chọn nhằm trong câu tham lấy, lại hỏi các ông, nhằm trong câu làm sao tham? Nếu chẳng tham lấy th́ luống phí th́ giờ, một đời qua suông. Nếu cũng tham lấy, tức là môi miệng méo lệch, sọ năo nát vỡ. Nghe đến th́ lỗ tai như điếc, thấy đến th́ tṛng mắt tự rớt. Nay v́ mọi người, cũng chẳng được để luống qua, đâu khỏi bẻ sừng rồng dữ, nhổ râu cọp mạnh, mở toang chữ thập đầu đường, bỗng dưng nắm được lỗ mũi nửa bên, trong không chỗ chứng, ngoài không chỗ tu; không Phật đáng cầu, không pháp đáng trụ; mặc đấy cư sĩ Tỳ Da, dẫu cho tiên nhân Lộc Uyển, cuối cùng ngậm miệng im lời; tham đi tham lại, trọn là cơ rỉ chảy; nói hay nói dở, chính là một túi tạp nhạp. Đến như một chân một vọng, một phải một quấy, một nói một nín, một động một tịnh, một ra một vào, một ch́m một nổi, tin tức trong ấy chỗ nào được không? Chỗ nào được có? Các người! Câu làm sao nói? Vua bèn hét một tiếng, nói : Xưa nay không đen trắng, chỗ nào hiện xanh vàng?

            Vua bệnh, Thượng sĩ Tuệ Trung gởi thơ đến thăm, vua viết vào cuối trang đáp lại:

 

            “Hơi nóng hừng hực mồ hôi đẫm,

            Chiếc khố mẹ sanh vẫn ráo khô.”

            (Viêm viêm thử khí hăn thông thân,

            Hà tằng hoán đắc nương sanh khố?)

            Đến lúc bệnh nặng, vua thường lấy ngón tay gơ vào chiếc gối, như có sở đắc điều ǵ. Chốc lát, vua đ̣i bút viết bài kệ:

            Sanh như mặc áo

            Chết tợ cởi trần

            Từ xưa đến nay

            Không đường nào khác.

            (Sanh như trước sam

            Tử như thoát khố

            Tự cổ cập kim

            Cánh vô dị lộ)

           Liền hét, nói: Chữ bát mở toang đà trao phó, c̣n đâu việc nữa đáng tŕnh anh. Rồi vua đuổi hết kẻ hầu hạ, chỉ c̣n một ḿnh Nhân Tông đứng hầu một bên, thưa: Bệ hạ c̣n nhớ lời của ngài Vĩnh Gia chăng?

            “Rành rành thấy, không một vật,

            Cũng không người chừ cũng không Phật.

            Cơi cơi đại thiên bọt nổi trôi

            Tất cả Thánh Hiền như điện chớp...

            Dẫu cho ṿng sắt trên đầu chuyển,

            Định tuệ sánh tṛn vẫn không mất.”

            Vua nghe xong, bất chợt cười lên rồi gơ chiếc gối tụng:

            Rành rành thấy, không một vật,

            Cũng không người chừ cũng không Phật.

            Cơi cơi đại thiên bọt nổi trôi,

            Tất cả Thánh Hiền như điện chớp.

            Xong, ngay chiều hôm đó sấm gió nổi dậy, thấy một vần ánh sáng tṛn rọi nơi bức vách ngăn, vua liền băng, hưởng thọ 51 tuổi, nhằm ngày 22 tháng 05 năm Canh Dần (1290)

            Tác phẩm của vua gồm có:

            1. Văn Tập

            2. Thiền Tông Liễu ngộ ca

            3. Trị Giá Minh

            Ngoài ra đều chép trong Cơ Cừu Tập.

            Giảng:

            Thánh Tông là vua thứ ba đời Trần, con của Thái Tông. Lên ngôi ngày 15 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258), đổi niên hiệu Thiệu Long.

            Đúng ra vua Thánh Tông là vua thứ hai đời Trần. Sỡ dĩ ở đây nói Ngài là vua thứ ba là v́ khi cha Ngài là Trần Cảnh lên ngôi, tôn ông nội Ngài là Trần Thừa làm Thái Tổ, cha Ngài là Thái Tông và Ngài là Thánh Tông, nói theo Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông th́ Ngài là vị vua thứ ba đời Trần.

            Bản chất hiền tài, vẻ toát ra ngoài sáng ngời, mang sẵn những điều khác thường, xử sự dứt khoát, vừa xem rộng mọi sách vở, lại rất tinh thông nội điển. Vua ở ngôi hai mươi năm, rồi nhường ngôi cho Nhân Tông. Sau đó xuất gia ở chùa Tư Phúc, thờ Quốc Sư Đại Đăng làm thầy. Hằng ngày vua thường bàn luận với các thiền khách, được truyền sâu ư nghĩa thiền, tự là Vô Nhị Thượng Nhân. Ở đây ghi tiểu sử nhà vua quá đơn giản, không nói rơ chi tiết. Ở trong quốc sử có ghi một đoạn về vua Trần Thánh Tông mà tôi quí vô cùng. Trong thời Ngài làm vua th́ đất nước thạnh trị thái b́nh. Lúc Trần Thái Tông c̣n ở ngôi vua th́ giặc Nguyên sang đánh một lần. Thời gian hai mươi năm Ngài làm vua th́ không có giặc. Khi Ngài truyền ngôi cho Nhân Tông lên làm Thái Thượng Hoàng, th́ giặc Nguyên cất quân sang đánh hai lần. Sau khi đuổi giặc ra khỏi bờ cơi, th́ vua Nhân Tông họp quần thần để thưởng người có công phạt người có tội. Khi ấy quân lính khiên mấy ḥm sớ hàng giặc của quan quân ra giữa triều, xin nhà vua mở ra để xử tội. Bấy giờ Ngài cũng có mặt trong buổi đại triều đó, Ngài ra lịnh cho vua Nhân Tông đem mấy ḥm sớ hàng giặc đốt hết. Ngài nói rằng: “ Khi giặc xâm lăng, thấy thế giặc mạnh, quân ta rút lui, những người này nhát họ sợ, nên xin đầu hàng giặc. Bây giờ giặc rút hết rồi, họ có muốn đầu hàng cũng không có ai để họ đầu hàng. Thôi, hăy đốt hết đi, nếu mở ra nêu tên, họ nhục nhă và có tội, chi bằng đốt hết để họ yên ḷng sống với ḿnh cho vui vẻ”. Ngài là một ông vua đạo đức thật thâm trầm. Ngài sợ khui ra nêu tên từng người, nếu họ có mặt trong triều th́ xấu hổ khó sống được. Thật ḷng bao dung độ lượng ít người có được. Đó là điểm đặc biệt chỉ có ở nhà Trần, người làm được việc này là Trần Thánh Tông. Hiệu Ngài là Vô Nhị Thượng Nhân. Vô Nhị là không hai. Vô Nhị Thượng Nhân là bậc Thượng Nhân không hai.

            Vua từng mở Phật sự Đại Minh Lục có cảm một bài thi:

            Tứ thập dư niên nhất phiến thành,

            Lao quan đào xuất vạn trùng quynh.

            Động như không cốc phong xao hưởng,

            Tĩnh nhược hàn đàm nguyệt măn minh.

            Cú lư ngũ huyền thân thấu đắc,

            Lộ đầu thập tự nhậm tung hoành.

            Hữu nhân vấn ngă hà tiêu tức,

            Vân tại thanh thiên thủy tại b́nh.

            Dịch :

            Hơn bốn mươi năm một mảnh thành,

            Vượt khỏi lao quan muôn lớp ngăn.

            Động như hang trống vang tiếng gió,

            Tĩnh tợ đầm yên rọi ánh trăng.

            Trong câu năm huyền ḿnh thông được.

            Chữ thập đầu đường mặc dọc ngang.

            Có người hỏi ta tin tức ấy,

            Mây ở trờixanh nước trong b́nh.

            Nhà vua đọc cuốn Phật Sự Đại Minh Lục, tức là cuốn Lục về Phật Sự Nhà Đại Minh. Ngài cảm hứng làm ra bài thơ nầy.

            Hơn bốn mươi năm một mảnh thành, vượt khỏi lao quan muôn lớp ngăn. Nhà vua nói Ngài tu từ thưở nhỏ cho tới lớn, trên bốn mươi năm, tâm ngài mới thành một khối, không c̣n tạp niệm lăng xăng đă thành một mảnh rồi. Nhờ tâm định thành một mảnh mới “vượt khỏi lao quan muôn lớp ngăn”. Thiền tông thường nói tam quan là ba lớp cổng vào, cổng chót là lao quan. Lao là cứng chắc, cổng chót nầy rất cứng chắc, người qua được cổng nầy rất là khó nhọc nên gọi là lao quan. Ngài đă vượt khỏi lao quan là đă đại ngộ. Được như thế là Ngài đă dày công tu hành hơn bốn mươi năm, chớ không phải ít.

            Động như hang trống vang tiếng gió, Tĩnh tợ đầm yên rọi ánh trăng. Ngài nói lúc động giống như âm thanh vang dội trong hang trống; âm thanh thế nào vang dội như thế ấy, thoáng qua như gió, cái hang không dính dáng ǵ với âm thanh. Ư nói tất cả các duyên trần đến với Ngài tuy là động, nhưng tâm Ngài không vướng bận dao động. Tăng Ni hiện có mặt ở đây là người xuất gia ai dám nói câu nầy đưa tay lên coi! Học tới đây chúng ta mới thấy Ngài là một ông vua cư sĩ việc nước đa đoan mà tu quá hay, chúng ta phải phục. Đó là lúc động, c̣n lúc tịnh th́ “tĩnh tợ đầm yên rọi ánh trăng”. Khi Ngài được an tịnh th́ tâm lặng yên giống như cái đầm nước đứng yên trong trẻo, trăng rọi sáng. Trăng sáng rọi và nước đứng yên, hợp nhau thành mặt nước phẳng lặng, phản ánh sáng ngời bất động. Ư nói tâm Ngài an tịnh sáng suốt chớ không mờ mịt đúng với câu “tỉnh tỉnh lặng lặng phải” của Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác. Hai câu nầy nói lên tâm thái của Ngài sau khi ngộ đạo, Ngài hành động như cái hang trống, tuy có tiếng vang, nhưng nó dội ra ngoài hết không dính dáng với cái hang. Lúc Ngài yên tịnh th́ tâm Ngài vẫn lặng mà sáng, không mờ mịt như trăng sáng rọi trên đầm nước trong lặng.

            Trong câu năm huyền ḿnh thông được, chữ thập đầu đường mặc dọc ngang. Năm huyền là chỉ cho ngữ cú huyền diệu của tông Lâm Tế, là những từ chuyên môn. Tổ Lâm Tế nói Tam huyền ở đây ngài nói Ngũ (năm) huyền. Ngài nói những ngữ cú của tông Lâm Tế ngài đă thấu suốt, không c̣n nghi ngờ nữa. Thế nên “chữ thập đầu đường mặc dọc ngang”. Chữ thập chỉ cho ngă tư. Người đi đường tới ngă tư có bốn ngă rẽ, nếu chưa biết đường đi th́ ngơ ngác do dự không biết rẽ ngă nào, nên phải xem bản đồ hoặc hỏi người chỉ đường. Đối với chỗ này th́ Ngài thông suốt hết không c̣n nghi ngờ. Ư hai câu này nói lư thiền Lâm Tế Ngài đă thông suốt và trên đường tu hành Ngài không c̣n mắc kẹt, không c̣n nghi ngờ.

            Có người hỏi ta tin tức ấy, mây ở trời xanh, nước trong b́nh. Tin tức ấy là tâm như hang trống tiếng vang như gió thổi qua, như nước đầm lặng trong ánh trăng rọi sáng, tâm thấu suốt năm huyền của tông Lâm Tế và đầu đường chữ thập rành rẽ không ngại ngùng nghi ngờ. Nếu có người hỏi tin tức này th́ ngài trả lời: “Mây ở trời xanh nước trong b́nh”. Câu này của Thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm Ngài lập lại để trả lời. Qua bài kệ này, chúng ta thấy vua Trần Thánh Tông ngộ đạo không kém các thiền sư khác. Tuy ngài xuất gia ở chùa Từ Phúc, nhưng chùa Từ Phúc ở trong hoàng thành, Ngài vẫn c̣n tiếp xúc với người trong hoàng thành. Ngài không bỏ thành lên núi non như Trần Nhân Tông, cho nên chúng ta thấy như Ngài không xuất gia, mà tu đạt đạo như thế thật ít người làm được.

