[Trang chu] [Kinh sach]

33 VỊ TỔ ẤN HOA

[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]


2.- Tổ A-Nan (Ananda)

Sanh sau Phật 30 năm

Ngài con vua Hộc-Phạn, ḍng Sát-đế-lợi, ở thành Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-đạt-đa, em con nhà chú của Phật Thích Ca. Thuở nhỏ, ngài có nhiều tướng tốt và thông minh tuyệt vời. Đến 25 tuổi xin theo Phật xuất gia.

Một hôm, Phật cần chọn người làm thị giả, tất cả hội chúng lần lượt đứng ra xin làm thị giả, mà Phật không bằng ḷng. Sau cùng, Tôn-giả Đại-Mục-Kiền-Liên nhập định biết tôn ư Phật muốn A-Nan làm thị giả.

Đại chúng cử Tôn- giả Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, v, v…. đến yêu cầu Ngài làm thị giả. Ngài nhiều lần từ chối, song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc ḷng Ngài phải xin Phật ba điều, nếu Phật ưng cho, Ngài mới dám làm thị giả.

1/ Không theo Phật thọ trai riêng, nếu thí chủ không mời ngài.

2/ Không mặc y thừa của Phật.

3/ Không đến Phật phi thời. Thế-Tôn chẳng những chấp thuận lời xin của Ngài, mà c̣n khen ngợi Ngài thông minh biết dự đoán trước những điều sẽ xẩy ra. Thế là, Ngài theo làm thị giả Phật ngót 25 năm.

Hôm nọ, Ngài đi khất thực về đến tịnh-xá Phật, thấy Di mẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề đang đứng tựa cửa khóc. Di mẫu quần áo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ người bi thảm. Ngài đến gần hỏi duyên cớ. Biết Bà từ xa t́m đến xin Phật xuất gia, đôi ba phen năn nỉ mà Phật quyết định không cho. Ngài cảm động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được xuất gia. Phật vẫn nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí xin kỳ được mới thôi. Thế là mở đầu cho phái nữ xuất gia, chính Ngài là người tích cực khai đường vậy.

Chính đức Phật đă từng khen Ngài:

─ Thị giả của các đức Phật đời quá khứ, không ai hơn A-Nan, thị giả các đức Phật đời vị lai cũng không ai hơn A-Nan.

Và Phật khen A-Nan được tám điều chưa từng có v.v…

Sau khi Phật Niết-bàn, Tổ Ca-Diếp triệu tập các đại Tỳ-kheo kiết tập kinh điển, Ngài là người được toàn hội đề cử kiết tập tạng kinh… Khi sắp tụng lại lời Phật, Ngài nh́n qua đại chúng nói kệ:

Tỳ-kheo chư quyến thuộc

Ly Phật bất trang nghiêm !

Du như hư không trung

Chúng tinh chi vô nguyệt.

Dịch:

Tỳ-kheo các quyến thuộc

Vắng Phật chẳng trang nghiêm !

Ví như trong hư-không ,

Nhiều sao mà không trăng.

Nói kệ xong, Ngài đảnh lễ đại chúng, lên pháp ṭa mở đầu:

─ Tôi nghe như vầy, một lúc nọ Phật ở tại xứ….nói kinh…. cho đến trời người v.v…đều kính lễ vâng làm .

Ngài kiết tập kinh xong Tổ Ca Diếp hỏi đại chúng:

Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại có chỗ nào sai lầm chăng ?

Đại chúng đồng thinh đáp:

Chẳng khác những lời đức Thế-Tôn đă nói.

Một hôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp:

─ Khi Thế-Tôn phú chúc và truyền y kim-tuyến cho sư-huynh, c̣n có truyền pháp ǵ riêng nữa chăng ?

Tổ Ca-Diếp liền gọi:

─ A-Nan !

Ngài ứng thinh:

─ Dạ.!

Tổ Ca-Diếp bảo:

─ Cây cột phướng trước chùa ngă. Ngài nhơn đây tỏ ngộ.

Tổ Ca-Diếp bèn ấn chứng và đem chánh pháp nhăn-tạng truyền lại cho Ngài. Tổ nói kệ:

Pháp pháp bổn lai pháp,

Vô pháp vô phi pháp.

Hà ư nhất pháp trung,

Hữu pháp hữu phi pháp

Dịch:

Các pháp,pháp xưa nay,

Không pháp,không phi pháp .

Tại sao trong một pháp,

Có pháp,có phi pháp ?

Ngài đảnh lễ thọ nhận. Môn đệ của Ngài có hai vị xuất sắc, Thương-Na-Ḥa-Tu và Mạc-Điền-Để Ca (Mạc-Điền-Địa). Ngài chọn Thương Na Ḥa Tu làm người kế thừa tổ vị và truyền trao y bát lại.

Cảm thấy thân bèo bọt đă đến thời kỳ hoại diệt, đă t́m được người kế.thừa, Ngài dự định vào Niết-bàn, Ngài đến từ giả vua A-Xà-Thế, song không gặp vua. Ngài liền đi thẳng đến bờ sông Hằng, lên một chiếc thuyền ngồi kiết-già thả trôi lơ lửng giữa ḍng sông. Vua A-Xà-Thế hay tin Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng quan quân tùy tùng t́m đến bờ sông. Vua thấy Ngài ngồi trên thuyền ở giữa ḍng sông bèn đảnh lễ nói kệ:

Khể thủ tam giới tôn,

Khí ngă như chí thử.

Tạm bằng bi nguyện lực,

Thả mạc Bát-niết-bàn.

Dịch:

Lạy đấng tôn tam giới,

Bỏ con đến nơi nầy.

Tạm nương sức bi nguyện,

Xin chớ vội Niết-bàn.

Vua nước Tỳ-Xá-Ly nghe tin cũng đến bên bờ kia sông Hằng, đảnh lễ và nói kệ:

Tôn giả nhất hà tốc,

Nhi qui tịch diệt trường !

Nguyện trụ tu du gian,

Nhi thọ ư cúng dường.

Dịch:

Tôn giả sao quá nhanh,

Sớm vào nơi tịch diệt !

Xin tạm dừng chốc lát,

Để nhận con cúng dường.

Ngài thấy hai vua đồng đến khuyến thỉnh, bèn nói kệ:

Nhị vương thiện nghiêm trụ,

Vật vi khổ bi luyến.

Niết-bàn đương ngă tịnh,

Nhi vô chư hửu cố.

Dịch:

Hai vua ở an vui,

Chớ v́ thương buồn khổ.

Niết-bàn, tôi an tịnh,

V́ không c̣n các nghiệp.

Ngài giữ tâm b́nh đẳng ở giữa ḍng sông vào Niết-bàn. Hai vua họp nhau làm lễ thiêu thân Ngài và phân chia xá-lợi xây tháp cúng dường.


[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]

[Trang chu] [Kinh sach]