33 VỊ TỔ ẤN HOA
[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]
[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]
20. -Tổ Xà-Dạ-
Đa (Jayata)Giữa thế kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn.
Ngài người Bắc-Ấn, trước đă sẵn ḷng mến đạo, thông hiểu đạo lư. Nhơn du lịch miền Trung-Ấn gặp Tổ Cưu-Ma-La-Đa, Ngài nhờ giải nghi, rồi phát tâm xuất gia. Sau được truyền tâm ấn. Ngài thống lănh đồ chúng du hóa các nước,lần lượt đến thành La-Duyệt. Trong thành nầy hiện có số đông chúng tăng học đạo. Nghe tin Ngài đến,họ đua nhau đến yết kiến. Chúng đến trước nhất,người lănh đạo là Bà-Tu-Bàn-Đầu. Ông nầy tu hành tinh tấn suốt ngày đêm không nằm và sáu thời lễ bái,mặc y vá, ăn một bữa,ḷng đạm bạc không mong cầu. Đồ chúng nhơn đó rất kính trọng ông.
Ngài gọi đồ chúng bảo: -Người khổ hạnh tu hành thanh tịnh nầy (Bà-Tu-Bàn-Đầu) có thể được Phật đạo chăng ?
Chúng đáp: -Thượng nhơn nầy tu hành tinh tấn như thế,đâu không được đạo. Ngài bảo: -Người nầy cùng đạo xa vậy.
Dù khổ hạnh trải qua nhiều kiếp,chỉ giúp cho gốc vọng, đâu thể chứng đạo ? Chúng hỏi: -Nhơn giả chứa đựng được pháp ǵ mà chê thầy tôi ? Ngài đáp: -Ta chẳng cầu đạo cũng chẳng điên đảo,ta chẳng lễ Phật cũng chẳng khinh mạn,ta
chẳng ngồi măi cũng chẳng lười biếng,ta chẳng biết đủ cũng chẳng tham cầu.Bà-Tu-Bàn-Đầu nghe lời nầy vui vẻ nói bài kệ tán thán: Khể thủ tam muội tôn, Bất cầu ư Phật đạo, Bất lễ diệc bất mạn, Tâm bất sanh điên đảo, Bất tọa bất giải đải, Đăn thực vô sở hảo,Tuy hoăn nhi bất tŕ, Tuy cấp nhi bất tháo, Ngă kim ngộ chí tôn, Ḥa nam y Phật giáo Dịch: Đảnh lễ tam muội lớn, Chẳng cầu được Phật đạo, Chẳng lễ cũng chẳng khinh, Tâm chẳng sanh điên đảo,Chẳng ngồi chẳng lười biếng, Chỉ ăn không cần ngon, Tuy hoăn mà không chậm, Tuy gấp mà chẳng thô, Nay con gặp chí tôn, Cúi đầu vâng Phật dạy.
Ngài bảo chúng: -Người tu hạnh đầu đà nầy, bọn ngươi không thể b́ kịp.V́ ông ấy kiếp trước tu hạnh bất khinh nên mới được như vậy.Vừa rồi,ta chê ông, bởi thấy ông đạo tâm tha thiết,sợ e như sợi đờn thẳng quá phải đứt nên ta không
khen ông, muốn ông tiến đến chỗ vô sở đắc và dừng trụ nơi đất An-Lạc. Ngài lại gọi Bàn-Đầu hỏi: -Ta nói trái ư ông,
tâm ông được chẳng động chăng ? Bàn-Đầu thưa: -Đâu dám động tâm.Tôi nhớ bảy đời về trước sanh cơi An-Lạc,v́ mộ đạo nên thờ trí giả Nguyệt-Tịnh làm thầy. Thầy Nguyệt-Tịnh dạy tôi: <Không bao lâu nữa ngươi sẽ chứng quả Tư-Đà-Hàm, nên siêng năng tinh tiến. Phàm tu hành như trèo lên cao, phải cố gắng tiến lần lên, không cho sụt xuống. Nếu lỡ có sụt, muốn trèo lên lại càng khó >.Lúc đó, tôi đă tám mươi tuổi, nương gậy mới có thể đi được.Khi ấy, gặp Bồ-Tát Đại-Quang-Minh ra đời, tôi muốn đến lễ Ngài, bèn đi đến tịnh-xá, lễ bái xong trở về. Chợt gặp thầy Nguyệt-Tịnh quở
trách tôi: <Dốt quá, tại sao ông lại khinh cha trọng con ? Hôm trước,ta thấy ông sắp được chứng quả, hôm nay đă mất>
Khi ấy, tôi tự cho là không có lỗi, nên không phục những lời quở ấy.Tôi cầu xin thầy Nguyệt-Tịnh chỉ lỗi cho tôi.Thầy
Nguyệt-Tịnh dạy: -< Vừa rồi,ngươi đến đảnh lễ Bồ-Tát Đại-Quang tại sao lại dựng cây gậy vào mặt Phật vẽ trên vách,
Ngươi do lỗi nầy nên sụt quả vị >.Tôi nhớ kỹ lại, thật đúng như lời thầy Nguyệt-Tịnh quở.Từ đó về sau, phàm có nghe lời nào, chẳng dám không tin. Dù bị những lời chửi mắng vẫn coi như gió thổi ngoài tai. Huống là, nay Tôn-giả dùng
chánh pháp chỉ dạy th́ đâu dám phiền buồn. Cúi xin đấng đại từ thương xót đem đạo mầu chỉ dạy cho con.
Ngài liền dạy: -Đại pháp nhăn tạng của Như-Lai, nay ta trao cho ngươi, ngươi nên truyền bá chớ để dứt mất. Nghe ta nói kệ: Ngôn hạ hiệp vô sanh, Đồng ư pháp giới tánh, Nhược năng như thị giải, Thông đạt sự lư cánh .
Dịch: Nói ra hợp vô sanh, Đồng cùng tánh pháp giới, Nếu hay hiểu như thế, Suốt thông sự lư tột .
Bà-Tu-Bàn-Đầu lễ bái vâng lệnh. Ngài ngồi ngay trên ṭa lặng lẽ qui tịch. Chúng hỏa táng thu xá-lợi xây tháp thờ .
[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]
[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]