            Một hôm, vua xem Đại Huệ Ngữ Lục có cảm xúc làm bài kệ:

            Đả ngơa toản qui tam thập niên,

            Cơ hồi hạn xuất vị tham thiền.

            Nhất triêu thức phá nương sanh diện,

            Tỹ khổng nguyên lai một bán biên.

                                    * * *

            Nhăn tiền vô sắc nhĩ vô thinh,

            Nhất phiến tâm đầu tự đả thành.

            Thanh sắc bất can thần thiệt ngoại,

            Nhậm tha bác báo dữ đô đinh.

 

            Dịch:

            Đập ngói xoi rùa ba chục niên,

            Mấy phen xuất hạn bởi tham thiền.

            Một mai thấu vỡ gương mặt thật,

            Lỗ mũi xưa nay mất một bên.

                                    * * *

            Nơi tai không tiếng, mắt không h́nh,

            Một mảnh tâm này sẵn tự thành.

            Chẳng can thinh sắc ngoài môi lưỡi,

            Mặc người “bác báo” với “đô đinh”.

            Đập ngói xoi rùa ba chục niên, mấy phen xuất hạn bởi tham thiền. Đập ngói xoi rùa là một việc làm rất khó nhọc. Ư Ngài nói tu hành công phu rất khó nhọc, trải qua thời gian dài đến ba mươi năm, nhờ tham thiền mới có mấy lần xuất hạn mồ hôi. Thường thường khi bị cảm uống thuốc vô một lát, th́ mồ hôi xuất ra liền nhẹ khỏe. Ở đây xuất hạn mồ hôi không nói ư này, mà nói người tu bao nhiêu năm ôm ấp nghi vấn trong ḷng không giải quyết được. Khi tâm lóe sáng, những thắc mắc nghi ngờ được phá vỡ, người nhẹ nhơm vui vẻ, giống như người đau uống thuốc, xuất hạn mồ hôi nhẹ khỏe vậy. Người tu nào cũng phải có những cơn xuất hạn như vậy mới xứng là người tu, nếu chưa được lần nào th́ chưa xứng đáng. Ở đây qúi vị xuất hạn được mấy lần rồi? Người tu phải có quyết tâm, nỗ lực dụng công không lười mỏi mới có ngày xuất hạn. Do quyết tâm dám liều chết để tu mới có kết quả.

            Xưa ngài Pháp Hiển đi Ấn Độ, tới núi Linh Thứu vào lúc chiều tối, Ngài xin chư tăng ở dưới chân núi cho phép Ngài lên núi để chiêm bái chỗ Phật nói pháp. Chư tăng dưới núi cản không cho đi, v́ trên núi có hai con sư tử đen ăn thịt người. Nhưng Ngài nhất định đi, v́ mục đích của Ngài tới đây là để chiêm bái thánh tích này, nếu không đi th́ không tṛn bổn nguyện. Chư tăng ở chân núi cử hai người hướng dẫn Ngài đi. Tới nơi, hai vị tăng xuống núi, Ngài xin ở lại và đêm đó Ngài thức tụng kinh. Gần tới nửa đêm th́ hai con sư tử đen tới, hai con đứng hai bên nh́n Ngài. Ngài nói rằng: “Nếu các ngươi muốn ăn thịt ta, hăy chờ ta tụng xong thời kinh th́ tùy ư muốn ăn th́ ăn.” Hai con sư tử ngoắc đuôi nằm ngó Ngài tụng kinh. Ngài tụng xong thời kinh mà sư tử không ăn thịt Ngài. Ngài thấy nó hiền quá đưa tay vuốt đầu nó và nói: “Thôi các ngươi hăy để cho người ta tu, các ngươi ở đây ủng hộ Phật pháp”. Hai sư tử từ từ đi nơi khác. Chúng ta thấy cái chết kề một bên, Ngài liều chết để đựơc tṛn bổn nguyện th́ Ngài không chết. Đó là gương can đảm của người tu. Người gan dạ tu th́ có kết quả không nghi. Chúng ta tu v́ sợ chết quá nên chết hoài, chết hết đời này tới đời khác. Chúng ta tu mà qúa nhác nhúa, ngồi thiền sợ đau, sợ tê chân sau này bị bệnh, không dám để nó đau. Hoặc khi tu vừa có trạng thái hơi khó chịu là sợ sanh bệnh, không cố gắng nên không tới đâu hết. Dám liều chết, chấp nhận tất cả để được tu, nhờ vậy mà thành công.

            Một mai thấu vỡ gương mặt thật, lỗ mũi xưa nay mất một bên. Vua Trần Thánh Tông gọi thể chân thật là gương mặt thật, Lục Tổ gọi là bản lai diện mục. Người tu khi thấu vỡ gương mặt thật rồi, mới thấy nơi ḿnh không phải chỉ có cái thân vô thường tạm bợ và cái tâm sanh diệt lăng xăng, mà c̣n có thể chân thật thanh tịnh sáng suốt lúc nào cũng hiện hữu. Chừng đó “lỗ mũi xưa nay mất một bên”. Tại sao lỗ mũi ḿnh mất hết một bên? Mỗi người chúng ta ai cũng có cái mũi ở trước mặt, thế mà đâu có ai thấy được toàn thể cái mũi, chỉ thấy một phần chót mũi thôi. Cái mũi chỉ cho thể chân thật có sẵn nơi mỗi người. Ngài nói nhờ tự nhận ra thể chân thật có sẵn nơi ḿnh, mới biết xưa nay ḿnh chỉ thấy có mỗi một bên, giống như cái mũi hồi nào tới giờ ở trước mặt ḿnh, mà ḿnh chỉ thấy có một phần ở chót mũi. Bây giờ mới nhận ra được trọn vẹn. Bốn câu này Ngài nói lên sở ngộ của Ngài.

            Nơi tai không tiếng, mắt không h́nh, một mảnh tâm này sẵn tự thành. Nhà vua nói tai không chạy theo tiếng, mắt không chạy theo h́nh sắc. Chỗ này con Ngài là Trần Nhân Tông cũng nói “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Nơi tai không dính tiếng, nơi mắt không dính h́nh sắc, thấy nghe mà không dính mắc với trần cảnh là vô tâm. Nghe như vậy là tai không tiếng, chớ không phải là không có tiếng vang vào lỗ tai. Âm thanh có làm vang động màn nhĩ, nhưng nghe mà không dính mắc âm thanh nói là tai không tiếng. Mắt không phải là không thấy cảnh vật, thấy mà không dính trần cảnh gọi là không h́nh. Tăng Ni chúng ta thấy nghe có được như vậy không, hay tai nhiều tiếng, mắt nhiều h́nh? Ngài th́ tai nghe không dính tiếng, mắt thấy không dính h́nh, nên chỉ là một mảnh tâm thanh tịnh không có cái ǵ lẫn lộn, xen tạp cả.

            Chẳng can thinh sắc ngoài môi lưỡi, mặc người “bác báo” với “đô đinh”. Bác báo là màu sắc rằn ri, đô đinh là tiếng ngân rền của chuông trống.Khi Ngài chỉ c̣n một mảnh tâm thanh tịnh th́ đối với sắc thinh Ngài không duyên theo, đối với ngôn ngữ Ngài chỉ thấy ở ngoài môi lưỡi. Thế nên Ngài thấy sắc nghe tiếng mà thấy như bóng như vang, không dính mắc. Do đó mặc t́nh người đời có tô vẽ h́nh sắc ǵ, tác động âm thanh ǵ Ngài cũng không dao động. Đó là cái nh́n của một ông vua chớ không phải của một vị tăng. Qua hai bài kệ này chúng ta thấy khả năng tu thiền quá tuyệt vời của một ông vua đa đoan việc dân việc nước. Ngày nay tu sĩ chúng ta không bận việc nước việc nhà, mà có nhiều người than: Chúng ta sống trong thời mạt pháp, không mong ǵ tu thiền được; v́ tu thiền phải bậc thượng căn thượng cơ mới tu được. Những người nói câu này ôm mặc cảm cho rằng ḿnh sống thời mạt pháp hạ căn hạ trí, người xưa sống thời chánh pháp tượng pháp, thượng căn thượng trí. Ḿnh nhận đủ hai cái thấp tệ này mong ǵ tu tới chỗ giác ngộ. Thôi th́ tu gieo duyên đời sau tu nữa, tu từ từ chừng nào Phật Di Lặc ra đời chừng đó hăy tiến. Nghĩ như thế th́ không nỗ lực tu, cứ thả trôi thả nổi chờ duyên.

            Theo tôi th́ không như vậy, tuy thời Phật là thời chánh pháp, nhưng cũng có những tỳ kheo phá giới không tu hoàn tục. Đối với những người này là chánh pháp hay mạt pháp? Tuy có Phật có pháp nhưng họ rút lui không tu, thí như mạt pháp. Ngày nay tuy xa Phật trên hai ngàn năm trăm năm, nhưng chúng ta tin lời Phật dạy, khẳng định đường lối tu và quyết tâm chết sống, để tu cho thành tựu đạo quả, th́ mạt pháp chuyển thành chánh pháp rồi. Hạ quyết tâm tu như vậy th́ không có mặc cảm ḿnh tu trong thời mạt pháp. Về căn cơ, nói rằng người xưa th́ thựơng căn thượng trí, ngừơi nay th́ hạ căn hạ trí, lấy đâu làm chuẩn mực? Nếu nh́n chung người thế gian th́, người xưa khôn người nay có khôn không? Tôi thấy người nay khôn hơn v́ thừa kế cả sự nghiệp tinh thần của người xưa, nhưng tại sao riêng người tu lại không khôn hơn? Qúi vị xét kỹ chỗ này thấy có vô lư không? Chúng ta không thể nói người ở thời ăn lông ở lỗ khôn hơn người ở thời văn minh ngày nay. Tại sao người xưa tu đựơc mà người thời nay tu không được? Việc này có thể tin được không? Vậy mà chúng ta cứ truyền miệng và mặc cảm rồi tu lơ là như vậy đó! Có phải chúng ta tự làm cho ḿnh lui sụt không? Chúng ta phải thấy rằng: Người xưa quyết tâm tu ngộ đạo, th́ người nay quyết tâm tu cũng ngộ đạo. Đâu quá tệ như chúng ta tưởng. Hiểu như vậy chúng ta mới có tự tín và dũng mănh vươn lên, nếu không th́ cứ thả trôi thụt lùi, không chịu cố gắng. Đó là quan niệm lệch lạc lâu nay đa số người tu mắc phải. Bây giờ chúng ta quyết xoá bỏ những cái sai lầm đó, để lo tu hành và nhất định chúng ta phải tu như người xưa. Ở thế gian người xưa nghiên cứu được năm, người nay nghiên cứu được tới mười, nhưng tại sao người tu thời nay thua sút người tu thời xưa quá vậy? Chúng ta phải tiến lên cho bằng người xưa, chớ không để thua, nếu hơn th́ càng tốt. Đó là cái nh́n của tôi về chỗ khiếm khuyết của Tăng Ni hiện tại.

            C̣n cư sĩ cũng phải nhớ ông vua cư sĩ tu được, ḿnh tu không được là chuyện vô lư. Đừng đổ thừa tại tôi cư sĩ, gia duyên ràng buộc, bận quá nhiều việc tu không nổi. Nói như vậy là đổ thừa trốn trách nhiệm, để rồi lười biếng không chịu tu. Phải gan dạ nh́n thấy chỗ yếu đuối của ḿnh để chỉnh đốn nổ lực tu. Ông vua việc nước việc dân đa đoan mà tu được, ḿnh là người dân ít việc thảnh thơi hơn, nhất định phải tu được và tu hay hơn ông vua nữa. Với quan niệm tu hành như thế, quí Phật tử sẽ tiến và tiến mạnh hơn, chớ không lùi.

