33 VỊ TỔ ẤN HOA
[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]
[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]
16. -Tổ La-Hầu-La-
Đa (Rahulata)Đầu thế kỷ thứ bảy sau Phật Niết-b
àn .Ngài ḍng Phạm-Ma ở nước Ca-Tỳ-La, Thuở nhỏ đă có sẵn ḷng mộ đạo. Khi lớn do cơ duyên trong vườn có cây mọc nấm, Tổ Đề-Bà giải thích nhơn do,mà Ngài được xuất gia. Sau khi được truyền tâm ấn,Ngài thống lănh đồ chúng du hóa nhơn gian,lần lượt đến phía Nam thành Thất-La-Phiệt gặp sông Kim-Thủy. Ngài bảo chúng :
-Các ngươi biết chăng ? Vừa thấy bóng năm đức Phật hiện dưới ḍng sông, ta lấy bát mút nước nếm có mùi vị lạ, ngược ḍng sông nầy chừng năm trăm dặm sẽ có bực chí nhơn ở, hiệu là Tăng-Già-Nan-Đề.
Ngài bèn dẫn chúng theo ven bờ sông trở lên,quả nhiên thấy Nan-Đề đang ngồi thiền trong thất đá.Ngài và đồ chúng
dừng lại xem,chờ đến bảy ngày Nan-Đề mới xuất định. Ngài hỏi Nan-Đề: -Thân ông định hay tâm ông định ?
Nan-Đề đáp: -Thân tâm đều định. –Thân tâm đều định sao có xuất nhập ? –Tuy có xuất nhập mà không mất tướng định,như vàng ở trong giếng,vàng ra ngoài giếng,thể vàng vẫn yên lặng. -Nếu vàng ở trong giếng,vàng ra ngoài giếng,thể vàng không động tịnh,th́ vật ǵ ra vào ? -<Nơi vàng không động tịnh th́ vật ǵ ra vào> ? Đă thừa nhận vàng
ra vào mà thể vàng không động tịnh. -Nếu vàng ở trong giếng th́ ra là vật ǵ ? –Vàng,nếu ra ngoài th́ ở trong giếng không phải vàng,Vàng nếu ở trong giếng th́ ra không phải vật. –Nghĩa nầy không đúng. –Lư kia chẳng nhằm. –Nghĩa
nầy đă ngă. –Nghĩa kia chẳng thành. –Nghĩa kia chẳng thành mà nghĩa của ta thành. –Nghĩa ta tuy thành mà pháp không có ta. –Nghĩa ta đă thành v́ ta mà không ta. –Ta mà không ta lại thành nghĩa ǵ ? –V́ ta không ta nên thành nghĩa của ngươi. –Nhơn giả thờ vị thánh nào mà được <không ta> ấy ? -Thầy ta là Bồ-Tát Ca-Na-Đề-Bà chứng được
<không ta>. Nan-Đề tán thán : -Cúi đầu lễ Đề-Bà,người tạo thành nhơn giả. V́ nhơn giả <không ta>, tôi muốn thờ nhơn giả. Ngài bảo : -V́ ta đă<không ta>, ngươi cần thấy ta ta. Ngươi nếu thờ nơi ta, biết ta chẳng ta ta.
Nan-Đề tâm được rỗng rang liền đảnh lễ nói kệ :
Tam giới nhất minh đăng, Hồi quang nhi chiếu ngă, Thập phương tất khai lăng, Như nhật hư không trụ.
Dịch : Ba cơi một ngọn đèn, Ánh sáng soi chiếu con, Mười phương đều sáng lạng, Như mặt trời trong không.
Nan-Đề nói kệ xong,lại đảnh lễ cầu xin thế độ. Ngài bảo: -Tâm ngươi tự tại chẳng lệ thuộc vào ta,cần ǵ nương nhờ mà cầu giải thoát. Một hôm, Ngài gọi Nan-Đề đến bảo :-Nay ta đă già không c̣n ở đời bao lâu, đại pháp nhăn tạng của Như-Lai trao lại cho ngươi. Nghe ta nói kệ :
Ư pháp thật vô chứng, Bất thủ diệc bất ly, Pháp phi hữu vô tướng, Nội ngoại vân hà khởi.
Dịch : Nơi pháp thật không chứng, Chẳng giữ cũng chẳng ĺa, Pháp chẳng tướng có không, Trong ngoài do đâu khởi.
Nan-Đề nghe kệ xong càng thêm cung kính, nói kệ tán thán :
Thiện tai đại thánh giả, Tâm minh du nhật nguyệt, Nhất quang chiếu thế giới, Ám ma vô bất diệt.
Dịch : Lành thay ! bậc đại thánh, Tâm sáng như nhật nguyệt, Ánh sáng chiếu thế giới, Ma tối diệt hết sạch.
Ngài ngồi trên ṭa lặng lẽ thị tịch. Bốn chúng xây tháp cúng dường .
[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]
[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]