            Vua lại tự thuật năm bài kệ:

            Tự tùng quán giác nhập thiền lưu,

            Đả ngoả toản qui một ngoại cầu.

            Nhận đắc bản lai chân diện mục,

            Đáo đầu hà xứ bất hưu hưu.

            Dịch:

            Từ khi bé bỏng đă vào thiền,

            Đập ngói xoi rùa ngoại cầu quên.

            Nhận được xưa nay mày mặt thật,

            Cuối cùng đâu chẳng chỗ an nhiên.

            Từ khi bé bỏng đă vào thiền, đập ngói xoi rùa ngoại cầu quên. Ngài nói lúc c̣n bé Ngài đă được học và gia công nghiên cứu thiền. Nhưng học và nghiên cứu thiền là chuyện t́m kiếm vụn vặt ở bên ngoài rốt cuộc rồi không được ǵ, mà phải bỏ và quên hết.

            Nhận được xưa nay mày mặt thật, cuối cùng đâu chẳng chỗ an nhiên. Ngài nói khi bỏ hết quên hết kiến giải học hỏi, mới nhận ra mặt mày chân thật xưa nay của chính ḿnh. Mặt mày chân thật xưa nay là danh từ chuyên môn, c̣n gọi là “Bản lai diện mục”. Nhận được “Bản lai diện mục” rồi th́ đi đâu ở đâu cũng được an nhiên tự tại.

            Bốn câu kệ nầây vua Trần Thánh Tông kể buổi ban đầu lúc thiếu thời, Ngài đă nghiên cứu t́m kiếm đạo lư thiền. Do tận lực gia công t́m kiếm, nên một hôm Ngài nhận ra “Bản lai diện mục” của chính ḿnh. Từ đó Ngài đi đâu ở chỗ nào cũng an nhiên tự tại. Chúng ta tu thiền cũng khá nhiều năm vậy ai đă nhận được mặt mày chân thật của ḿnh?- Có người nhận ra có người chưa nhận. Song người nhận ra, đi đứng qua lại có an nhiên không? Hay có lúc nhẹ nhàng thảnh thơi có lúc cũng lăng xăng rối rắm?

            Ngài là một ông vua mà dám nói đi đâu ở đâu lúc nào cũng được an nhiên tự tại. Đi lại, ăn ở đều là hoạt động, vậy trong hoạt động đó tâm nào hoạt động, tâm nào an nhiên tự tại? Nghĩa là lúc nhà vua ngự triều, lúc nhà vua xử tội người, bá quan tâu việc nầy việc nọ, lúc đó nhà vua có được an nhiên không? Nếu an nhiên làm sao giải quyết việc nước, làm sao xử tội? Mọi hoạt động của nhà vua như đi đứng nói nín là tướng động của thân, nghĩ suy là tướng động của tâm, c̣n “Bản lai diện mục” lúc nào cũng an nhiên tự tại hết. Sở dĩ chúng ta không an nhiên tự tại v́ chạy theo tướng động của thân, chạy theo vọng niệm lăng xăng của tâm. Khi nhận ra “Bản lai diện mục” th́ đi đứng nằm ngồi nói nín, lúc nào “Bản lai diện mục” cũng an nhiên, không động. Hiểu vậy mới không thắc mắc khi nhà vua ngự triều bá quan tâu việc nầy việc nọ, nếu an nhiên th́ như gỗ đá làm sao giải quyết được? Dĩ nhiên lúc đó cũng có khởi niệm để giải quyết nhưng giải quyết rồi thôi, “Bản lai diện mục” không bao giờ thiếu vắng.

            Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm,

            Nhàn môn vô sự khả quan tâm.

            Cá trung khúc phá vô nhân hội.

            Duy hữu tùng phong họa thử âm.

            Dịch:

            Chiếc đàn không điệu khảy suốt ngày,

            Cửa vắng việc không chẳng bận rày.

            Bản nhạc trong kia không kẻ biết,

            Riêng có gió tùng họa âm này.

            Chiếc đàn không điệu khảy suốt ngày, cửa vắng việc không chẳng bận rày. Ngài nói Ngài có một cây đàn không âm điệu, nhưng khảy tiếng vang suốt ngày. Song tiếng đàn nầy khảy ở cửa vắng, chỗ không việc bận rộn. Nếu ở chỗ cửa có người, nhiều việc lăng xăng, tâm bận rộn th́ đàn không khảy, bặt hết âm thanh. Quí vị có nghe tiếng đàn của vua Trần Thánh Tông khảy không? Tiếng đàn nầy khó nghe quá! Tại sao? V́ chúng ta ở chỗ cửa có người, việc đa đoan tâm bận rộn, nên không nghe được tiếng đàn nầy. Ví dụ ở trên núi gió thổi thông reo, nếu chúng ta lăng xăng bận rộn việc trong chùa, lúc đó có nghe tiếng gió thổi thông reo không? Chắc chắn là không nghe, chỉ khi nào việc rảnh rang tâm thư thả ngồi dưới gốc thông mới nghe tiếng thông reo. Vậy tiếng thông reo có giành riêng cho người rảnh rang nghe, hay lúc nào nó cũng tự reo, gió thổi th́ thông reo nó không là của ai, không giành riêng cho ai cả, ai cũng có quyền nghe và ai cũng có thể nghe. Song, nếu người việc bận rộn tâm lăng xăng th́ không nghe, người việc rảnh rang tâm yên tỉnh, ngồi thư thả dưới gốc thông th́ nghe tiếng thông reo. Cũng vậy, tiếng đàn không điệu ai cũng có sẵn, nhưng nếu ai bận rộn nhiều việc tâm lăng xăng suốt ngày, th́ không nghe được tiếng đàn nầy. Nếu ai việc rảnh rang tâm thanh tịnh th́ đàn không điệu nầy khảy nghe suốt ngày. Ai là người họa được bản nhạc nầy?

            Bản nhạc trong kia không kẻ biết, riêng có gió tùng họa âm nầy. Bản nhạc không âm điệu có sẵn nơi mỗi người, ít có người biết. Tại sao? V́ người đời đều chạy theo trần cảnh, chạy theo những chuyện bên ngoài đa đoan rối rắm, nên không nhận ra. Chỉ có gió thổi qua rặng tùng mới họa được bản nhạc nầy. Ngài nói nơi mọi người chúng ta ai cũng có cây đàn không dây không điệu, lúc nào cũng phát ra âm thanh vi diệu. Âm thanh vi diệu đó chỉ có người vô tâm vô sự mới nghe được. Âm thanh của bản nhạc ḥa khắp hư không, chỉ có gió núi cây cỏ... mới họa được tiếng nhạc nầy. Đây là bản nhạc có sẵn muôn đời ở nơi mỗi người, không phải gặp duyên nó mới có. Người nghe và họa được bản nhạc nầy phải sống trong cảnh thiên nhiên, bầu trời lặng lẽ. Ư nói tất cả chúng ta ai cũng có thể chân thật thanh tịnh sáng suốt, nhưng nếu chúng ta chạy theo duyên trần dính mắc ngoại cảnh, th́ thể chân thật bị che khuất không nhận ra được. Nếu chúng ta buông xả tất cả, việc rảnh rang tâm thanh tịnh, sống với thiên nhiên th́ mới nhận ra thể chân thật nơi ḿnh. Ư này Ngài diễn tả qua cây đàn không dây không điệu.

            Tung hoành bất đọa hữu vô ky,

            Vạn pháp phân phân tổng bất tri.

            Khiết phạn đả miên tùy xứ dụng,

            Cánh vô tha sự khả ưng vi.

            Dịch:

            Dọc ngang chẳng kẹt có không ky (cơ),

            Muôn pháp lăng xăng thảy chẳng hay.

            Ngủ nghỉ, uống ăn tùy chỗ dụng,

            Lại không việc khác đáng làm chi.

            Dọc ngang chẳng kẹt có không ky, muôn pháp lăng xăng thảy chẳng hay. Ngài nói chúng ta dù có đi dọc hay nằm ngang cũng không dính không kẹt với cái cơ rỗng không nầy. V́ muôn pháp lăng xăng lộn xộn, nên chúng ta không thấy không biết chỗ dọc ngang tự tại đó.

            Ngủ nghỉ, uống ăn tùy chỗ dụng, lại không việc khác đáng làm chi. Khi nhận được cái cơ rỗng không dọc ngang nầy rồi, th́ mọi hành động đi đứng nằm ngồi ăn uống ngủ nghỉ đều được an nhiên tự tại, không có việc ǵ khác hết. Ư nói người tu khi đă giác ngộ nhận ra thể thanh tịnh sáng suốt (cơ rỗng không) th́ dọc ngang tự tại, thong dong không có ǵ làm cho ngăn ngại ràng buộc.

            Nhất đàn chỉ phá vạn trùng san,

            Giá cá công phu dă thị nhàn.

            Hàn thử đáo lai vô sở thức,

            Vị tằng phần thượng lăo nhân can.

 

            Dịch :

            Khảy tay vỡ nát vạn trùng non,

            Thế ấy công phu cũng là nhàn.

            Lạnh nóng đến đây không chỗ biết,

            Chưa từng can dự đến lăo nhân.

            Khảy tay vỡ nát vạn trùng non, thế ấy công phu cũng là nhàn. Nguyên chữ non là san hay sơn nghĩa là núi. Ngài nói chỉ cần khảy móng tay một cái th́ muôn lớp núi tan vỡ hết. Quí vị có tin nổi không? Phép ǵ lạ lùng vậy? Giả sử tôi nói, tôi khảy móng tay một cái, ngọn núi Phụng Hoàng nầy tan vỡ, quí vị dám tin không? Chỉ một ngọn núi nhỏ mà quí vị chưa tin huống ǵ muôn trùng núi non. Nhưng với tôi th́ tôi tin. Như vậy tôi có tin suông không? Điều nầy rất dễ tin, nhưng mà khó nói. Tại sao? V́ núi sông cũng như quả địa cầu chỉ là tướng duyên hợp hư ảo không thật. Khi chúng ta nhận ra và hằng sống với thể chân thật rồi, th́ vĩnh kiếp bất di bất dịch, không đổi dời, không biến động, sánh với những cái duyên hợp hư ảo biến động nầy không có nghĩa! Thế nên đứng trên thể bất di bất dịch, không sanh diệt thấy những cái sanh diệt biến dịch như tṛ chơi không nghĩa lư ǵ hết. Ư nói mọi tướng hư ảo dù có vững như núi, rộng như biển, lớn như quả địa cầu chỉ là tṛ chơi đối với bản thể chân thật. Giống như tuổi thọ của con phù du sớm c̣n tối mất sánh với tuổi thọ con người chẳng có nghĩa lư ǵ. Cũng thế, tướng sanh diệt của pháp hữu vi ở thế gian nầy như núi non sánh với thể chân thật không có giá trị, nên nói chỉ khảy móng tay là nó tan vỡ. Như vậy người tu Phật là người t́m cho ra bắt cho gặp cái chân thật muôn đời, c̣n những cái ở thế gian nầy mà chúng ta đang sống đang thấy là cái tạm bợ không quan trọng. Thấy như vậy mới biết việc làm của người tu là việc phi thường, lớn lao vô kể, nặng nề vô cùng. Chớ không phải việc tầm thường cho qua ngày qua tháng của người cạo tóc mặc áo nhuộm, ăn chay, ngày tụng một thời kinh, đêm ngồi thiền vài tiếng đồng hồ là đủ. Chúng ta phải t́m cho ra cho được thể chân thật nơi ḿnh mới là việc quan trọng. Khi ấy khảy móng tay là vỡ nát muôn trùng núi non, việc làm nầy chỉ là tṛ chơi, nhàn lắm không quan trọng.

            Lạnh nóng đến đây không chỗ biết, chưa từng can dự đến lăo nhân. Lạnh nóng đến đây không chỗ biết, không có nghĩa không biết lạnh không biết nóng, mà lạnh nóng đây chỉ cho thời gian hết đông tới hạ, nó cứ trôi qua không có ǵ bận tâm. V́ sao? V́ việc ấy không có can dự ǵ đến lăo nhân. Lăo nhân là người già. Lăo nhân nầy là ai? Nơi tôi nói lăo nhân th́ được rồi, nơi quí vị người hai mươi tuổi, người ba mươi tuổi nói lăo nhân được không? Đầu quí vị chưa bạc mà sao nói lăo nhân? Lăo nhân ở đâu? Lăo nhân sống vô hạn lượng có sẵn nơi mỗi người, không riêng ǵ người già tóc bạc mặt nhăn mới gọi là lăo nhân, mà đứa trẻ mới sanh ra năm mười tuổi, nhẫn đến hai ba mươi tuổi..., ai cũng có vị lăo nhân tuổi thọ vô lượng ấy cả. Ngày xưa tôi đọc truyện Nhựt Bổn có câu chuyện rất lư thú: Một vị sư tu Tịnh độ gặp một vị sư tu Thiền. Sư tu Thiền hỏi sư tu Tịnh độ:

            - Năm nay sư bao nhiêu tuổi?

            Sư tu tịnh độ đáp:

            - Tuổi tôi bằng tuổi Phật A Di Đà.

            Sư tu Thiền hỏi tiếp:

            - Phật A Di Đà năm nay bao nhiêu tuổi?

            Sư tu Tịnh độ đáp:

            - Tuổi Phật A Di Đà bằng tuổi tôi.

            Sư tu Tịnh độ nói như thế có hỗn láo không? Phật A Di Đà là Phật Pháp thân tuổi thọ vô lượng. Vị lăo nhân ở đây chỉ cho Phật Pháp thân tuổi thọ vô lượng bằng tuổi của Phật A Di Đà. Vị lăo nhân nầy không phải là ông già răng rụng đầu bạc, mà là con người bất tử, muôn kiếp không đổi dời không sanh diệt. Con người bất tử ai cũng có sẵn. Ngay nơi con người sinh diệt vô thường nầy có thể chân thường bất diệt, chớ không phải đợi chết rồi nhập Niết bàn mới bất sanh bất diệt. Ở đây vua Trần Thánh Tông gọi là lăo nhân. Vị lăo nhân nầy mới khảy móng tay làm tan vỡ muôn trùng núi non, chớ lăo nhân theo nghĩa thông thường khảy móng tay cũng không làm rung rinh được cục đất có đâu làm tan vỡ vạn trùng sơn!

            Cá trung vô khiếm diệc vô dư,

            Phật dă vô hề nhân dă vô.

            Thu cảnh viễn lai thiên ngoại viễn,

            Thanh sơn vân tỏa tủy đô lô.

            Dịch:

            Trong kia dư thiếu thảy đều không,

            Phật cũng không chừ người cũng không.

            Cảnh thu xa đến trời xa tít,

            Mây khóa non xanh một sắc đồng.

            Trong kia dư thiếu thảy đều không, Phật cũng không chừ người cũng không. Chữ “trong kia” không phải ở trong chùa hay trong chánh điện hay trong núi trong rừng, mà “trong kia” chỉ cho thể chân thật có sẵn nơi mỗi người, ở bài kệ trước gọi là lăo nhân. Nơi thể chân thật không có cái thiếu, không có cái dư. Nếu có thiếu có dư th́ có tướng sanh diệt. V́ không tướng sanh diệt nên không có Phật, không có người . Tại sao? V́ c̣n phân biệt nên thấy ḿnh mê là chúng sanh phàm phu, Phật th́ giác ngộ nên gọi là Phật. Thể chân thật thanh tịnh không có tướng sanh diệt, không có mê và giác nên không có Phật và chúng sanh. Mọi người ai cũng có thể chân thật, nhưng v́ mê nên quên gọi là phàm phu, nếu giác nhận ra thể chân thật gọi là Phật. Vậy chuyện mê và giác là chuyện của phàm phu chớ không phải chuyện của thể chân thật bất sanh bất diệt.

            Ví dụ: Ông cha để lại cho mỗi người con một viên ngọc quí. Người biết lấy ra dùng th́ trở thành giàu sang, người không biết th́ không lấy được nên nghèo. Giàu và nghèo là chuyện của người biết lấy ḥn ngọc và không biết lấy ḥn ngọc. Ḥn ngọc trước sau vẫn là ḥn ngọc tự nó không có giàu nghèo. Giàu nghèo là danh từ tạm dùng của người đời, chớ không phải ḥn ngọc giàu nghèo. Quí vị là người giàu hay nghèo? Có nhiều người than cha mẹ nghèo không để của lại cho ḿnh, nên bây giờ ḿnh sống thân sơ thất sở, nghèo nàn. Than như vậy có đúng không? Chúng ta ai cũng có ḥn ngọc quí mà không biết lấy ra xài. Nếu biết lấy ra xài th́ ai cũng giàu hết. Chúng ta là chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa, cha mẹ giàu mà bỏ nhà ra đi lang thang cầu thực ở xứ người nghèo đói khổ sở. Lúc trở về thấy cha giàu quá không dám nh́n, đến khi nh́n được cha th́ hưởng hết gia tài sự nghiệp trở nên giàu có. Như vậy nghèo muốn được giàu không khó.

            Nhiều người than tu hành khó lắm, phải chay lạt, thức khuya dậy sớm đủ thứ khó nhọc. Tôi hỏi quí vị vua Trần Thánh Tông tu có khó không? Ngài làm vua việc dân việc nước đa đoan, cung phi mỹ nữ đầy cung, vàng ngọc của báu đầy kho... Vậy mà Ngài tu được, nhận ra “Bản lai diện mục” Ngài là người giàu lại giàu hơn nữa. Chúng ta ngày nay nghèo khó cực khổ, việc nhận ra ḥn ngọc có sẵn phải là chuyện thiết tha lắm, sao không nổ lực để nhận? Chuyện giàu và nghèo trong nhà Phật chỉ ở tại mê và giác thôi, mê là chúng sanh, giác là Phật. Hể mê th́ làm chàng cùng tử lang thang cầu thực, giác th́ trở thành trưởng giả phú nhân. Giàu nghèo chỉ cách nhau ở mê và giác, dễ như trở bàn tay, đâu có khó. Nếu khó th́ các ông vua tu không được, v́ làm vua quá sung sướng hưởng thọ mọi thứ dục lạc, đâu có ở chùa chay lạt, thức khuya dậy sớm cực nhọc như chúng ta ngày nay. Như vậy giá trị của việc tu Phật gốc ở chỗ giác ngộ, chớ không phải ở chỗ cực khổ. Thế mà nhiều người cho rằng tu là phải công phu khổ hạnh, phải ngủ ngồi, phải ăn ngày một bữa... mới có công phu. Đọc sử Phật chúng ta thấy Ngài tu khổ hạnh sáu năm, sức kiệt da bọc xương mà không thành tựu đạo quả. Ngài nói khổ hạnh chỉ làm cho tâm trí mờ tối, chớ không đưa đến giác ngộ. Muốn giác ngộ phải sống b́nh thường, đói th́ ăn, mệt th́ ngủ, nhưng phải điều độ tỉnh giác mới có trí tuệ. Đừng cho rằng đày đọa thân xác nầy cho đến kiệt sức mới có công phu và thành đạo. Quan niệm như thế là sai lầm, không hiểu giá trị của đạo Phật. Chủ yếu của đạo Phật là dạy con người tu giải thoát mê mờ để được giác ngộ. Tức là chuyển mê thành giác chớ không làm ǵ khác. Do đó mà vua Trần Thánh Tông nói Phật cũng không người cũng không. Quí vị đừng nghe nói không có Phật không có chúng sanh, rồi nghĩ rằng: tu chi cho cực khổ uổng công, không có Phật tu làm ǵ? phải nhớ tuy không có Phật mà có giác, biết lấy viên ngọc quí ra xài th́ thành trưởng giả. Không giác, không biết lấy viên ngọc th́ làm kẻ cùng tử khổ sở. Ai làm kẻ cùng tử th́ mê, ai làm trưởng giả th́ giác. Việc nầy không ai bắt buộc, tự ư thức hay không ư thức thôi.

            Cảnh thu xa đến trời xa tít, mây khóa non xanh một sắc đồng. Cảnh thu ở đây không phải cảnh mùa thu ở miền Nam. Mùa thu ở miền Nam th́ mưa dầm, khí hậu ẩm ướt, đất śnh lầy. Mùa thu ở miền Bắc hay ở Trung Hoa th́ bầu trời trong ít mưa ánh nắng soi sáng. Tôi xin hỏi, ánh nắng rọi trong bầu trời và bầu trời là một hay hai? _Dường như hai mà không hai. Nếu một th́ bầu trời sáng luôn không tối, song ngày th́ sáng đêm th́ tối, bầu trời có sáng có tối. Sáng là do có ánh nắng rọi, tối là do không có ánh nắng rọi. Như vậy nói một không được, mà nói hai cũng không được, v́ nó không rời nhau. Ngài nêu sự kiện nầy ngầm ư nói, đa số người tu đều nghĩ rằng ḿnh tu là bỏ cái này để cầu cái kia, bỏ mê cầu giác. Nếu bỏ mê th́ quảng cái mê đi đâu? Nếu cầu giác th́ t́m giác ở chỗ nào? Giả sử một lúc nào đó chúng ta bừng tỉnh sáng lư đạo, lúc đó cái mê đi đâu? Chuyện dễ hiểu nhất là khi ngủ th́ cái thức đi đâu? Và khi thức th́ cái ngủ đi đâu? Ngủ và thức thấy như hai, nhưng bỏ cái ngủ t́m cái thức th́ t́m ở đâu? Mở mắt th́ thức nhắm mắt th́ ngủ. Chuyện mở mắt nhắm mắt rất là dễ, mệt th́ nhắm mắt lại ngủ, tỉnh th́ mở mắt ra thức. Ngủ và thức chỉ khác ở chỗ mở mắt và nhắm mắt thôi, chớ đâu có đôi mắt thứ hai nào khác. Cũng không có con mắt ngủ bị móc bỏ ra thế con mắt thức vào, chỉ là đôi mắt có sẵn từ trước tới giờ. Cũng vậy, mê và giác là tự nơi ḿnh, nếu ḿnh mê th́ không giác, nếu ḿnh giác th́ không mê. Mê giác không tách rời, nên ở đây Ngài dùng nắng thu và bầu trời thu để diễn tả.

            Sau đây Ngài lại dùng mây khóa non xanh để diễn tả. Mây và núi dường như hai, nhưng nếu phân tách cái nào là mây cái nào là núi th́ không phân tách được, v́ nó không rời nhau. Dụ này nhắc mọi người nhớ ai cũng có sẵn tánh gíác, nếu chúng ta chịu quay lại nhận ra th́ gọi là trở về, nếu quên nó chạy theo ngoại cảnh th́ không nhận được. Như vậy, biết quay lại tánh giác là tỉnh, quên tánh giác chạy theo ngoại cảnh là mê. Khi nhận ra tánh giác rồi mới biết mê và giác cũng ngay đó không có riêng. Ngài chỉ nơi mọi người có sẵn thể chân thật bất sanh bất diệt, biết quay lại th́ nhận được, hướng ra ngoài t́m cầu th́ không nhận được, mải mê mờ trầm luân trong sanh tử. Năm bài kệ này nói lên tâm hồn trong sáng của vua Trần Thánh Tông khi đă thấy đạo. Điều này cho chúng ta tin Ngài là người ngộ đạo không nghi ngờ.

            Sau đây là bài kệ vua nhắc nhở moị người thiết tha tu học.

            Chơn tâm chi dụng,

            Tỉnh tỉnh tịch tịch.

            Vô khứ vô lai,

            Vô tổn vô ích

            Nhập đại nhập tiểu

            Nhậm thuận nhậm nghịch

            Động như vân hạc

            Tỉng như tường bích

            Kỳ khinh như mao

            Kỳ trọng như thạch

            Sái sái nhi tịnh

            Lỏa lỏa nhi xích

            Bất khả độ lượng

            Toàn vô tung tích

            Kim nhật vị quân

            Phân minh phẩu phách

            Dịch:

            Dụng của chơn tâm,

            Tỉnh tỉnh lặng lặng.

            Không đi không đến,

            Không thêm không bớt.

            Vào lớn vào nhỏ,

            Mặc thuận mặc nghịch.

            Động như mây hạc,

            Tỉnh như tường vách.

            Nhẹ như sợi lông,

            Nặng tợ tảng đá.

            Hết sạch trọi trơn,

            Hiện bày lồ lộ.

            Chẳng thể so lường,

            Hoàn toàn không dấu.

            Nay v́ anh biện,

            Rành rẽ rơ ràng.

            Dụng của chơn tâm, tỉnh tỉnh lặng lặng. Ngài nói dụng của chơn tâm th́ tỉnh tỉnh lặng lặng nên khi dụng tâm tu phải ở trạng thái tỉnh tỉnh lặng lặng mới đúng. Chỗ này Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác cũng đă dạy: “Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, lặng lặng hôn trầm sai, tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh loạn tưởng sai”. Muốn nhận ra thể chân thật th́ phải tỉnh mà lặng. Lúc ngồi thiền không khởi vọng tưởng là lặng, nếu lặng mà gục lên gục xuống th́ sai, nên nói lặng lặng hôn trầm sai. C̣n nếu tỉnh mà nghĩ nhớ trăm chuyện cũng sai, nên nói tỉnh tỉnh loạn tưởng sai. Vậy th́ thế nào mới đúng? Ngồi thiền phải tỉnh sáng, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, muỗi cắn vẫn biết đau, mà không khởi nghĩ tưởng ǵ hết là đúng. Đúng là v́ ḿnh đang sống với thể chân thật. Một phút tỉnh tỉnh lặng lặng là một phút sống với thể chân tâm thật, một phút lặng lặng tỉnh tỉnh là một phút sống vơí thể chân thật. Đây là điều tối quan trọng mà người tu thiền phải biết.

            Có nhiều vị nói tu thiền mà chưa biết ngồi thiền như thế nào, cũng trải tọa cụ lót bồ đoàn, thân ngồi ngay ngắn, không ngủ gục, vẫn thấy vẫn nghe, nhưng vọng tưởng khởi cứ chạy theo không biết dừng. Tu như thế không hết vô minh phiền năo. Ngồi thiền thân yên mà tâm cũng phải tỉnh lặng. Trạng thái này hơi khó diễn tả. Giả sử quí vị ngồi ngoài cội thông một ḿnh nh́n trời nh́n mây, mà không có một niệm dấy khởi, không nhớ nhà, không nhớ chuyện người, tâm lặng lẽ tỉnh sáng. Lúc đó là lúc qúi vị đang sống bằng thể chân thật. Rất tiếc mọi người chúng ta ai cũng cho cái tính toán khôn dại, cái nghĩ nhớ xưa nay là ta, nên lúc lặng lẽ th́ cho rằng mất ta. Cái tính toán khôn dại là tướng sanh diệt không phải là ta. Bấy giờ không nghĩ suy, không tính toán hơn thua, không bàn chuyện phải quấy, tâm yên lặng sáng suốt, gió thổi tai vẫn nghe, muỗi cắn vẫn biết đau... Lúc đó là lúc thể chân thật hiện tiền.Niệm phải quấy hơn thua vừa khởi liền mất là cái vô thường không thật. Thể lặng lẽ sáng suốt ai cũng có sẵn, nhưng v́ cứ chạy theo niệm sanh diệt nên quên.

            Chúng ta tu là thấy vọng niệm vô thừơng không đuổi theo, biết ḿnh có cái chân thường xoay lại sống với nó là tu. Thể chân thường tỉnh lặng hằng hữu không bao giờ thiếu vắng, thế mà chúng ta cứ quên, ít khi nhớ tới. Có khi nào qúi vị ngồi yên lặng, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe chừng năm phút không? Ít khi có nên ông Phật của ḿnh không hiện. Lúc nào Ngài cũng ở bên cạnh mà ḿnh đâu có ngó ngàng tới, suốt ngày cứ chạy theo mấy cái phải quấy hơn thua không chịu nhớ Ngài. Khi khổ, thắp hương cầu Phật độ con, cầu không toại nguyện th́ trách Phật không thương con không độ con! Phật ở bên ḿnh mà ḿnh không bao giờ nhớ tới, bây giờ bảo độ làm sao độ đây? Phật không thương ḿnh hay ḿnh bội bạc? Có một bức tranh diễn tả sự việc này mà tôi tâm đắc. Trong tranh vẽ Phật A Di Đà đứng duỗi tay chờ để kéo chúng sanh đang ngoi đầu lao nhao ở dưới biển. Chúng sanh chỉ đưa tay là Ngài kéo lên, thế mà không chịu đưa, cứ lao nhao lội hoài ở dưới biển. Như vậy làm sao Ngài cứu? Cũng vậy Phật ḿnh có sẵn chỉ cần xoay lại là nhận ra, thế mà không chịu xoay lại, cả ngày cứ chạy hết chỗ này tới chỗ kia để cầu. V́ chạy ra ngoài cầu quên ông Phật của ḿnh, nên mới thỉnh tượng Phật đeo để cho nhớ. Giờ tọa thiền, tụng kinh là giờ thiêng liêng nhất thế mà cũng không chịu ngừng, vẫn cứ chạy. Thật đáng thương! Tu là lặng và tỉnh tâm, chỉ bấy nhiêu đó thôi. Đừng t́m kiếm cái xa lạ như phóng hào quang, thăng thiên độn thổ. Đó chỉ là cái dụng bên ngoài.

            Không đi không đến, không thêm không bớt. Thể chân thật không h́nh tướng hằng thanh tịnh sáng suốt, bất sanh bất diệt. Nếu có đi có đến, có thêm có bớt th́ sanh diệt vô thường. Mỗi tối chúng ta tụng Bát Nhă Tâm Kinh, nào là bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm...Đọc một hơi mà không biết cái ǵ bất sanh, bất diệt... Đọc để Phật nghe cho có phước hay để Phật ghi sổ khen ḿnh tụng kinh nhiều? Tụng kinh mỗi ngày cốt để ḿnh nhớ lại ông Phật nơi ḿnh bất sanh, bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Tụng kinh với ư nghĩa này rất thực tế mà chúng ta lại quên đi.

            Vào lớn vào nhỏ, mặc thuận mặc nghịch. Vào lớn là từ thân người bốn năm chục kư, khi chết sanh thành con voi thân nặng cả tấn. Vào nhỏ là từ thân con voi cả tấn, chết sanh làm người thân chỉ nặng bốn năm chục kư. Mặc thuận mặc nghịch là thể tỉnh tỉnh lặng lặng của mỗi người, vốn thanh tịnh không sanh diệt, không tăng giảm, dù cho gặp cảnh thuận được vui vẻ, hoặc gặp cảnh nghịch khổ đau, vẫn như nhiên không đổi dời.

            Động như mây hạc, tĩnh như tường vách. Động là thân xê dịch tới lui, tay chân cử động. Ư nói lúc thân hoạt động, cái thể tỉnh tỉnh lặng lặng cũng như mây như hạc bay trên bầu trời tự do, không ngăn ngại dính mắc. Tĩnh là yên lặng, khi ngồi hay nằm một ḿnh th́ thể tỉnh tỉnh lặng lặng như tường vách, không dao động, không có cái ǵ kềm chế.

            Nhẹ như sợi lông, nặng như tảng đá. Nếu nói thể tỉnh tỉnh lặng lặng nhẹ th́ nhẹ như sơị lông, nếu nói nó nặng th́ nặng như tảng đá. Tại sao vậy? V́ nặng nhẹ là tướng so sánh bên ngoài. Thể tỉnh tỉnh lặng lặng đâu có tướng trạng để so sánh, nói nhẹ như sợi lông cũng được, nói nặng như tảng đá cũng được. Hết sạch trọi trơn, hiện bày lồ lộ. Khi nào những niệm dấy động như hơn thua, đựơc mất, phải quấy... sạch hết trọi hết trơn th́ thể tỉnh tỉnh lặng lặng hiện bày rơ ràng.

            Chẳng thể so lường, hoàn toàn không dấu. Thể tỉnh tỉnh lặng lặng không h́nh không tướng, làm sao so sánh đo lường được? Không tướng mạo làm ǵ có dấu vết?

            Nay v́ anh biện, rành rẽ rơ ràng. Ngài nói, nay v́ mọi người mà nói rơ cái dụng của chân tâm (thể chân thật), không dấu diếm ǵ cả. Ngài là một ông vua bận rộn việc nước việc dân, cung phi mỹ nữ đầy cung, danh vị tột bực mà Ngài tu đựơc nên nói lên lư đạo tuyệt vời như thế. Chúng ta là người xuất gia khép ḿnh trong giới luật, ở chùa, duyên ngoài cắt hết mà chưa thông được lư đạo như Ngài, thật là hổ thẹn.

            Vua dạy chúng nói rộng: “Xưa nay nói, một câu rốt sau mới đến lao quan. Ba đời chư Phật bốn mắt nh́n nhau, sáu đời Tổ Sư có phần thối thân”.

            Xưa nay nói là người xưa nói và người nay nói. Một câu rốt sau là câu nói làm cho người nghe bặt suy nghĩ. Lao quan là cửa cứng chắc, đến chỗ tột cùng. Ngài nói người xưa cũng như người nay nói một câu làm người nghe bặt suy nghĩ, th́ phá vỡ lao quan đến chỗ tột cùng. Chỗ đó là chỗ Ba đời chư Phật, bốn mắt nh́n nhau. Phật nh́n đệ tử bằng hai con mắt, đệ tử nh́n Phật cũng bằng hai con mắt, mắt Phật và mắt đệ tử nh́n nhau cảm thông là bốn con mắt. Chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai dùng hai con mắt nh́n đệ tử, đệ tử cũng dùng hai con mắt nh́n Phật cảm thông gọi là bốn mắt nh́n nhau. Vậy thầy tṛ cảm thông nhau là cảm thông cái ǵ? Phật biết nh́n, chúng ta cũng biết nh́n, Phật thấy chúng ta cũng thấy nhưng tại sao Phật thấy mà Phật giác, chúng ta cũng thấy lại mê? Chúng ta thấy mà mê là thấy cái ǵ?

            Ví dụ tất cả chúng ta nh́n b́nh hoa, nếu mỗi người nh́n mà không ai khởi niệm xấu đẹp th́ thấy b́nh hoa không khác. Nếu khởi niệm th́ cái thấy của mỗi người có khác, người th́ thấy b́nh hoa chưng không khéo, người th́ thấy màu hoa này đẹp, hoa kia màu không đẹp, nh́n tổng quát b́nh hoa tất cả chúng ta thấy như nhau là chúng ta đồng có một cái biết như nhau. Nhưng v́ mỗi người khởi niệm phân biệt khác nhau, nên thấy khác nhau. Như vậy nếu bốn mắt nh́n nhau, mà nh́n với cái biết như nhau th́ cảm thông nhau. Giống như bốn mắt của Phật và của đệ tử nh́n nhau, Phật biết đệ tử, đệ tử biết Phật. Nếu đệ tử khởi niệm thứ hai phân biệt th́ cái thấy của đệ tử khác cái thấy của Phật. - Khác ở niệm thứ hai -. Đa số chúng ta nh́n b́nh hoa, không chịu dừng ngay khi thấy, vừa nh́n thấy liền khởi phân biệt đẹp xấu hay dở... đó là niệm khen chê ưa ghét. Thấy vừa ư th́ khen, không vừa ư th́ chê. Thấy qua niệm khen chê ưa ghét là mê. Nh́n b́nh hoa chỉ thấy b́nh hoa, không khởi niệm ǵ hết là giác. Qúi vị nh́n thấy b́nh hoa, tôi hỏi có thấy b́nh hoa không? Qúi vị trả lời có thấy b́nh hoa. Nhưng tôi hỏi qúi vị có thấy “cái tôi thấy” b́nh hoa không? Quí vị trả lời sao? Cái b́nh hoa là cái bị thấy của tôi, khi qúi vị nh́n b́nh hoa, cũng thấy được cái bị thấy của tôi. Nhưng cái hay thấy b́nh hoa của tôi qúi vị có thấy không? Nếu qúi vị không khởi niệm thứ hai phân biệt th́ thấy cái hay thấy của tôi liền. Cái thấy của tôi thế nào cái thấy của qúi vị thế ấy,v́ đồng nhau, không thấy sao được! Nếu có niệm thứ hai là hết thấy. Nhà vua nói ba đời chư Phật bốn mắt nh́n nhau, là chỗ này đây. Đức Phật đưa cành hoa sen, nh́n khắp đại chúng, Ngài Ma Ha Ca Diếp nh́n Phật mĩm cười. Ngài cười là do thấy được cái thấy của Phật, nên được Phật truyền tâm ấn. Cái thấy của Phật và cái thấy của Ngài Ma Ha Ca Diếp như nhau, nếu khác nhau th́ không được truyền. Hiện tại cái thấy của quí vị và cái thấy của tôi có như nhau không? Thầy thấy như thế này, tṛ thấy như thế khác, v́ vậy mà chúng ta đi trong khác biệt. Từ đi trong khác biệt đó nên bao nhiêu người bị đau khổ. Nếu chúng ta có được cái nh́n như nhau không khác nhau th́ đâu có khổ đau.

            Tại sao ở đây nói sáu đời tổ sư có phần thối thân? Chữ thối thân mới nghe thấy khó hiểu, nhưng qua câu chuyện sau đây sẽ hiểu. Sa di Đạo Tín đến lễ Tam Tổ Tăng Xán, thưa:

            - Xin Ḥa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.

            Ngài hỏi:

            - Ai trói buộc ngươi?

            - Không ai trói buộc.

            - Đă không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát.

            Đạo Tín liền đại ngộ, bước lùi lại đảnh lễ Tổ. Đó là ngài Đạo Tín thối thân.

            Chư Tổ chỉ cần nghe một câu nói là thấy quan niệm sai lầm của người học đạo. Từ lâu chúng ta cứ nghĩ ḿnh là phàm phu vô minh phiền năo, nghĩ như vậy nên nói vô minh che đậy, phiền năo trói buộc, rồi buồn than không biết tu chừng nào mới hết những thứ này! Quí vị thử t́m coi vô minh ở đâu? T́m không thấy vô minh ở đâu tại sao nói vô minh che? Nói như vậy là tưởng tượng. Vô minh tưởng tượng, trói buộc cũng tưởng tượng. Phật không cho phép người tu thiền tưởng tượng. Ngài dạy phải nh́n thật, nh́n thẳng. Nh́n thật th́ không thấy ai đem phiền năo trói buộc ḿnh cả, nên không cầu giải thoát. Vô minh cũng vậy. Nh́n thẳng th́ đâu có ai đem vô minh che ḿnh, chỉ tại ḿnh quên ḿnh chạy theo cảnh. Quên ḿnh chạy theo cảnh là vô minh, quên cảnh “nhớ ḿnh” th́ hết vô minh, rất đơn giản. Do đó chỉ cần một câu nói là thiền sư ngộ, ngộ liền lùi lại đảnh lễ. Thối thân có phần là vậy.

            “Những ngừơi tham học hiện nay trọn nhằm trong câu tham lấy, lại hỏi các ông, nhằm trong câu làm sao tham?”

            Ngài nói những người tham học thiền hiện nay, nghe thiền sư nói một câu, cứ nghiền ngẫm câu đó hoài mà không chịu nh́n lại ḿnh. Ví dụ một thiền sinh nghe thầy nói: “Ông bị phiền năo trói buộc”. Thiền sinh ấy cứ nghĩ ḿnh bị phiền năo trói buộc, xin thầy dạy cho phương pháp để diệt trừ phiền năo. Khi được thầy hỏi: “Ai trói buộc ông?” Thiền sinh không chịu nh́n lại coi cái ǵ trói buộc ḿnh, mà cứ thắc mắc t́m hiểu ư nghĩa trói buộc là sao? Cứ chấp vào câu nói đó rồi phân tách t́m hiểu ư nghĩa th́ chừng nào thấy lẽ thật? Đa số ngừơi tu chúng ta ngày nay đều mắc phải cái bệnh này.

            “Nếu chẳng tham lấy th́ luống phí th́ giờ, một đời qua suông. Nếu cũng tham lấy, tức là môi miệng méo lệch, sọ năo nát vỡ.”

            Ngài nói nếu tu thiền mà không tham cứu th́ luống uổng một đời tu. Nếu cứ tham cứu măi câu nói của thầy, mà không thấy được lẽ thật th́ môi miệng méo lệch, sọ năo nát vỡ. Tại sao vậy? Khi nghe một câu nói của thầy Tổ, lẽ ra là phải xoay lại ḿnh, mà không chịu xoay lại, cứ nghiên cứu phân tách ư nghĩa câu nói, rồi dùng môi miệng bàn luận giảng giải, nên nói môi miệng méo lệch. Và cứ nghiên cứu phân tích măi nên đau cái đầu mà không ngộ đạo, v́ vậy nói sọ năo nát vỡ. Chữ tham ở đây không có nghĩa tham cứu t́m kiếm chữ nghĩa, mà tham là xoay lại nhận ra thể chân thật nơi ḿnh. Từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Tổ Huệ Khả, Tổ Tăng Xán... Tổ nào cũng dạy người tham thiền là xoay lại ḿnh. Ngài Thần Quang xin Tổ Bồ đề Đạt Ma dạy cho phương pháp an tâm. Tổ bảo “đem tâm ra ta an cho”. Bấy giờ nếu ngài Thần Quang phân tích t́m hiểu câu nói này th́ không thấy được lối vào. Ngài Thần Quang nghe Tổ bảo “đem tâm ra ta an cho”, liền xoay lại t́m th́ thấy nó mất tiêu, mới thưa: “Con t́m tâm không được”. Tổ bảo: “Ta an tâm cho ngươi rồi”. Ngài liền nhận ra lối vào. Người tu nếu nghe một câu nói của thầy Tổ, mà không chịu xoay lại ḿnh, nghe rồi bỏ qua, tuy có tu mà chẳng đựơc lợi ích, thật luống uổng một đời.

            Nghe đến th́ lỗ tai như điếc, thấy đến th́ tṛng mắt tự rớt.

            Ngài nói câu này lạ lùng quá! Tại sao nghe đến mà lỗ tai như điếc, thấy đến mà tṛng mắt tự rớt? Các thiền sư nói cốt là dạy người nghe xoay lại ḿnh. Thế mà người nghe lại dính ở câu nói của các Ngài, rồi phân tách chia chẻ luận bàn, không chịu xoay lại ḿnh. Nghe như vậy giống như người điếc, v́ nghe mà không biết các Ngài dạy cái ǵ. Thấy cũng vậy. Ví dụ tôi đang nh́n thấy b́nh hoa, qúi vị cũng đang nh́n thấy b́nh hoa. Tôi hỏi quí vị có thấy b́nh hoa không? Quí vị trả lời thấy. Tôi hỏi qúi vị có thấy đựơc cái thấy b́nh hoa của tôi không? Quí vị trả lời không. Quí vị thấy như vậy là tṛng mắt tự rớt. Tại sao rớt: “V́ quí vị đang thấy tôi thấy mà nói không thấy. Không thấy là mù, là tṛng mắt tự rớt. Đó là những câu nói hết sức đơn giản, mà chúng ta không biết nói cái ǵ. Tham thiền khó ở chỗ đó, v́ vậy mà chúng ta phải khéo! Mọi lời nói đều quay lại ḿnh th́ đúng, không quay lại th́ sai.

            Nay v́ mọi người, cũng chẳng được để luống qua, đâu khỏi bẻ sừng rồng dữ, nhổ râu cọp mạnh.

           Bây giờ vua Trần Thánh Tông v́ mọi người mà nói, nếu mọi người không nhận th́ uổng đi một đời vô ích. Điều Ngài nói là một hiện tượng của người bẻ sừng rồng dữ, nhổ râu cọp mạnh. Việc làm này nguy hiểm lắm.

            Mở toang chữ thập đầu đường.

Chữ thập đầu đường chỉ cho ngă tư có bốn đầu đường gặp nhau. Người đi đường đi tới ngă tư thường dừng lại xem đường nào là đường ḿnh sẽ đi. Chỗ này là chỗ nghi ngờ của người đi đường. Nhưng nếu là người rành đường tới đây không dừng lại, không nghi ngờ, đi thẳng là tới đích không trật, gọi là mở toang chữ thập đầu đường.

            Bỗng dưng nắm được lỗ mũi nửa bên.

            Mọi người ai cũng có cái mũi nguyên vẹn, tại sao ở đây Ngài nói cái mũi nửa bên? Cái mũi ở trên mặt, mắt nh́n xuống mũi chỉ thấy được chót mũi, không thấy trọn vẹn cái mũi nên nói cái mũi nửa bên. Bây giờ Ngài chỉ cho mọi người nắm trọn vẹn cái mũi của ḿnh, nhưng chỉ bằng cách nào? Tu là t́m ra lẽ thật, lẽ thật là chân lư. Chân lư không ở bên ngoài, không ở trong rừng, không ở trên núi, nó có sẵn muôn đời ở nơi ḿnh, lúc nào cũng sờ sờ không vắng, nhưng ḿnh cứ quên không nhớ. Giống như cái mũi là nguồn sống lúc nào cũng sờ sờ trước mặt, nếu bịt mũi lại chừng năm phút là chết ngay, thế mà ḿnh không nhớ cái mũi, cứ nhớ người nhớ vật bên ngoài. Cũng vậy, mọi người chúng ta ai cũng có thể chân thật lúc nào cũng hiện tiền, nhưng chúng ta cứ chạy theo trần cảnh, quên mất thể chân thật. Giống như con mắt cứ lo nh́n người cảnh ở ngoài, mà quên mất cái mũi đang ở bên nó. Ở đây Ngài chỉ cho chúng ta nắm cái mũi của ḿnh, tức là xoay lại nhận ra thể chân thật có sẵn nơi ḿnh. Sau đây là câu chuyện nắm mũi của đệ tử Mă Tổ:

            Ngài Thạch Củng và Ngài Trí Tạng đi dạo chơi. Thạch Củng hỏi Trí Tạng:

            - Sư đệ biết bắt hư không chăng?

            Trí Tạng đáp:

            - Biết bắt.

            - Làm sao bắt đựơc?

            Trí Tạng lấy tay chụp hư không.

            Thạch Củng nói:

            - Làm thế ấy đâu bắt được hư không!

            - Sư huynh làm sao bắt được?

            Thạch Củng liền nắm mũi Trí Tạng kéo mạnh.

            Trí Tạng đau quá la:

            - Giết chết lỗ mũi người ta! Buông ngay!

            Thạch Củng bảo:

            - Phải làm như thế mới bắt được hư không.

            Trí Tạng về liêu đến khuya mới nhận ra ư chỉ ấy.

            Nghe qua câu chuyện này chúng ta thấy như là đùa, nhưng rất đạo vị. Thể chân thật không ở ngoài ḿnh, t́m ở ngoài là trật. Trong lỗ mũi có hư không, ngài Thạch Củng nắm lỗ mũi ngài Trí Tạng bít lại là nắm được hư không. Đồng thời hành động này của ngài Thạch Củng, cũng nhắm chỉ cho ngài Trí Tạng nhớ ngay nơi thân tứ đại có thể chân thật hằng hiện hữu, đừng có t́m bên ngoài, t́m bên ngoài th́ muôn đời không gặp. Thế mà lâu nay đa số Phật tử cứ t́m Phật ở bên ngoài. Thấy g̣ mối hiện lên có vẻ giống cái đầu người không tóc cho là Phật hiện, đem nhang đèn đến cúng bái cầu Phật ban phước cho. Thấy tảng đá có dáng vẻ hơi giống h́nh người nữ cho là Bồ tát Quán Thế Âm hiện đua nhau tới lạy. Cứ hướng ra ngoài mà cầu Phật ở hang này động kia, quên ông Phật có sẵn nơi ḿnh. Cho nên trong nhà Thiền nói “Vác Phật đi cầu Phật”. Ông Phật nơi ḿnh th́ quên, cứ vác ông Phật của ḿnh đi lễ bái cầu khẩn ông Phật bằng gỗ, bằng đất... ở ngoài. Như vậy có mê quá lắm không? Thật rất đáng thương!

            Trong không chỗ chứng, ngoài không chỗ tu.

            Ngài nói thể chân thật có sẵn nơi ḿnh, v́ quên chạy theo ngoại cảnh nên không nhận ra, bây giờ nhớ, xoay lại th́ nhận ra. Như vậy đâu có được cái ǵ mà nói chứng nói tu? Ở trước tôi nói mắt nhắm là ngủ, mắt mở là thức. Khi mắt mở ḿnh không được ǵ, khi mắt nhắm cũng không mất ǵ, con mắt vẫn là con mắt. Khi mắt nhắm th́ mi khép lại, khi mắt mở th́ mi nhướng lên, do phân biệt nên thấy có ngủ có thức, con mắt vẫn là con mắt, chỉ khác ở chỗ mi mở mi khép thôi. Cũng vậy, nói chứng nói tu chỉ là phương tiện chớ không có lẽ thật, lẽ thật là thể chân thật lúc nào cũng hiện tiền không vắng không thiếu.

            Không Phật đáng cầu, không pháp đáng trụ.

            Ngài nói Phật là thể chân thật của ḿnh mà ḿnh quên, nên cần phải xoay trở lại để nhận ra. C̣n pháp là phương tiện giúp cho ḿnh xoay lại để nhận ra thể chân thật. Phật là Phật của ḿnh th́ cầu ở đâu?

            Mặc đấy cư sĩ Tỳ Da, dẫu cho tiên nhân Lộc Uyển, cuối cùng ngậm miệng im lời.

            Thể chân thật không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả luận đàm, chỗ nầy dù cho cư sĩ Duy Ma Cật ở thành Tỳ Da có nói ngược nói xuôi, nói đông nói tây cũng không dính dáng. Tiên nhân ở Lộc Uyển sau khi tu thành Phật, v́ chúng sanh thuyết pháp, cuối cùng cũng ngậm miệng im lời. Tới chỗ nầy th́ không c̣n câu ǵ để nói. Nói đó chỉ là phương tiện giống như ngón tay chỉ mặt trăng, không phải là thể chân thật. Thể chân thật th́ không lời để nói. Chỗ nầy ni sư Diệu Nhân cũng từng nói “ uổng khẩu vô ngôn” và vua Trần Thánh Tông cũng nói “ngậm miệng im lời”, nghĩa là không dùng ngôn ngữ nói được mà phải xoay lại ḿnh mới nhận ra.

            Tham đi tham lại, trọn là cỏ rỉ chảy.

            Ngài nói, người học đạo nếu nghe những câu những lời của Tổ Sư dạy, rồi cứ nghiền ngẫm phân tích câu đó hoài là làm cho lụn bại hư hoại không lợi ích.

            Nói hay nói dở chính là một túi tạp nhạp.

            Nghe vị nầy nói văn chương lưu loát cho là hay, nghe vị kia nói thô tháo cho là dở, căn cứ vào ngôn ngữ phân biệt hay dở là làm chuyện tạp nhạp không đi tới đâu.

            Đến như một chân một vọng, một phải một quấy, một nói một nín, một động một tịnh, một ra, một vào, một ch́m, một nổi, tin tức trong ấy chỗ nào được không? Chỗ nào được có? Các người! Câu làm sao nói? Vua bèn hét một tiếng, nói: “Xưa nay không đen trắng, chỗ nào hiện xanh vàng?”

            C̣n thấy hai bên đối đăi: “Chân vọng, phải quấy, nói nín, động tịnh, ra vào, ch́m nổi là c̣n phân biệt. C̣n phân biệt hai bên th́ không thể được. V́ chỗ tỉnh tỉnh lặng lặng không có đối đăi. Nếu có đối đăi th́ không c̣n tỉnh tỉnh lặng lặng, dấy niệm phải quấy hơn thua là hết tỉnh tỉnh lặng lặng rồi, chỗ tỉnh tỉnh lặng lặng không phải một không phải hai, không phải chân không phải vọng, nói nín đều trật. Chỗ đó chỉ là tỉnh tỉnh lặng lặng, không có một vật, ngôn ngữ không thể nói đến được, nên không thể nói có, không thể nói không. Nói không được th́ đâu thành câu! V́ ngôn ngữ không thể nói đến được, nên vua hét một tiếng, rồi nói tiếp: “Xưa nay không đen trắng, chỗ nào hiện xanh vàng?” V́ chân tâm vốn tỉnh tỉnh lặng lặng, không h́nh tướng th́ đâu có màu sắc trắng đen xanh vàng mà phân biệt! Không phân biệt được nên Ngài nói “tỉnh tỉnh lặng lặng”, thật là khéo.

            Đọc lại người xưa, chúng ta mới thấy cái nh́n của các Ngài thật tường tận tột cùng, chớ không phải thấy cạn cợt mà cho là triệt ngộ. Đó là chỗ đặc biệt của Ngài.

            “Vua bệnh, Thượng sĩ Tuệ Trung gởi thơ đến thăm, vua viết vào cuối trang đáp lại:

            Viêm viêm thử khí hăn thông thân,

            Hà tằng hoán đắc nương sanh khố.

            Dịch:

            Hơi nóng hừng hực mồ hôi đẵm,

            Chiếc khố mẹ sanh vẫn ráo khô.

            Hơi nóng hừng hực mồ hôi đẵm. Ngài nói giờ phút quyết liệt gần tắt thở, đau đớn nhức nhối toàn thân giống như hơi nóng hừng hực mồ hôi ướt đẵm áo, nhưng đặc biệt là:

            Chiếc khố mẹ sanh vẫn ráo khô. Chiếc khố mẹ sanh chỉ cho cái tỉnh tỉnh lặng lặng có sẵn tự thuở nào, nó y nguyên không lay động. Nghĩa là thân tứ đại ngũ uẩn đau chớ chơn tâm tỉnh tỉnh lặng lặng không đau. V́ sống được với cái tỉnh tỉnh lặng lặng nên thân bệnh không chi phối Ngài, đau là bốn đại năm uẩn đau. Chỗ nầy có một thiền tăng hỏi một Thiền sư:

            - Ḥa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnh chăng?

            Ngài đáp:

            - Có.

            Tăng hỏi:

            - Cái ǵ không bệnh?

            Ngài nói:

            - Ui da! Ui da!

            Thân tứ đại bệnh, chớ cái biết rên “Ui da! Ui da!” không bệnh. Đó là cái đặc biệt trong nhà Thiền. Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ tu hành sáng đạo. Vua Trần Thánh Tông cũng thấy đạo và cũng là một cư sĩ. Nhờ tu thấy đạo nên khi cơ thể đau gần chết mà vẫn biết ḿnh có cái không đau, nên không sợ chết, gần đây có một số người tu nghĩ rằng, người tu cao lúc sắp chết ngồi yên thở nhẹ rồi đi mới hay. C̣n nếu gần chết mà bị đau lăn qua trở lại th́ không hay. Thấy như vậy chưa hẳn đă đúng. Tại sao? Xưa Phật là người tu thành tựu đạo quả tối thượng, nhưng kinh A hàm có ghi lúc Phật già thường hay đau lưng, có lần lưng đau quá, Ngài bảo tôn giả Anan xếp y Uất đa la cho Ngài nằm. Sau khi Phật nằm yên, Ngài bảo tôn giả Anan nói pháp Thất giác chi cho Ngài nghe. Tôn giả Anan vâng lời Phật, lập lại pháp Thất giác chi, tới Tinh tấn giác chi, Phật nói như vậy th́ tinh tấn mời đạt tới quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nói xong, Ngài ngồi dậy không nằm nữa. Đoạn kinh nầy cho chúng ta thấy lúc Phật già thân bệnh, pháp Thất giác chi do Phật dạy, thế mà khi nhắc lại, Ngài cũng tỏ ra tinh tấn ngồi dậy, không nằm. Chúng ta ngày nay, nhất là các vị trẻ đau, khi nghe nói pháp hoặc nghe băng giảng tới chỗ dạy nên tinh tấn, cũng nằm dài chớ không mạnh mẽ ngồi dậy. Đó là do không trân quí lời hay điều phải. Nếu quí th́ nhắc tới đó phải mạnh mẽ thực hành. Đây không phải là lễ phép, không phải là bắt buộc, mà do tâm tư của người quyết chí, khi nghe lời hay quí th́ can đảm dơng mănh làm theo. Người như thế mới là người biết thực hành pháp Phật dạy.

            Đến lúc bệnh nặng, vua thường lấy ngón tay gơ vào chiếc gối, như có sở đắc điều ǵ, chốc lát vua đ̣i bút viết bài kệ:

            Sanh như trước sam,

            Tử như thoát khố.

            Tự cổ cập kim,

            Cánh vô dị lộ.

            Dịch :

            Sanh như mặc áo,

            Chết tợ cởi trần.

            Từ xưa đến nay,

            Không đường nào khác.

            Nhà vua đau gần tắt thở, mà c̣n gơ tay lên gối nhịp theo kiểu ngâm thơ, rồi bảo lấy bút ra để viết. Điều nầy cho thấy thân bệnh Ngài cũng đau đớn, nhưng có cái ǵ đó làm cho Ngài mạnh lên không sợ không buồn. Nếu chúng ta làm vua mà sắp sửa chết, chắc không biết bao nhiêu việc dồn dập phải lo sợ, nào sợ giang sơn con cháu không giữ được, nào sợ thê thiếp không ai bảo bọc, nào sợ con cháu tranh giành ngôi báu v.v... đủ thứ lo. Nhưng vua Trần Thánh Tông lúc sắp chết c̣n nhịp gối làm thơ chơi không bận tâm, không lo sợ ǵ hết. Công phu tu hành của Ngài sánh với công phu tu hành của chúng ta cách nhau quá xa! Người tu nếu thấu được lư đạo, dù cho h́nh thức nào cũng đều hay hết. Cư sĩ mà thông lư đạo cũng hay, xuất gia mà thấu lư đạo càng hay hơn. Người xuất gia tu mà không thấu lư đạo, đối với cư sĩ thấu lư đạo th́ người xuất gia không bằng. Nhiều người xuất gia tự hào rằng ḿnh xuất gia là thầy của cư sĩ. Nhưng thầy mà không thông suốt lư đạo, c̣n tṛ th́ thông suốt lư đạo th́ ai hơn ai? Chỗ nầy phải xét lại. Chúng ta phải nh́n cho đúng lẽ thật, chớ nh́n h́nh thức bên ngoài, v́ h́nh thức chỉ là phần phụ thôi. Đến giờ phút sắp tắt thở, thân đau bệnh mà Ngài vẫn tự tại làm thơ:

            Sanh như mặc áo, chết tợ cởi trần. Ngài nói con người ra đời mang sắc thân giống như mặc áo, và khi chết giống như cởi áo, rất nhẹ nhàng thảnh thơi.

            Từ xưa đến nay, không đường nào khác. Người xưa cho đến người nay, ai cũng đi đường nầy, không ai đi đường nào khác, hễ có sanh là có tử, đó là chuyện thông thường. Nếu chỉ có một ḿnh ḿnh đi đường nầy, mọi người không đi th́ ḿnh tủi và sợ. C̣n ai cũng phải đi ai cũng phải tới th́ có ǵ phải sợ? Chỉ có điều thế gian thắc mắc là, quí thầy tu ăn chay tọa thiền cả ngày rồi cũng già chết. Người đời không tu, ăn mặn, hưởng mọi thứ dục lạc rồi cũng già chết. Tu hay không tu rồi cũng chết như nhau, đâu có ǵ hơn kém? - Cái chết của người tu và cái chết của người không tu có khác. Người tu chết, biết đường đi, nên không khủng hoảng lo sợ. Người không tu chết, không biết ḿnh sẽ ra sao nên hoảng hốt lo sợ, khác nhau ở chỗ nầy. Con người sanh ra ai cũng chết hết nếu nghĩ người tu không chết là lầm lẫn.

            Liền hét, nói: “Chữ Bát mở toang đà trao phó, c̣n đâu việc nữa đáng tŕnh anh”. Rồi vua đuổi hết kẻ hầu hạ, chỉ c̣n một ḿnh Nhân Tông đứng hầu một bên, thưa:

            - Bệ hạ c̣n nhớ lời của ngài Vĩnh Gia chăng?

            Tới giờ phút lâm chung rồi mà nhà vua vẫn c̣n hét. Ngài nói chữ bát mở toang đà trao phó đâu c̣n việc ǵ nữa để nói. Ngài đuổi hết mọi người ra, chỉ có Trần Nhân Tông đứng hầu một bên và nhắc lời của Thiền sư Vĩnh Gia:

            Liễu liễu kiến vô nhất vật,

            Diệc vô nhân hề diệc vô Phật.

            Đại thiên sa giới hải trung âu,

            Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất.

            Nhậm thị thiết luân đảnh thượng triền,

            Định tuệ viên minh chung bất thất.

            Dịch:

            Rành rành thấy, không một vật,

            Cũng không người chừ, cũng không Phật.

            Cơi cơi đại thiên bọt nổi trôi,

            Tất cả Thánh Hiền như điện chớp.

            Dẫu cho ṿng sắc trên đầu chuyển,

            Định tuệ sáng tṛn vẫn không mất.

            Đoạn nầy rất quan trọng đối với chúng ta, quí vị phải lưu tâm nhớ. Gần đây có nhiều người hỏi tôi: “Thưa thầy, người tu Tịnh độ khi sắp lâm chung, thân nhân mời quí thầy tới tụng kinh A Di Đà và niệm Phật để trợ niệm. C̣n người tu Thiền khi hấp hối, Tăng Ni tới làm ǵ? Ở đây vua Trần Thánh Tông hấp hối, Trần Nhân Tông dẫn mấy câu kệ trong Chứng Đạo Ca của Thiền sư Vĩnh Gia để nhắc cha ḿnh.

            Rành rành thấy, không một vật, cũng không người chừ, cũng không Phật. Tại sao Trần Nhân Tông dẫn những câu nầy? V́ khi thân tứ đại sắp rả, giống như con cua bị tách cái yếm ra, thịt da nó run run đau nhức ghê lắm. Lúc thân đau nhức nếu thấy đúng như thật th́ không bị nó làm loạn tâm. Thế nên Trần Nhân Tông dẫn lời của Thiền sư Vĩnh Gia, nhắc vua cha thấy thân, thấy cảnh vật không thật, kể cả người Phật cũng là tướng đối đăi không thật, chỉ có chân tâm tỉnh tỉnh lặng lặng mới là chân thật.

            Cơi cơi đại thiên bọt nổi trôi. Tất cả Thánh Hiền như điện chớp. Ngài nhắc tiếp, cả đại thiên sa giới như ḥn bọt trên mặt biển, cả Thánh Hiền như lằn điện chớp. Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian đều là giả dối không thật có đó mất đó.

            Dẫu cho ṿng sắt trên đầu chuyển, định tuệ sáng tṛn vẫn không mất. Ngài nhắc tiếp, dầu cho để cái ṿng sắt cháy đỏ quay trên đầu, th́ định tuệ của người thấy không một vật vẫn tṛn sáng không mất, được như vậy mới thấy đạo chân thật. Qua bốn câu kệ của Thiền sư Vĩnh Gia cho thấy, Trần Nhân Tông nhắc vua cha muôn vật trên thế gian không có cái ǵ thật hết. Không có một pháp thật th́ thân nầy đau đớn hay c̣n mất không quan trọng, phải làm sao cho định tuệ luôn luôn tṛn sáng mới là cứu cánh quan trọng.

            Vua nghe xong, bất chợt cười lên rồi gơ chiếc gối tụng:

            Rành rành thấy, không một vật,

            Cũng không người chừ cũng không Phật.

            Cơi cơi đại thiên bọt nổi trôi,

            Tất cả Thánh Hiền như điện chớp.

            Xong, ngay chiều hôm đó sấm gió nổi dậy, thấy một vầng ánh sáng tṛn rọi nơi bức vách ngăn, vua liền băng, hưởng thọ 51 tuổi, nhằm ngày 22 tháng 05 năm Canh Dần (1290).

            Giờ hấp hối vua Trần Thánh Tông nghe Trần Nhân Tông đọc những câu kệ của Thiền sư Vĩnh Gia, Ngài ôn đi ôn lại chơi, rồi nhắm mắt ra đi. Người không thấy đạo lúc đau sắp chết tâm rối loạn khổ sở, khổ v́ sợ mất người thân ở thế gian, sợ thân ḿnh cô lẽ không biết đi về đâu, sẽ ra sao? Đi vào cơi lành hay cơi dữ? Lo sợ đủ thứ. Vua Trần Thánh Tông là người tu thấy đạo nên không thấy khổ, nằm ôn kệ chơi v́ Ngài đă biết đường đi, nên nhắm mắt cười ra đi. Đó là điểm đặc biệt của cái chết của người thấu suốt đạo lư.

            Tác phẩm của vua gồm có:

            1. Văn Tập.

            2. Thiền Tông Liễu Ngộ Ca.

            3. Trị Giá Minh.

            Ngoài ra đều chép trong Cơ Cừu Tập.

            Vua Trần Thánh Tông là một ông vua tu ngộ đạo, những tác phẩm của Ngài để lại cho chúng ta thấy Ngài là người thấu lư đạo tường tận sâu xa, nên giờ phút lâm chung của Ngài rất tốt đẹp.

            Bây giờ tôi trở lại vấn đề tôi cho là quan trọng, là người tu thiền khi thân nhân hấp hối phải làm sao? Ở đây chúng ta thấy Trần Nhân Tông biết cha ḿnh hấp hối, Ngài đọc lên những câu kệ của Thiền sư Vĩnh Gia, nhắc vua cha đừng lo sợ để không khổ lúc lâm chung. Nhờ Ngài đọc những câu kệ ấy, nên nhà vua vui cười gơ nhịp tụng lại và sau đó ra đi rất nhẹ nhàng. Đó là cách trợ lực cho vua cha sắp chết của Trần Nhân Tông. Chúng ta là người tu thiền, đối với người sắp chết phải làm ǵ? Điều nầy tôi tra cứu kỹ khi xưa cư sĩ Cấp Cô Độc đau nặng sắp chết. Đức Phật hay tin cho tôn giả Xá Lợi Phất và A nan đến thăm.

            Tôn giả Xá Lợi Phất tới thăm, sau khi hỏi bệnh tăng, giảm thế nào rồi, Ngài khuyên Cấp Cô Độc không nên để cho mắt sanh thức rồi nhiễm theo sắc trần, không nên để tai sanh thức rồi nhiễm theo thinh trần... Tóm lại sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng khởi thức phân biệt, rồi chạy theo sáu trần. Sau đó Ngài nhắc Cấp Cô Độc chớ để tâm đắm nhiễm sắc thân tứ đại đất nước gió lửa mà sanh tham dục. Ngài lại nhắc thêm chớ để tâm đắm nhiễm thân ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức mà sanh tham dục. Ngài giảng kỹ những pháp nầy, Cấp Cô Độc nghe xong rơi nước mắt thưa:

            - Từ trước tới giờ con chưa từng nghe bài pháp như thế, bây giờ con mới được nghe.

            Tôn giả A nan cũng nhắc nhở khuyến phát Cấp Cô Độc. Nhắc nhở giảng giải xong, tôn giả Xá Lợi Phất và tôn giả A nan từ giả ra về. Sau đó không bao lâu, cư sĩ Cấp Cô Độc mệnh chung sanh lên cơi Trời Đâu Suất.

            Như vậy đối với Phật tử sắp chết, Phật và các đệ tử lớn của Ngài đâu có tụng kinh niệm Phật cầu siêu. Chỉ đến thăm và giảng đạo lư nhắc cho người bệnh nhớ và tin sâu Tam-Bảo mà an ḷng ra đi, chớ không đưa đón ǵ hết. Chúng ta ngày nay th́ quá tử tế, chờ chết xong đưa đi rồi mới ra về! Đó là giáo giới cư sĩ lúc hấp hối.

            Sau đây là giáo giới người xuất gia sắp mệnh chung. Bấy giờ có một Tỳ kheo trẻ mới xuất gia học đạo, lâm bệnh trầm trọng. Đức Phật tới thăm, hỏi:

            - Ông có hối tiếc điều ǵ không?

            - Bạch Thế Tôn, con có hối tiếc!

            - Ông có phạm giới không?

            - Bạch Thế Tôn con không phạm giới.

            - Không phạm giới, sao ông hối tiếc?

            - Bạch Thế Tôn, con mới xuất gia, đối với pháp thượng nhân con chưa có sở đắc, lúc mệnh chung không biết sanh nơi đâu, nên con hối tiếc.

            Đức Phật hỏi tiếp:

            - Do có nhăn căn nên có nhăn thức phải không?

            - Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

            - Ư ông nghĩ sao? Có nhăn thức nên có nhăn xúc, do nhăn xúc làm nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui phải không?

            - Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

            (Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư cũng nói như thế).

            - Này Tỳ kheo, nếu không có nhăn căn th́ không có nhăn thức phải không?

            - Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

            - Này Tỳ kheo, nếu không có nhăn thức th́ không có nhăn xúc. Nếu không có nhăn xúc th́ không có nhân duyên sanh cảm thọ khổ vui phải không?

            - Bạch Thế Tôn, đúng vậy!

            (Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ư cũng nói như vậy).

            - Vậy Tỳ kheo phải khéo tư duy pháp như thế. Lúc mệnh chung an ổn, đời sau cũng tốt lành.

            Nhắc nhở giảng dạy xong, đức Phật ra về, chốc lát sau Tỳ kheo trẻ mệnh chung. Lúc mệnh chung các căn của Tỳ kheo ấy thanh tịnh, dung mạo màu da tươi sáng, chứng được Niết bàn, chúng ta thấy Phật chỉ nhắc cho vị Tỳ kheo ấy muốn giải thoát th́ đừng chấp thân, đừng chấp tâm, đừng chấp cảnh, không chấp thân, không chấp tâm, không chấp cảnh th́ dứt tham sân si, tham sân si dứt th́ chứng quả Thánh. Nhắc nhở như thế là đủ rồi, Phật và đệ tử Ngài không có tụng kinh trợ niệm.

            Như vậy, từ đức Phật cho đến đệ tử Ngài, cho đến Trần Thánh Tông sắp lâm chung Trần Nhân Tông đến nhắc cũng na ná như vậy, chớ không tụng bài kinh nào cả. Ngày nay chúng ta tu thiền, khi có người bệnh nặng sắp lâm chung, chúng ta đến làm ǵ đây? Nếu t́nh nghĩa nhiều lắm th́ đến tụng bài Bát Nhă Tâm Kinh, để nhắc cho nhớ thân năm uẩn không thật, các pháp không thật. Tụng không e người bệnh không nhớ, v́ tâm bận duyên theo tiếng mỏ tiếng chuông, âm vang trầm bổng của lời tụng. Phải nhắc Bồ tát Quán Tự Tại dùng trí Bát nhă quán chiếu thấy năm uẩn đều không, liền qua hết khổ ách. Giải thích cho họ nghe, đánh thức cho họ thấy thân năm uẩn của họ không thật, để không c̣n tham ái thân, hết ái thân th́ si không c̣n. Tham hết si không c̣n th́ sân không có, tâm sáng suốt xả bỏ thân tứ đại dễ dàng, th́ sẽ tiến lên chỗ sáng sủa an vui. Nếu người Phật tử thường tụng Kinh Kim Cang th́ đọc những bài kệ trong Kinh Kim Cang như “Tất cả pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt, bóng...”, rồi giải nghĩa cho họ nghe để họ tỉnh. Như vậy là trợ niệm cho người trước phút lâm chung. Nhắc nhở như thế là đủ rồi, sau có muốn cầu nguyện thêm th́ đem tên vô chùa, mỗi tối tụng kinh quí thầy cầu nguyện cho. Chớ thường ngày không chịu tu, chết đến rước quí thầy quí cô đến tụng niệm suốt ngày đêm chắc ǵ được siêu? Lại thêm mất thời giờ! Thế nên thông lư đạo th́ việc làm đơn giản mà có giá trị thật, không thông làm nhiều rất mệt nhọc, mà kết quả không bao nhiêu. Đó là lẽ thật tôi nhắc cho tất cả nhớ.

]

 


[mucluc][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9]

[Trang chu] [Kinh sach]